Nguyễn Ngọc Tư - Riêng tư vừa đủ...

5,622
9
38

metyruoi

Active Member
Mương rộng hào sâu
Tản văn


Hồi đầu cũng không ai nghĩ tới chuyện làm một ranh giới giữa hai nhà.

Con mương được đào chỉ vì lúc lập vườn, người ta cần đất để lên liếp, đắp bờ, trồng mấy thứ cây ăn trái lâu năm. Mùa gặt, lần xuồng theo đường nước ấy chở lúa từ ngoài ruộng sau về sân phơi cũng tiện. Vậy là giữa hai khu vườn hai nóc gia có một con mương rộng chừng hai, ba thước tây, chạy dài đến hết đất.

Những thứ cây mọc hai bên bờ mương không quan tâm đó là biên giới, tầng lá đan vào nhau. Gốc ổi sẻ vườn kia vẫn vô tư rụng trái chín vườn này. Rau muống, cần nước mọc chen nhau, nhà nào muốn ăn nấy hái. Bầy gà cứ bay qua bay lại, bạ đâu đẻ đó, gốc chuối đống rơm, không quan tâm chuyện trứng nằm vườn nào mới phải. Giàn bầu, mướp vắt dây qua mương, trái phía đâu cũng thơm phức nồi canh nấu với tép đất. Đoạn giữa mương bắc cây tre hay thân so đũa cho tiện qua lại sẻ chia vài viên chè trôi nước, mượn ít tỏi tiêu những ngày chưa thể đi chợ xa, mà khỏi phải vòng ra lộ cái. Vườn dày cỏ tới cỡ nào, cũng có con đường mòn mà người hai nhà thường đi tắt để qua lại với nhau.

Và đám con nít cũng tự do như ong và chim, không coi con mương là thứ ngăn trở, bất tiện. Mùa khô, mương cạn lòng, không cần cầu tre, tụi nhỏ chỉ phóng vèo đã qua vườn khác. Lúc bà mẹ kêu ới đứa trẻ vẫn còn lăn lóc đất láng giềng, nhưng nó lên tiếng dạ thì đặt chân bờ liếp nhà mình. Vậy là tránh được tội “suốt ngày xách đít đi chơi bên xóm”. Thằng nhỏ nhà này cũng hay oằn nhánh bình bát cho con bé nhà kia hái trái chín đem dầm đường.

Gần tết nước giựt lộ nửa vách mương, mùa đìa. Tụi nhỏ hai nhà rủ rê nhau đắp chặn từng đoạn mương bắt cá. Lựa mấy con lóc, trê vàng lớn nhất đốt lửa nướng trui cùng ăn bên bờ mương, mớ cá còn lại chia đều cho hai căn bếp, bữa cơm cũng phải rủng rỉnh đến tận một tuần. Lá rụng vào mương cứ mỗi năm mỗi dày, hai nhà thay phiên đào một vài lớp bùn nhão bồi lên gốc dừa. Thứ đất tan chảy vào đâu, cây oằn nhánh sai trái ở đó.

Những con mương ranh cứ nằm thanh thản giữa bao nhiêu khu vườn miền Hạ, với cá trong lòng và bèo trên mặt nước, với tiếng trái rụng sau cú chao mình của lũ chim đêm, với những cuộc lại qua của con người bất chấp đôi bờ xa hơn một tầm tay với. Mương luôn bị vượt qua một cách dễ dàng, bằng cách người quăng kẻ bắt lấy những món bánh nhà quê thơm thảo, hay cú đu nhánh cây để búng mình sang bờ gọn bân của trẻ con. Gặp buổi cùng làm cỏ vườn, cuộc trò chuyện của người hai nhà không vì mương nước lạnh mà thôi giòn giã. Nhất là khoảng tháng tư cuối hạn khi lòng mương cạn tới đáy, cây mọc hoang dại hai bờ đã được đốn làm củi chụm, mương chỉ là một hõm đất trũng đến gà con cũng có thể băng qua.

Lúc ấy ai mà biết được đến một ngày, cũng những đứa trẻ ngày xưa, ai có gậy cầm gậy ai có dao cầm dao, máu vằn tia lên mắt, đứng hai bên bờ lăm le xông vào nhau chỉ vì cái ranh đất đổ bằng tê tông không thẳng. Xê dịch một tấc, nghĩa là được/ mất một tấc vàng. Ông bà mình xưa giờ nói đâu trúng phóc đó, đâu có giỡn chơi.

Tên người không đổi, vẫn là Tư Chèo Bẻo, Sáu Đực, Út Lớn, nhưng thời gian và cuộc mưu sinh đã sắm cho đám trẻ xưa những gương mặt vằn vện, gai góc. Con mương ranh lâu rồi không còn ai đào đất bồi liếp, giờ cạn chỉ săm sắp nước vào mùa mưa. Mọi thứ phơi ra hết, nhưng khó mà tả được cái rộng, sâu của làn nước lạnh lẽo trong tâm tính con người.

Con mương ranh mà người hai nhà từng cùng tắm táp sau buổi làm đồng về, giờ họ cùng tắm hằn thù hung hiểm.
 
5,622
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Nguyễn Ngọc Tư - Riêng tư vừa đủ...

Út Đèo, người mơ mộng

Tiểu phẩm : Tư Bờ Lau

Nhà Đèo vẫn còn giữ tấm ảnh trắng đen chụp nó hồi năm tuổi, mũ miện bằng vỏ bưởi, khăn tắm làm hoàng bào, gương mặt kiêu sa y như cô công chúa mà nó đang nhập vai vào. Coi bọn nhỏ chung quanh là quân hầu, có lần nó tiện miệng kêu má, “bây đâu, dọn cơm ăn coi”, bị quất mấy roi tét đít.

Những khi nhìn lại cái ảnh đó, Út Đèo cho rằng tánh mơ mộng của mình phải từ đâu đó trong máu. Mười hai tuổi, ngồi mân mê đám mụn cơm dày trên mặt, nó hình dung lớn lên sẽ thi hoa hậu thế giới (đương nhiên là huê hậu Việt chắc mẻm mang tên Nguyễn Thị Út Đèo rồi), giựt luôn cái giải người đẹp toàn cầu nhờ câu trả lời kinh điển, “cái đẹp cứu rỗi thế giới còn người đẹp cứu rỗi những đại gia”. Út Đèo tưởng tượng cảnh người đẹp Brazil, Venezuela phải khóc ròng vì tiếc nuối, khi nó được người ta gắn cái vương miện lên đầu. Má ngồi chợ bán cá, nhiều khi tức vì con gái để đầu óc ba khơi, biểu Út Đèo “coi kiếng đi con”. Kiếng là thứ thật thà, con Út Đèo trong đó chân chừng sáu tấc, da được đám ghẻ thêu hoa, mặt hình tam giác, một bộ phận không nhỏ răng đã bị sâu, mắt lé. Nó cãi “nhưng mà nhan sắc con làm người ta bối rối”. Cái đó thì phải thừa nhận, ai gặp nó cũng bâng khuâng khi rõ ràng nó dòm lom lom về phía mình nhưng thiệt tình là nó nhìn thằng kế bên.

Lụi hụi cũng tới tuổi cập kê, nồng độ mơ mộng trong Út Đèo cũng đậm lên. Đám trai trong xóm, trong chợ cá vẫn hay đờ đẫn ra trước ánh nhìn dương đông kích tây của con nhỏ, nhưng đều bị nó dẹp qua một bên. Đèo chờ đại gia, hoặc tệ lắm thì cũng là con trai đại gia. Nhiều khi cũng hờn giận má sao không đặt tên nó có chữ Hà, vì theo như các nhà nghiên cứu, gì dính tới Hà, dù là Hà Bá thì tỷ lệ lấy chồng giàu cũng cao hơn là không có. Thím bán mắm mồng gà chuyên gia dội nước lạnh, cười mai mỉa “người ta đại gia, sao lạc tới cái chợ chạy tem hem này mà gặp mày ?”. “Trời”, con Út Đèo phẩy tay, “dễ ợt”. Ví dụ như bữa nọ anh đại gia đi chuyên cơ ngang qua thì hết nhiên liệu, ảnh sẽ đáp máy bay xuống đổ xăng. Trong lúc chờ đợi ảnh đi dạo quanh, ghé vô ngay cái quán bà Ba Mập, đúng lúc nó đang ngồi ăn hàng và nhiều chuyện ở đó. Vào khoảnh khắc nó sẽ ngẩng đầu lên, đưa tia nhìn khiến thiên hạ bối rối ra, anh đại gia sẽ cháy khét lẹt trước cú sét ái tình. Duyên trời định, dù chạy xe Lamborghini Aventador hai mốt tỉ cũng cán đinh bể vỏ như thường.

Kịch bản là vậy, con Út Đèo chờ cho tới năm ba mươi bảy tuổi, tiêu chuẩn hạ xuống còn chú già Đài Loan cà nhắc, nhưng cuộc coi mắt xem hàng nào người ta cũng lắc đầu. Một bữa đợi thằng Lý Chút Tùng lùn chút tí nhậu xỉn đi ngang, Út Đèo ỏn ẻn ngoắc nói vô đây chơi cái này vui lắm. Bốn tháng sau khi bụng vừa đội áo, Đèo kịp về làm vợ thằng nhỏ bốc vác trong chợ.

Bữa đói bữa no, dù vậy Út Đèo chưa bao giờ nguôi mơ mộng. Nó mua sữa ký cho con uống, và tưởng tới chuyện đưa con vào trường điểm, lớn lên con làm tổng giám đốc của những công ty Vina mỡ màng, béo múp. Năm mươi tuổi, da Út Đèo điểm xuyết thêm vào bông đồi mồi màu nâu cánh gián, hai mắt vẫn ghẻ lạnh nhau sau nội chiến, nó chính thức phải lòng anh Kim Tan trong mấy bộ phim Hàn. Cứ hình dung ảnh ghì ôm mình từ phía sau, trùm áo len của ảnh vào người mình, Út Đèo rung động tới mức không nghe đứa con gái của mình kêu má ơi nhà hết gạo.

Mơ mộng đâu có tốn kém, nên cứ mơ cho hoành tráng. Tơ tưởng phi công Hàn lái máy bay Út Đèo đâu có gì sai, cũng chính đáng như như bà nội trợ mơ trên mâm cơm không món nào có độc, cô giáo mơ không phải bù đầu với trăm loại giáo án, bà già ước có răng để ăn khô mực. Út Đèo có lần chứng minh cho chợ cá thấy đâu phải lúc nào mình cũng ở trên trời, khi thỏ thẻ tâm tình rằng mỗi tối nằm bên ông chồng xỉn quéo, Đèo ước phải chi cái gì trên người chồng dài thêm một chút thì hay. Mấy chị kia cũng ngậm ngùi, ờ thì ít nhất cũng phải bằng trái dưa leo chớ.

Vậy nên đêm đêm Út Đèo vẫn mơ tưởng về dưa leo củ cải, và nghĩ coi năm mình bảy mươi ba tuổi thì mặc áo tắm nào khi đi biển Vũng Tàu với anh chồng sau mang tên Putin. Út Đèo chỉ có mỗi niềm tuyệt vọng nho nhỏ, là bầy con bảy đứa không ai có khả năng mơ mộng phi thường như mình. Có bữa thằng Năm tay chống cằm ngó mong ra cửa, Út Đèo tưởng con đang mơ làm ca sỹ triệu đô, nhưng câu trả lời của nó bèo bọt hơn mong đợi, “tui chờ cho xe mít chạy ngang đây bị lật để chạy ra giựt mấy trái ăn chơi, hổm rày thèm mít quá trời”.
 
5,622
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Nguyễn Ngọc Tư - Riêng tư vừa đủ...

Một chương (hay là Chương Một)


Mật ánh sáng


Bà nội nhỏ là đào hát.

Lần đầu tiên gặp nhau trong tiệm nước bên đình, ông nội không cách nào bứt mắt khỏi người lạ. Hai chân rút lên ghế, má tì vào đầu gối, chậm rãi gặm móng tay, da cổ xanh và nhợt nhạt của một người thiếu ngủ lâu ngày. Tiệm nhỏ, khói thuốc thơm quầng quã không tan, phủ lên điệu bộ lười nhác của bà nội nhỏ ít nhiều ma quái. Đàn bà ở Nhơn Thành chẳng ai có cái dáng vẻ vậy, họ tất tả như đã sẵn từ lúc hãy còn là bào thai mẹ đeo lúc lĩu ra đồng.

Sau này khi đón bà nội nhỏ về, suốt ngày bà luôn trễ nãi như mèo. Ông nội mua quế về cho bà gặm thay móng tay, mồ hôi mang theo mùi quế làm người bà lúc nào cũng se cay. Cả xóm hồi đầu trầm trồ làm sao một con đàn bà sống ở cái xứ đồng bãi này lại có thể dậy lúc mặt trời lên quá đọt dừa, ăn nhỏ nhẻ và suốt ngày lừ đừ lử đử. Tuồng như mặt trời làm cho bà phát bệnh, mỗi ngày qua là một cơn mộng du. Nằm võng ngó mưa hay đứng dưới vòm bông giấy không có nghĩa là bà đang thức. Nhóm bếp một lần cũng không, nói chi cơm cấy cơm cày.

Bà nội nhỏ chỉ thật sự thức dậy lúc đêm buông. Ông nội lấy cái đèn măng sông xuống hớn hở châm dầu, bơm cho khí nén chật bung, rồi bùng cháy thành một thứ ánh sáng trắng dạt trôi bóng tối. Ánh sáng này ông nội mua từ cháu cố của hội đồng Quyền với bảy chục giạ lúa cùng một con trâu cày. Ông vẫn tức mình không kịp đổi hai ngọn măng sông còn lại trong mớ gia sản lụn bại theo khói bàn đèn của gã ghiền thuốc phiện kia, trước khi chúng lưu lạc ở một tiệm cầm đồ nào đó ngoài chợ quận. Nỗi tiếc nuối ấy cựa mình khi ông dắt tay bà nội nhỏ đặt chân đến bến sông, cảm thấy hỗ thẹn vì trăng hai mốt không làm cho ngôi nhà và cái xóm Nhơn Thành bớt đi vẻ nghèo nàn tăm tối. Trong một khoảnh khắc nào đó ông nội đã nghĩ nơi này không xứng với người đàn bà mảnh mai đang đi bên cạnh, mặt và lòng tay lạnh dưới trăng. Nhưng bà nội nhỏ vẫn xăm xăm bước, nói mỏi lưng rồi, thèm nằm quá.

Suốt đường về bà không hề hỏi ông đưa bà đi đâu, ông giàu hay nghèo, có bao nhiêu đất. Vợ chồng bầu gánh ôm tiền dong ghe trốn mất ngay khi chưa vãn tuồng. Thời loạn lạc, rã gánh như cơm bữa, nghệ sỹ là bèo trôi đâu tấp đó. Đào kép chửi um lên rồi thấy cũng chỉ mình nghe, quá giang xuồng xã trưởng về ngủ đỡ trong đồn Chẹt, họ phẩy tay “mai tính”. Bà nội nhỏ bị bỏ lại với mấy anh em hậu đài vô danh. Ông nội lại gần người đàn bà mà ba mươi phút trước là con mẹ chủ chứa nhẫn tâm, nói “xuồng tôi đằng kia”. Ông biết tìm bà ở đâu, đơn giản bởi vì chưa bao giờ rời mắt khỏi bà, kể cả lúc bà ngồi vẽ mặt. Cảnh duy nhất trong tuồng Một kiếp phấn hương mà ông nội quan tâm là cảnh bà chủ chứa có cái cười ngọt rợn, đuôi mắt cũng ngọt rợn khi kéo nữ chính vào căn phòng có tên thầu khoán đang chờ. Xuất hiện chừng mười lăm phút, nhưng bà kịp làm cho cả rạp tan nát theo thân phận của cô gái quê kia. Những tình tiết còn lại của vở tuồng ông nội đã thuộc lòng, rằng con mẹ chủ chứa sẽ không bao giờ xuất hiện nữa. Đẩy cô gái rơi vào vòng tay khách làng chơi, thì việc của bà đã xong. Buổi coi hát của ông nội giờ chỉ còn cảnh bà để nguyên bộ đồ diêm dúa đứng ở hậu đài nhìn đắm đuối ra sân khấu. Bà soi gương mặt mình vào chậu nước tẩy trang rất lâu, tuồng như còn nấn ná trước khi từ giã vai diễn. Hình ảnh đó làm ông xúc động, như lúc chiều nhìn thấy bà liếm láp củ khoai luộc nguội ngơ, sợ nó đau. Cho tới lúc hạ màn, bà hát theo tuồng, đôi khi có những đoạn thoại bà còn đi trước họ. Một thằng nhỏ đứng nép bên màn kêu, “má, lại đây nhắc tuồng giùm luôn, ngồi đó ca chi một mình”. Tuổi chỉ đáng em bà, nhưng thằng nhỏ biết cách xưng hô sao cho những cô đào hết thời biết thân biết phận. Nhìn thấy gã đàn ông lẽo đẽo đi theo mình, nhưng bà không chút biểu hiện nào vì vẫn còn loay hoay ở trong vở tuồng sắp vãn.

Lúc đó ông nội chưa tin người đàn bà đó chỉ sống thật sự trước đèn, dù chứng kiến thời khắc sân khấu sáng lên và bà trút bỏ vẻ biếng nhác để cái mầm rạo rực bung nở từ bên trong, biến thành một con người tràn đầy sức sống. Tuồng như cọng tóc cũng nhảy múa. Biết bầu gánh trốn, bà nội nhỏ vẫn tỉnh tươi thu dọn phục trang bạn diễn bỏ tứa trong sân, cho đến khi ngọn đèn cuối cùng của sân khấu tắt ngấm nhấn chìm bà trong thứ bóng tối lờ lợ của trăng già.

Bước xuống ghe của người đàn ông xa lạ, bà nội nhỏ quấn tấm vải viết tên đào kép quảng cáo trước rạp để đỡ ngấm sương. Trên đó không có tên bà, dù chỉ là vài ba chữ nhỏ, dù năm bảy năm trước đây cô Tư Phượng của gánh Mai Hoa Trang còn làm mưa làm gió ở những đêm hội kỳ yên miền Hạ. Giờ bà ngồi mũi ghe của ông nội, đầu lút trong tấm vải phai màu, rời rã như cái đèn cầy sắp cạn đến đáy, tắt queo.

Nhưng ông nội biết cách làm bà cháy lên, với mớ ánh sáng bà được uống, đêm đêm. Tỉnh thức, hít thở, sống động. Chuyện cô vợ nhỏ diễn tuồng dưới đèn măng sông mỗi tối làm tiếng tăm ông nội vang xa, hơn cả hồi ông thừa kế sáu mươi ba công ruộng. Hai cái đèn uống dầu kinh khủng, đó là chưa nói lưới măng sông bên trong – thứ quan trọng nhất của cây đèn – cũng rất đắt tiền. Nhưng từ bà nội nhỏ về, nhà không đêm nào không sáng. Dân cốt cựu ở Nhơn Thành vẫn còn nhớ quãng đó cứ chạng vạng là bà già con nít rủ nhau tới nhà ông nội coi đào Tư Phượng hát cải lương. Hồi đầu bà ca diễn một mình, sau có thêm mấy nhỏ trong xóm thay nhau làm tiểu đồng, tì nữ. Như thiêu thân, chạng vạng là cả xóm lao đến nhà ông nội bởi thứ ánh sáng không thể cưỡng lại nổi của những màn ca diễn xốn xang. “Xóm Nhơn Thành mình chưa bao giờ sáng giống như vậy”, một người già lim dim nhớ. Cái ánh sáng không phải từ đôi đèn, mà còn từ người đàn bà xa lạ, không quá khứ tấp vào xóm nhỏ này, mỗi đêm thắp lại thân phận của những người đàn bà khác. Họ đổ bóng lên nhau, một Lan vùi chôn xác bướm khô với ảo tưởng có thể quên được tình nhân, một Thoại Khanh lận đận tìm chồng, một Thị Kính ngồi trong chùa ru con thiên hạ, một Thị Minh nấu bữa cơm cuối cùng cho chồng và con trai trước khi nhảy xuống sông trầm mình. Tiếng hát của bà cực mảnh và cong, nhưng an lòng người nghe bởi cảm giác nó dai không có gì có thể bứt đứt. “Hai nấm mồ song song/ để xuân hạ thu đông/ dẫu mưa nắng dãi dầu/ cùng hứng chịu chung đôi”, chỉ mấy câu kiểu vậy thôi mà những chéo khăn, vai áo của đàn bà Nhơn Thành đã thấm bao nhiêu nước mắt.

Lúc đó bà nội đang cất lên cái vó ròng ròng nước.

“Cô Tư Phượng đây từ giờ sống với tôi”, câu nói một khuya của ông nội ngay thềm cửa đã đẩy bà nội ra chòi vó cất chới ngoài sông. Từ chối cái ánh sáng mà vợ nhỏ của chồng tự cháy để ban phát cho người Nhơn Thành, bà nội giữ riêng hai ngọn đèn chong đỏ lói quét cái tóc khói đen ngòm. Một treo đầu vó để dẫn dụ cá tôm (đâu phải chỉ con người mới đam mê ánh sáng), đèn kia bà vặn nhỏ lửa, đặt trong chòi. Khói đèn ám đến đường chỉ thêu uyên ương trên gối. Tháng mười gió trở ngọn, đòng đưa tiếng hát của bà nội nhỏ ra sông, bà nội múc nước xối vào lòng nước, át đi thứ âm thanh vọng từ bờ. Tuyệt không lên nhà vào buổi tối, bà nội khiến kẻ có mặt trong những đêm hát phải sống trong cảm giác bứt rứt bởi đã đứng về phía cô đào tỏa nắng dưới đèn. Họ thấy mình đang phản bội người đàn bà hiền hậu đang cất vó dưới sông kia.

Tàu sắt Mỹ cứ vài ba bữa đi tuần ngang qua vó sông, năm ký tép đất bà nội đổi được lít dầu trắng. Bữa nào bắt được con Sầu Ngư trên chục ký bà đòi năm bảy lít. Lần được thưởng hơn hai chục lít bà đã cất cái vó nặng khủng khiếp, gãy cả bốn gọng, nằm co trong lưới là một xác lính Mỹ say rượu té sông. Mớ dầu đó bà mang lên nhà, nuôi sáng hai ngọn đèn măng sông của ông nội. Ngày vô bếp nấu hai buổi cơm canh, thời gian còn lại trong ngày bà nội cắp nón ra ngoài rẫy. Lỡ vô tình đụng mặt bà nội nhỏ ngoài hè, bà nội chỉ gật đầu cười, hỏi “mạnh giỏi, cô ?” như gặp một người xa xứ lâu về. Không tỏ ra hằn học với người đàn bà riêng của chồng, bà nội cũng chẳng khóc.
Nhà có nhiều người khóc lắm rồi, bà nội nói, mỗi khi có ai hỏi đận đó bà có tủi thân không. Hơn một lần ông nội ra chòi vó, nước mắt ràn rụa. Chập tối ông say rượu, tự nguyện làm cái chuông kêu leng keng lúc chàng Điệp gọi người yêu đang lánh đời trong chùa. Bà nội nhỏ tức thời ra bộ cắt đứt dây chuông. Ông tiếp tục leng keng, bà nội nhỏ bỏ tuồng, đi vô buồng một nước. Sáu tháng sau khi rời gánh hát, bà nội nhỏ vẫn diễn cho ra diễn, không phút nào trửng giỡn dưới đèn. Nhưng giống như dân Nhơn Thành bắt đầu coi cô đào là một người hàng xóm, ông nội cũng lẫn lộn người vợ mở nút áo mình lúc nửa đêm với những cô nàng bà nội nhỏ hóa thân.

- Trước sau gì cổ cũng bỏ đi thôi.

Ông nội trệu trạo than cùng bà vợ lớn. Ngồi cạnh ông, bà im lặng, lâu lâu rướn người cất lên một vó đầy sao, bà không kể hai lần thấy người ta khóc khi ghe hát ngang qua kêu ô - pạt - lưa dậy động hai bờ “Tối nay đoàn Sóng Giang hát Kiếp nào có yêu nhau, bớ bà con cô bác !”. Cơn mộng du của cô đào hát tưởng không có gì xuyên thấu, kể cả lửa hôm cháy nhà xuồng, nhưng chỉ tiếng rao mà đâm thủng tới tim.

Cái ngày vắng bóng người thương ông nội đã lường trước, nhưng hôm bà nội nhỏ bỏ đi rồi, ông vẫn buồn sát chiếu. Bà nội bưng cái đèn hột vịt đỏ lòm đi vào gian buồng mà gần hai trăm đêm rồi bà không ghé qua, bưng theo chén cháo trắng với ít tép rang. Ông nội vẫn gác tay trên trán, không thèm mở mắt. Bà nội soi muỗi trên vách mùng, kêu “ăn lấy sức chờ, biết đâu người ta quay về”. Rồi bà lẹt quẹt lê dép ra. Bằng cách nào đó, bà nội đã nuôi ngọn đèn nhỏ của riêng mình bền dai bởi chỉ cần đi quá nhanh, hay thở quá mạnh cũng làm chúng tắt phụt giữa chừng.

Một ngày khô ráo giữa mùa mưa năm sau, tàu đò chạy từ Ngã Bảy về gởi cho ông nội một em bé chừng ba tháng tuổi. Gói trong mớ tã là thơ của bà nội nhỏ, ghi rằng bà chưa kịp đặt cái tên tử tế cho nó, lúc sinh ra tới giờ bà gọi nó là chó con. Nhìn đứa trẻ ngo ngoe giữa đống khăn, một ý nghĩ lạnh tanh xuất hiện trong đầu ông nội, “chắc gì là con mình”. Chỉ bà nội ôm đứa nhỏ vào lòng, cho nó bú bầu sữa căng ướt của mình, tin như đinh đóng cột, nói “mặt mũi thằng nhỏ sáng trưng vầy, sao không phải ?”.

Một buổi tối của hai sáu năm sau, bà nội quyết định nói ra trong hai thằng nhỏ đu đưa trên bầu vú mình khi đó, có một đứa không phải con của ông nội.
 
5,622
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Nguyễn Ngọc Tư - Riêng tư vừa đủ...

Hài cuối năm ta

Thách cưới
Tiểu phẩm : Tui


Cả nhà vẫn còn nhớ chuyện Tom Cruise hồi chưa lấy Katie Holmes, vì say mê cái nhan sắc đổ gánh chìm đò của con Lành mà ảnh bí mật sang hỏi nó về làm vợ, nhưng chuyện không thành vì ngoại Tám, tức Tám Lựu Đạn chỉ thủng thẳng nhai trầu nói đúng một câu, “Bây tính đặt tên con là Tèo Rui Sơ hả ? Dẹp !”.

Cái hồi kết này ai cũng nhìn thấy, vì ngoại Tám khó thấu trời, ngăn chặn hết thảy những thứ ngoại lai xâm nhập vô nhà. Con Lành hơi tiếc là anh Tom đẹp nhứt trong cái đám trai ngoại đã nguýt ngang. Bảy thằng con trai kia toàn người Việt, nhưng có thằng lỡ nhai kẹo cao su chóp chép, lỡ mặc cái áo thun nhì nhằng chữ Tây, lỡ nhuộm chòm tóc vàng, lỡ mua mấy chùm nho Mỹ làm quà… Ngoại Tám Lựu Đạn có lý lẽ riêng của mình, tại sao thằng ôn con đó không nhai kẹo dừa cho lành, sao nó hong mặc bà ba cho khỏe, để tóc đen thì có chết ai. Riêng có một anh thợ máy cả nhà rất ưng, sắp xuống mối thì ngoại phát hiện ra anh này hút gió toàn nhạc ngoại, nào là Bến Thượng Hải rồi thì My heart will go on. Khổ thân anh hôn phu hút gió trật bài.

Lụi hụi rồi Lành cũng sắp vào tuổi ế chồng. Vẫn đẹp xiêu cống vẹo cầu nhưng bạn bè trong xóm rủ nhau đi lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc hết trọi, mỗi Lành chờ một chú rễ xịn Việt từ đầu đến đuôi. Nửa đêm nằm thở dài, thấy hai sườn hai đùi hai vành tai đều lạnh. Ngoại nằm bên vách, nghe vậy cũng rầu, nhưng ngoại mà không giữ gìn nề nếp nhà này thì ai giữ ?

Nhờ canh cửa khít rim mà tiếng tăm nhà ngoại Tám vang xa. Hôm đoàn kiểm tra tới xác minh xét tặng danh hiệu “Gia đình văn hóa lịch sử anh hùng thuần Việt” (danh hiệu gì của nhà nước cũng kêu đinh đoong như vầy), họ cũng phục lăn khi mấy chục năm nay nhà ngoại Tám chỉ gội đầu bằng bồ kết với lá chanh, vách không treo lịch vì tụi nó hay in tiếng Anh tiếng Tàu, từ trước ra sau toàn đồ trong nước. Giữ được vậy, ngoài lòng yêu quê xứ còn phải có tinh thần cảnh giác cao. Có bữa ngoại Tám đi hốt thuốc nam, không cẩn thận là rước mảnh báo gói có bài về ông Obama vô nhà rồi. Anh cán bộ trong đoàn kiểm tra hít hà nói ngoại làm rất đúng.

Sau này, phát hiện ra anh khen lấy lòng ngoại vì si mê Lành. Cùng lúc, có anh Cườn hột soàn cũng tà tà lui tới. Cái chữ Cườn tối nghĩa này là hậu quả lối làm việc hơ hớt của cán bộ hộ tịch, viết sót chữ g nên cũng không thành “hùng mạnh” như chồng cô ca sỹ. Nhưng điều đó cũng không ngăn Cườn trở thành tỷ phú mắm cá linh. Thấy hai anh mặt mũi đều sáng sủa, thông minh, không yếu tố ngoại lai trên người, Lành thầm mừng. Cả hình xăm nhỏ trên gáy anh Cườn cũng mộc mạc : chăn trâu thổi sáo. Kinh nghiệm từ mấy cuộc tình đau thương trước, Lành dò hỏi rõ ràng loại nhạc hai anh thích có phải là Hoa sứ nhà nàng, Chuyện tình Lan và Điệp hay không; món ăn hai anh ưa có phải cá lòng tong kho quẹt và mắm chưng hột vịt hay không; tăm tre mà hai anh hay xỉa có phải là loại to bằng cây cột nhà thương hiệu trong nước hay không. Rốt cuộc, cả hai chàng chuẩn Việt từ đầu tới gót. Chữ gót này theo nghĩa đen, vì gót anh cán bộ đúng là bị nứt từa lưa, nhưng ảnh nói chỉ mài vô gốc cột thôi, nhất định không thoa Kechone (kem chống nẻ) nào hết.

Giờ thì còn mỗi một vấn đề, ấy là chọn người nào ?

Sau nhiều đêm nằm đếm thấy mụ nội mà không ngủ được, ngoại nghĩ ra cách thách cưới cũ mèm. Không đòi cao sang, chỉ cần hôm ăn hỏi chuẩn bị cho mười hai mâm lễ trăm phần trăm đồ nội. Ngoại tự thấy vậy là công bằng, ai như ông vua xưa đưa ra yêu cầu thiên vị làm chi mà mấy ngàn năm rồi Sơn Tinh với Thủy Tinh vẫn đánh nhau tung tóe.

Bánh tự nướng, bột gạo nếp tự xay. Trái cây thì vô mua tận vườn, hái tận nhánh. Vải vóc chọn loại có in ở bìa “Sản xuất ở Việt Nam” dù cứng tay như bao bố. Khay trầu rượu cũng chọn gốm Cổ Chiên. Giờ chót, bên phía Cườn hột xoàn kịp phát hiện ra mấy tấm nhiễu đỏ phủ mâm toàn chữ Tàu, hú hồn hú vía. Hai nhà đàng trai đều chắc mẻm lần này ta sẽ đón được cô dâu hiền hậu, nết na.

Cuộc kén rễ so kè ngang ngửa. Anh cán bộ bày ra mâm nhãn Bạc Liêu thì Cườn hột xoàn cũng có quýt hồng Lai Vung. Chủ khảo là ngoại Tám, da héo lưng còng nhưng có siêu năng lực liếc qua là biết hàng xứ nào. Lành dõi theo nụ cười mãn nguyện nở trên môi ngoại, thầm mừng trong bụng. Đến phần rượu, dù thề thốt là rượu thuê người nấu tại chỗ, nhưng Cườn hột xoàn vẫn không qua nổi ngoại Tám, “men Tàu nghen bây”. Trà vô hộp thiệt sang nhưng chỉ là bã trà phơi khô ướp hương hóa học China bán ở chợ Kim Biên hai ngàn một ống. Anh cán bộ cũng bật ngửa khi bị phát hiện ra đường làm bánh bông lan nhập của Lào, còn vú sữa được phun thuốc làm bóng trái cây xứ Thái.

Đến nước này, Lành chịu không nổi nữa, mếu máo kêu ngoại Tám nương tay. Lành nói gạo nhà mình đang ăn cũng từ lúa giống Tàu, lâu nay con không dám nói vì sợ ngoại thà nhịn đói. Mớ cá hôm bữa mua ở trang trại bác Hai Ốm, cũng là cá nuôi sẵn từ ở bển chở qua đổ vô ao giả bộ cá Việt vậy thôi. “Nói vậy cái cục đất dưới chân mình có chắc là của mình không con ?” ngoại hỏi, trong lúc thấy trời đất quay tròn.

Cuối năm Lành lấy chồng, chú rễ là anh thợ máy năm nào, suốt từ đận đó đến giờ anh vẫn chờ Lành xách giỏ đi chợ ngang qua để hút gió bài “lý thương nhau”.
 
5,622
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Nguyễn Ngọc Tư - Riêng tư vừa đủ...

Đường về Xẻo Đắng


Chợ Vàm Nước Chảy đang ở trước mặt. Đây về nhà chừng non tiếng đồng hồ ngồi tàu cao tốc, nhưng trên chiếc xuồng máy Koler nghẹt mũi ho gà này năm chục cây số dằng dặc. Nghĩ chỗ đông người Quý không thoải mái, nên chị lấy xuồng máy cũ ở nhà. Xế chiều nắng xéo, hàng cây tràm nước đổ bóng dài xuống bãi sông. Đám cây kia là chỗ chị từng buộc xuồng dẫn Quý đi chợ Tết. Giữa Chạp, xuồng người này buộc níu xuồng người kia, chuyền qua năm bảy chiếc chân mới chạm bờ. Quý kêu nắm tay tui cho chắc.

Lần đó sắm cho Quý bộ đồ mới. Người ta biểu ê thằng nhỏ trật quần ra thử cho chắc, nhưng Quý lắc đầu, nói vừa rồi, vừa lắm, nhìn cái đã biết vừa. Mấy ngày sau đi ngang sào mới biết Quý phải khâu lận hai bên hông để quần khỏi rớt khỏi thân.

Quý, đi theo chị.

Không biết Quý lớn từ tết đó, hay từ cái tối lấy xuồng ra đầu kinh đón anh Hội về. Trời mưa, anh Hội nói sẵn ướt rồi anh lái máy cho, hai chị em cứ trùm áo cao su cho khỏi lạnh. Áo nhỏ, kéo Quý vào lòng, nhưng Quý cứ xích ra, người nóng đến mức mưa sượt qua vai bốc khói. Chừng nào anh Hội chưa đi Quý còn ngủ ngoài nhà củi. Anh Hội nói kệ nó, vách buồng mỏng quá, thằng nhỏ ngủ nhà anh thấy nhột lúc giường kêu.

Bên nhà chị ai cũng khen Quý trổ mã mau. Họ vẫn đọ đứa bé ốm teo vạch quần đái vô cây ớt nhà chị hôm rước dâu với Quý sau này, như phù phép của ông trời. Cứ cách tuần đã thấy khác. Thằng nhỏ lớn như thổi, cách nói của họ làm chị nghĩ tới một ngày nào đó Quý sẽ nổ tung.

Quý, đi theo chị.

Vừa nãy qua Ông Đơn. Xứ mình lơ ngơ đi dễ lạc. Những ngã ba sông thường giống nhau, cũng mấy chòm nhà, vài tiệm tạp hóa, một cây cầu trắng toát bấm ngón nhón hai bờ, ở giữa là nước chảy, đất lở xồm xoàm. Lần đó nhớ anh Hội quá, đi lên huyện thăm mà không cho anh hay trước. Từ hồi lấy anh, chưa bao giờ chị có cảm giác căn nhà cuối dãy tập thể ấy là mái ấm của mình, khi bất ngờ xô cửa vô vừa hay linh cảm đó là thật. Xõa trên bắp tay anh là một mái tóc đẫm mồ hôi khác. Cả anh cũng không phải của mình, chị nghĩ vậy, bỏ về. Không nhớ trôi giạt kiểu nào mà lạc tới miệt đồng Chó Ngáp. Cái mặt ràn rụa nước mắt chị gỡ ra quăng xuống nước, lay lắt chìm dần. Con đàn bà đó tận tụy làm dâu, vắng chồng suốt năm năm, giờ chết nước.

Quay lại nửa đường thì gặp Quý chạy trên bờ, mừng quýnh nói “má lo”. “Còn Quý ?”, chị hỏi, và nhận lại một cái nhìn không đáy.

Quý, đi theo chị.

Quãng này hồi Quý đi còn vắng, vạch đám lá ra không thấy mặt người, giờ nhiều quán xá mọc hai bên sông. Con bạn chị cũng cất tiệm tạp hóa ở đây. Bận đi chị đã tấp vô đổ dầu cho đầy, chuyến về có Quý không tiện ghé. Bạn ái ngại hỏi có phải đi đón thằng nhỏ ? Chị gật đầu, chuyện Quý về có gì phải giấu. Con bạn lèo nhèo, “Đáng lẽ ông Hội phải đi, em ruột ổng mà…”.

Chồng tao mắc coi đám kiểng, chị nói, giọng không chút mỉa mai. Anh Hội bận uốn tỉa mớ cây chùm rụm thành rồng phun ngọc, nai ăn cỏ. Từ ở huyện về, anh Hội cự tuyệt việc ngẫng đầu lên. Đánh cờ cúi mặt, ăn cơm cúi mặt, thời gian còn lại anh cúi mặt lụi hụi với mớ cây. Chẳng biết vì không muốn nhìn mặt chị hay sợ ánh nhìn ngờ ngợ của xóm giềng. Bán loạt kiểng này lại chăm chút cho loạt khác. Những cái cây, như anh Hội nói không biết phản bội bao giờ, uốn bề nào tụi nó xuôi theo bề nấy. Vai chị gánh một phần của câu nói ấy, phần còn lại chia cho mớ nhân loại đã xui đàn bà giăng bẫy hắt anh về vườn, làm tan tành giấc mơ quan huyện.

“Không ai muốn có đứa em như tôi”, có lần chị đi thăm, Quý nói vậy. “Quý thì có sao ?”, chị hỏi. Quý cụp mắt xuống đôi bàn tay chai, “Tụi mình biết mà”. Anh em Quý không giống nhau, nhưng cái cười nghiệt ngã thì một khuôn, xách méo biến dạng cả gương mặt. Lúc bước qua cánh cửa sắt, Quý quyết liệt bảo, “Đừng tới thăm tôi nữa. Nhìn thấy chị tôi muốn chết”. Nhưng giờ chị không đi đón Quý thì còn ai, má cũng về nằm trong đất rồi.

Quý, về với chị.

Bữa họ đưa Quý đi, chị đã chân không đi theo tới cây ô môi gãy ngọn đứng kia. Không phải vì vượt qua cái cây là ra khỏi Xẻo Đắng mà chị dừng lại. Chỉ vì ở đó tiếng ca nô thật sự tuyệt mù, cả sóng cũng không còn gợn. Mặt sông yên, rách bao nhiêu nó cũng tự vá lành. Người ta mà làm được vậy hay biết bao nhiêu. Không oán không thù.
Bộ đồ Quý mặc hôm đó, sáng nay nhận lại, chị thấy vẫn mới tinh từng nếp gấp. Họ nói gã bạn tù truyền bệnh tử sang Quý cũng đã chết cách đây một năm. “Về nhà trước hạn”, họ đùa và kịp nhận ra chẳng vui gì. Chị nói, “Quý không oán gì người đó đâu”. Kịp dừng lại, không thì đã nói chuyện Quý cũng chẳng oán cái án oan mười bốn năm tù. Chữ “oan” đó, ai nghe cũng phì cười. Quý nhận tội rồi, oan ngã nào.

Quý, đi theo chị.

Bên bờ ai đó ới lên, “Thằng Quý có dưới xuồng không ?”. Nghe thương xót nhuốm trong giọng nói đó, tuyệt không có chút nào ghét bỏ. “Dạ Quý ở đây”, tiếng chị mở đường cho những bước chân rùng rùng về phía nhà, cùng chiều với hướng mũi xuồng lướt tới.

Lúc Quý bị đưa đi cũng tở phở xóm làng. Người ta đổ ra chật bến. Mấy đứa con nít biếng ăn bị dọa sẽ bị ném xuống ca nô đó, không có ngày trở về. Những hạt rơi vãi được xâu thành một chuỗi mang tên tội ác. Cái áo Quý đẫm máu người máu mình chôn dưới gốc quao. Xác con gái ông chủ nhà máy đường nằm cách chỗ ấy đúng một công đất. Buổi sáng hai bên đôi co chuyện mấy công mía bị dìm giá. Vai Quý còn những vết cào xước của móng tay. Một người câu đêm thấy Quý ghé ghì chặt người đàn bà, rồi biến mất trong khu mả lạng. Cả đêm ấy Quý không về.

Không phải Quý đâu, chị nói. Mấy ông pháp luật cười lạt, đâu chỉ nói tin là đủ. “Bà già nói cô về bên nhà ăn giỗ, chứng cớ nào lại dám chắc như bắp rang ?”. Nhưng cả đêm qua tôi ở cùng với Quý. Trong những giấc mơ chín năm qua, tiếng thét đó rúm ró giữa ngàn con mắt trong cây trong đất, mắt Quý đầy vẻ khẩn cầu kệ tôi đừng nói mắt Hội vằn tia máu định vùi tôi xuống sình sao mắt mẹ đục ngầu ông trời có thấu. Tiếng dội của nó rách vách lòng. Không bao giờ vượt thoát qua môi.
Quý, đi theo chị.

Bến nhà mình đây, xóm giềng đây, Quý sẽ thấy ngờ ngợ nửa lạ nửa quen vì Xẻo Đắng đã đón về nhiều dâu rễ mới. Anh Hội kia, người vừa ngẩng lên ba mươi giây để chém chị bằng một nhát nhìn bén lẹm “vừa lòng cô rồi đó”. Và đây là khu mộ, nơi Quý sẽ nằm lùi sau ba má vài bước chân. Cuối liếp là bào thai tám tháng tuổi chết lưu chị chưa kịp đặt tên. Thêm Quý nữa, tất cả những gì liên quan đến một đêm đều rã rơi thành đất. Chỉ là không tin được vùi dưới kia là cậu con trai mới lớn đã nổ tung trong chị, đến nỗi không hay vai xước, sương khuya và áo xống bỏ quên lại trên gò.

Đường về qua nhiều ngã ba ngã bảy, chị phải gọi suốt vì sợ Quý đi lạc, biết đâu mà tìm. Sợi hồn thì mỏng và xanh.
 
5,622
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Nguyễn Ngọc Tư - Riêng tư vừa đủ...

Xứ Cây

Qua sông là tới. Xứ cây.

Tháng Hai, vài thứ cây bên đường vào mùa lẫm liệt. Chôm chôm chín như thắp lửa suốt cành. Gòn đang ra trái, chỉ trái và trái, trụi trơ lá hoa. Mấy cây còng già trăm năm tuổi trước trường dòng vắt nhựa nuôi thêm mùa bông nữa. Và bàng đỏ loang trên từng tầng lá, thanh thản như người già biết trước thời khắc lìa đời, chậm rãi thay áo lụa điều chờ cơn gió nào tới đón đi.

Xứ cây, những ngôi nhà không còn cố chen nhau khoe mặt như ở bên kia sông, giờ tụi mình đang ở thế giới khác, nhà nào cũng ẩn hiện nấp ló giữa vườn. Nhiều ngôi nhà cận lộ quá, cố xoay sở một giàn bông giấy, bụi lài dây, để giấu mình được chút nào hay chút ấy. Sạp che bên đường bán kẹo bánh cho học trò, cũng trồng bụi bông dừa cạn. Hai bên đường không cây thì cũng hoa, biển hiệu mua bán toàn bán mua giống cây ăn trái, hoa kiểng, xơ dừa, phân rơm. Khách lỡ đường ăn chôm chôm, vú sữa, uống nước dừa trừ cơm, nghe nói cứ ăn vầy hoài không da mặt đẹp thì lòng đẹp, chay tịnh mà. Bạn ngồi đuôi xe đùa cũng có khi người xứ cây toàn ăn hoa cỏ, đi suốt từ xế tới giờ không thấy quán thịt cầy, sạp thịt heo nào. Nhìn đâu cũng hoa và cây, những vườn dừa kiêu hãnh khuấy mây.

Cả trong câu chuyện bạn bè xứ này, quanh quanh lại về cây cỏ. Hoa trà ông bứng cho tôi bữa đó, đã trổ bông đợt đầu tiên. Độ rày cây bưởi da xanh bên nhà bà già đổ bịnh, tự dưng quéo ngọn, xót ruột quá. Hai công vườn sắp tới không biết trồng gì thay cho giống mận An Phước, trái bán được giá nhưng phải phun dày thuốc sâu, không tốt cho sức khỏe tụi nhỏ. Đám vú sữa hôm trước em tới đang trổ bông oằn nhánh, giờ thương lái đã vô hái sạch rồi sao, thời gian trời ơi nó là thứ chi mà chớp mắt đã xa.

Rượu của bữa nhậu xứ cây, không ngâm hoa mai thì ngâm ổi, dây mỏ quạ, rau đắng đất. Cũng nấu từ lúa đồng lúa bãi, nhưng trong hơi men ngấm mùi hoa trái. Chút ngọt nào bả lả vương ở họng, làm dịu đằm cái nóng rực của rượu cay. Bạn kể rượu ngâm cao sơn dương, rắn hổ mang bành, tai gấu cũng nhiều, nhưng thường là trong nhà quan với nhà giàu. “Không phải mình nghèo, nhưng rượu đó uống riết sợ tanh lòng. Mắt con bìm bịp đỏ au ngó mình từ trong hủ rượu, mà mình vỗ đùi khen ngon, thì có gì đó không phải lắm”, bạn nói. Nhắc mới nhớ, họ còn ngâm những con khỉ con, tay chân nguyên lông lá, ngồi thu lu trong hủ, mắt mở trừng rưng rức, như hỏi trời bao lâu nữa mới thành người, để ngất ngư say với thứ rượu ngâm xác con vật khác. Chuyện tới đây cuộc nhậu chuyển sang buồn, không biết tại con khỉ ngâm hay vì cái tin nhắn của bạn phương Bắc vừa đổ vào điện thoại “ê thím, vác ba lô đi chùa Hương nhậu thịt rừng chơi”. Ngay lúc ấy rất muốn khoe mình đang ở xứ cây, ở đây có ông bạn già mấy tháng nay cứ ngẩn ngơ tiếc mớ bưởi ổi trồng ngoài sân bị đốn bỏ cho nhà nước mở đường. Mảnh sân biến mất, phố ngoạm vào gần tới hàng ba, nhưng không nghe tiếc đất, chỉ thương cây vừa ra ba mùa trái. Con người biết cúi xuống thương xót một cái cây, thì chắc là không lòng dạ nào làm chuyện ác, tụi mình nghĩ. Một kiểu nghĩ hơi cảm tính, bằng chứng là cảnh sát ở xứ cây cũng làm hoài không hết chuyện. Nhưng có thứ mát lành để tưới cho hy vọng, cũng hay.

Chuyến về xe nặng quà, lỉnh kỉnh trái này kẹo nọ còn có hai cây chuối kiểng. Đi xứ cây mà không mang cây về, cũng tiếc. Dọc đường hóng chuyện, nghe kể mấy anh làm chương trình Thực hành sản xuất nông nghiệp tốt kêu trời vì ở xứ cây khó kiếm một khu đất không vướng mồ mả bà con chôn rải rác trong vườn. Phong tục tập quán chưa vội bàn, nhưng biết đâu người cũng muốn gửi nắm xương tàn tan vào đất, để nuôi cây.

Lúc qua sông, tụi mình biết chắc vài ba bữa nữa, thể nào bạn xứ cây cũng gọi, để hỏi hai cây chuối sao rồi, sống nổi không. Những cuộc gọi từ giờ không thuần nói chuyện văn chương, nỗi buồn và cái chết, sẽ có thêm cái bông chuối đầu tiên vừa bung cánh đầu tiên.
 
5,622
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Nguyễn Ngọc Tư - Riêng tư vừa đủ...

Ra đường dạy con

Con gái của người mẹ trẻ đã năm tuổi. Ngần ấy thời gian bà mẹ trẻ ngấm dần những trải nghiệm, rằng mang nặng đẻ đau không cực bằng đút cơm cho con bé, sau lại thấy cảnh lúp xúp cầm chén cơm rượt theo nhỏ con (vốn biếng ăn kinh khủng) không cực bằng dạy nó nhận thức việc tốt xấu ở đời.

Bà mẹ nghĩ thế hệ mình còn nghèo, tất bật kiếm miếng ăn nên bỏ qua việc sống bặt thiệp, lịch sự, văn minh. Thôi để con nó làm những điều ấy thay mình (điều đó làm mẹ đôi lúc buồn cười, tham vọng mình lớn vậy sao, định cải sửa cả một thế hệ à?). Buổi sáng mẹ chở con đi học, mẹ dạy, “con đừng khạc nhổ ngoài đường, làm vậy người ta cười, nói mình không lịch sự”. Tức thời có chú ăn mặc tử tế chạy xe đằng trước ngoẹo đầu phun cái vèo, may mà né được nếu không bị gió tạt nước miếng vô mặt. Mẹ thấy… bối rối, lanh trí nói, “Đọ, như chú đó mọi người không ai thích hết”. Vẻ mặt nhỏ con có vẻ ngờ ngợ, có lẽ nó thấy kỳ vì nhiều người lớn không cần được yêu. Mẹ nhận thấy những bài học ngoài đường hay kèm theo… rủi ro. Mẹ nói với con rằng bỏ rác vào thùng mới ngoan, nên đứa bé khư khư cầm vỏ kẹo trong tay chờ mẹ chạy xe lòng vòng tìm cho được thùng rác. Qua mấy khúc đường đó, hai mẹ con thấy có một chị quét hắt rác từ nhà ra đường, một người thả lắt lay theo gió tấm giấy gói bánh mì, và ai đó đổ tháo ra đường một vũng… cặn heo. Mẹ thấy bất lực vì trong mắt con đầy hoài nghi. Khi rác được quăng vô thùng, con thở khì một cái, thỏ thẻ, “Mẹ thấy con giỏi không. Nhưng giỏi làm chi mắc công quá hà, mẹ”. Mẹ im lặng, thấy buồn.

Ai đâu dè dạy con khó dữ vậy. Dặn con đừng nói lời thô tục, nên lần nào vợ chồng cặp bên vách đánh nhau, mẹ phải lật đật đi mở nhạc, vặn to volume cho át đi tiếng chửi thề xoi xói. Biểu con đừng quăng vỏ chuối, hay mảnh giấy xuống sông nhưng nước sông đã ngầu, lúc nhúc rác rưởi. Khuyên con giữ lời hứa, nó day lại nói, hôm trước đi thi bé khoẻ bé ngoan cô giáo biểu hát hay cô cho kẹo, “mà con đâu có thấy”. Rồi mai rồi mốt, bà mẹ biết việc dạy con sẽ dần dần khó khăn hơn. Làm sao để thuyết phục nó rằng ăn mặc kín đáo, giản dị là đẹp trong khi các cô gái đang vòng cổ vòng tay dây nhợ lòng thòng diêm dúa, ngược lại, áo quần thì chỉ một vài mảnh vải đắp thờ ơ, hở trước hở sau, hở trên hở dưới. Làm sao để con nó tin được rằng vẻ đẹp tâm hồn mới quan trọng khi người ta treo bảng rao, cần tuyển nhân viên, ngoại hình đẹp… Nói về sự sâu sắc của tâm hồn khi người đời đang nhìn nhau, đánh giá nhau bằng quần áo, trang sức, bằng xe, bằng nhà… không biết đứa con có nghe không. Nó có tin mẹ không khi mẹ nói về sự trung thực trong khi bạn nó quay cóp luôn luôn được điểm cao, xếp hạng đầu. Câu chuyện của mẹ về lòng nhân từ sẽ chìm lỉm giữa cảnh chiếc ô tô dấn ga cán bừa lên sọt cà chua – gia tài của người nông dân lỡ đổ ra đường, vì chở nặng. Chẳng ai đỡ giúp chiếc xe, hay nhặt giúp trái cà…

Vậy mà, lái con tàu hoang dã thơ dại ấy về cái bến đầy hoa cỏ chẳng dễ dàng gì. Mẹ biết phải nỗ lực nhiều, nhưng chỉ tấm lòng người mẹ thôi không biết có chống chọi được với muôn mặt cuộc sống để dẫn dắt con mình vào con đường tử tế?
 
5,622
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Nguyễn Ngọc Tư - Riêng tư vừa đủ...

Dây diều


Chỉ ba mươi giây là mình chạy khỏi đồng diều, Trọng nghĩ vậy, nghe dòng mồ hôi trườn chậm rãi men theo sóng lưng xuống xương cụt. Rủi gặp bầy bò ăn rong dềnh dạng trên đường, nhiều lắm là vài phút chiếc xe máy cũng bỏ chỗ ấy lại phía sau. Vậy là xong, như chưa từng xảy ra chuyện gì.

Lúc đó thiệp cưới đã gửi đi gần hết, Trọng về Vĩnh Hòa để đưa cho bà con bên ngoại mấy cái thiệp còn sót lại. Không có đường nào khác đi Vĩnh Hòa ngoài con lộ ngang qua đồng diều. Không ai thay Trọng mang xấp giấy báo cưới này đi, và cũng chẳng còn bao nhiêu thời gian cho nó trì hoãn, “để mai”.

Qua khỏi khu vườn chùa là tới bãi cát của một dự án đô thị bỏ hoang. Mùa hè cư dân thành phố đổ ra ngửa cổ, vô vọng kết nối con diều với bầu trời bằng một sợi dây. Giờ gió thổi phồng áo Trọng. Gió đến ngộp thở. Gió như bữa Trọng hít hà da thịt Lê trên cỏ rạ đồng diều.

Hôm đó, lúc ra về Lê nói, mình cưới nhau đi.

Hai đứa tới nhà nhau thường hơn, gặp sớm mai đã hẹn nhau tối lại. Lê nuông chiều Trọng hơn, có bữa lén cho bồ vào buồng riêng chút cha chút chít, thay vì phải véo mông hớt hãi sau bếp những lúc mẹ Lê ra sân đuổi đám con nít vặt sen. Câu chuyện của hai đứa giờ xuôi về chủ đề xốn xang. Chụp ảnh cưới ở đâu, áo cưới màu gì thì lên ảnh đẹp, tiệc cưới có cắt bánh kem không hay chỉ rót rượu hồng lên tháp ly sương khói.

Như chưa từng xảy ra chuyện gì.

Vài lần phải ngang qua những cửa hàng bán diều treo tràn ra vỉa hè, Lê thường bô lô gợi chuyện, những chuyện tếu kiểu như ông kia ngoắc chiếc xuồng bán bánh mì bên kia sông, người ta mừng quýnh càn nước ngược chèo qua, ổng hỏi có thấy xuồng bánh bao đâu không. Mắc cười hén ? Ừ, mắc cười. Cũng có hôm hết chuyện vui để kể, Lê thuật lại nội dung tập phim Thái chiếu hồi tối vừa rồi, quên mất Trọng cũng có coi chung.

Như chưa từng xảy ra chuyện gì.

Trọng bắt đầu diện những bộ thật bảnh. Kiểu gì cũng phải đẹp. Áo hơi nhàu là thấy day dứt trước Lê rồi. Không như cái hồi mới quen, chỉ dép kẹp quần đùi chở Lê đi ăn chè, giờ phẳng phiu đến từng sợi tóc. Có bữa đi gần tới đầu hẻm nhà Lê, sực nhớ đầu quên chải keo nó quay xe lại. Nhiều khi người bên nhà Lê ngờ Trọng chắc bị sảng, mưa gió ngập đường mà nó đóng giày da, mỗi bước nước mỗi trào ra. Những ai từng quen biết một thằng Trọng buông tuồng cẩu thả đều kêu đám cưới thiệt thần kỳ, vừa dự tính thôi đã ngay lập tức thay đổi một con người. Trọng cười nhợt nhạt, thấy tuyệt vọng vì mình không thể đẹp hơn. Nó sợ nhìn thấy hình mình in trong mắt Lê rúm ró.

Trong khoảng thời gian hai đứa mặn nồng đến nghẹt thở đó, có một lần Trọng nổi khùng, đá cái ghế bật ngửa, bỏ đi. Lý do nó giận cũng không giống lý do, dưới gầm trời này chẳng ai quạu chỉ vì bồ bịch sớt cho mình mớ hột vịt muối của phần cháo trắng ăn khuya. Cả nhà Trọng quý Lê, nên lèo nhèo, “đốt đèn cũng không kiếm ra đứa nào tốt cỡ con Lê, mê mày như mắc nợ vậy, ăn cơm cũng lựa cho từng miếng cá”. Yêu là yêu sao có thể là mắc nợ, Trọng nghĩ bụng vậy nhưng lừ lừ không nói, ngồi lì chơi điện tử. Chiếc xe Trọng điều khiển như tự sát, cứ lao xuống vực sâu.

Và chiếc xe lại hồi sinh ở vạch xuất phát trong một màn chơi mới. Giống hệt chuyện xảy ra ở đồng diều mà Trọng với Lê đều (làm như) quên. Nhưng đêm ấy thường trở lại, với ánh trăng chưa đến rằm nhưng vẫn đủ sáng dãi dề trên bụng Lê khi gió thổi lật vạt áo con nhỏ lên, làm thằng bồ khổ sở kiềm giữ cơn bứt rứt chết được. Lúc đó đồng diều vắng tanh, người ta đã cuốn dây bỏ về lâu rồi. Hai đứa nán lại ôm nhau chút chít thêm ở giữa trăng sao và cỏ rạ. Đột ngột không thấy trăng đâu, trời tối sầm bởi năm cái đầu chụm lại dòm đôi bồ lom lom. Một thằng rọi đèn pin vô mặt Lê kêu :

- Ê, con nhỏ ngon quá tụi bây !

Giọng thằng cầm đèn hụt hơi, tê mê, hệt như người đói khát nói về chim cút khìa nước dừa, hay cải ngồng xào tỏi hay tôm càng nướng trên than đỏ. Chỉ cần cắn ngập dấu răng vào da thịt kia, những gì thơm ngọt nhất sẽ ứa tươm môi. Những thằng còn lại cũng hết sức đồng tình, ờ, em cưng thơm phức.

Nhưng Lê không bị bọn du côn cắn miếng nào, cả chạm vào cũng không. Chúng giữ lời hứa với Trọng, sau khi dạng háng cho Trọng luồn qua. Những cái quần lưng sệ đáy thấp đến mức Trọng gần như trườn sát đất dưới từng thằng người khai khẳng mùi bia mùi nước tiểu mùi loăng quăng. Cỏ đâm vào cổ, cát chảy vào trong áo. Không thằng du côn nào cười cợt, tụi nó đạo mạo như dự một nghi lễ quỷ thần.

Không khí nghiêm trang ấy, sau này Trọng nghĩ, là đưa tang nó, một thằng đàn ông thảm hại quỳ lạy, mếu máo bò sát đất, trước cái nhìn tê dại của bạn gái.

Đi khỏi đồng diều, nơi xảy ra cuộc gặp gỡ chớp nhoáng mà dài vô tận, đám lang thang biến mất nhanh như khi đến. Diều băng rồi, người ở lại chỉ còn nắm được cọng dây. Nỗi sợ hãi nuốt gọn tụi Trọng trong cái bụng đen ngòm của nó, rồi nhả ra theo một cách quá dễ dàng, làm cả hai lặng đi. Về gần tới nhà, Lê bỗng nói, mình cưới nhau nghen. Và Lê bắt đầu cuộc ân cần mà Trọng không thể phân biệt nổi đó là vì biết ơn hay thương hại.

Không còn là cô bồ ương bướng mỗi lần cãi nhau hay bất cần bảo, “ừ tui vậy đó, không thích thì chia tay”. Lê từng nông nổi ngang phè, nhưng Trọng thích. Nó nhớ Lê của những ngày tháng cũ, khi móc điện thoại ra gọi cho cô, ở chỗ cách đồng diều non cây số. Có đi tới chân trời thì mình không bao giờ ra khỏi đó, Trọng nghĩ vậy, và nói, “Lê, mình chia tay đi”.

Mớ thiệp cưới Trọng thả xuống mương lộ đã tắt những vòng sóng, chúng trôi yên bình, tựa lá khô củi mục. Từ phía đồng diều, những con bò thong thả đuổi kịp Trọng, lẫn trong tiếng bò gõ móng xuống mặt đường nắng bỏng, là giọng Lê, “Ừ, mình biết rồi !”
 
5,622
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Nguyễn Ngọc Tư - Riêng tư vừa đủ...

Khách

Có vài cuộc gọi về nhà kết thúc sớm hơn, mẹ có khách. Tụi nhỏ không phiền vì ngưng chuyện giữa chừng, lại mừng. Nghĩ khách tới chơi nghĩa là đời sống của mẹ ở quê không đến nỗi quạnh hiu, vắng con nhưng mẹ vẫn có nhiều niềm vui khác. Ý nghĩ đó làm cho những đứa nhỏ xa nhà thấy nhẹ lòng, giờ này mình thì tiệc tùng vầy, còn mẹ chỉ mình ên.

Hồi tụi nó còn ở nhà, mẹ cũng nhiều khách tới thăm. Một mình gánh ba con, nhưng người đàn bà góa chồng chẳng cách nào làm cho duyên đừng sóng sánh trong đi đứng, nói cười. Khí chất đã vậy, mặt nám tay chai cũng không ngăn nỗi đàn ông theo đuổi. Có ông thầy giáo hay ghé nhà, nhẹ tựa mưa. Tròng trành ngồi bên thềm ướt, nói chuyện ba khơi kiểu như Sáu ơi, ngoài vườn măng chắc sắp mọc rồi, mà không hiểu sao nước sông mấy bữa nay đục quá. Lại có ông thợ rèn, tóc tai bốc khói như đá trời vừa ngùn ngụt đi qua khí quyển trái đất. Không nói, chỉ nhìn, cái nhìn như hóa lỏng người đàn bà mà ông thầm yêu. Một ông khác thì xộc vào tận bếp, thay bóng đèn, đóng lại bản lề cánh cửa. Ông này thẳng đuột, bảo Sáu ưng tôi đi, còn trẻ ở không chi cho phí. Lại có ông chống nạnh đứng ngoài sân, nói tụi mình bạn bè từ hồi ở truồng tắm mưa, tánh nết đã thuộc lòng, Sáu mà đi thêm bước nữa thì lấy tui cho đỡ mất công tìm hiểu.

Mẹ được nhiều người mê, tụi nhỏ cũng hưởng lợi. Khách hay mang bánh kẹo, không thì cũng mấy trái mận, trái xoài. Ăn của người ta mà không giúp cũng kỳ, nhưng tụi nhỏ cứ khen ông nào hay thì mẹ cũng gạt đi, mùa này xơ ri chín rộ phải hái cho kịp, mương vườn cạn phơi đáy phải đào, đậu rồng đâm ngọn phải làm giàn cho chúng, nói chung là lu bu lắm, đâu rảnh. Lần hồi, cho đến bữa đứa con nhỏ nhất đón xe đò khăn gói xa nhà, mẹ vẫn một mình. Nhìn vào kiếng chiếu hậu, là mẹ đứng sau đám bụi, chấm áo tím trên nền xanh gờn gợn.

May mà mẹ vẫn có khách tới chơi, tụi nhỏ hài lòng. Những người sớt bớt nỗi cô độc của mẹ, chắc là mấy thím bên xóm hay để lại dấu răng trên những câu chuyện dông dài ai đó chửa hoang ai đó bỏ vợ theo trai, ai đó vừa sinh bảy. Họ hàng từ xa xôi cũng đổ lại, ngồi kiểm đếm coi chế ba chú bảy ai mất ai còn. Mà biết đâu, mẹ vẫn còn nhiều ông mê lắm.

Một bữa tụi nhỏ về, chứng kiến mẹ dưng không ới lên rồi te te đi mở cỗng. Khách của mẹ là ba con vịt xiêm, bộ điệu khệnh khạng xem chừng ghé chơi thường lắm. Ăn xong mớ đầu tép mẹ dành cho, bọn nó lại hể hả ngoáy đuôi ra về.

Khách của mẹ còn có con mèo mướp, thường xuất hiện bất ngờ với cái bụng chửa, rồi một bữa biến mất chẳng rõ đi đâu. Lá khô thì táo bạo hơn, xộc vào đến tận góc buồng ngủ, chỗ mấy con dế thường đến gáy. Và mưa đêm, luôn để lại những dấu chân trong suốt ngoài thềm.

Những người bạn láng giềng của mẹ lớp bán nhà dời đi chỗ khác, lớp nằm đau. Xóm ngoại ô chóng mặt với những hàng quán mọc lên, những giọng nói vùng miền xa lạ khác. Người thì đông hơn, nhưng không hẳn vui hơn. Tiếng cỗng đóng rền rĩ vào mỗi sáng. Nhà mẹ vắng dần tiếng người và mặt cười.

Hỏi sao không thấy mấy ông mê mẹ, bà nhẩm đếm hao hụt hơn một nữa rồi. Ông thì đột quỵ, ông thì ôm trong bụng khối u (phải ôm một khối tình, cũng đỡ). Còn mỗi ông thợ rèn mạnh giỏi, vừa rồi có ghé nhà, vẫn bốc khói như rớt xuống từ trời. Gặp mẹ, ông hỏi cô Sáu có nhà không, nói một hồi mới tin người muốn tìm đang ở trước mặt. Từ bữa tới giờ không thấy quay lại nữa, chắc đang tiếc đôi cánh đã cháy rụi trong lúc bay đi gặp người xưa. Cánh không còn để trở về trời, mà chỉ gặp mỗi một bà già teo héo.

Vừa kể mẹ vừa đi rửa mấy cái ly đầy bụi, rót nước râu bắp bưng cho tụi nhỏ. Phổi của những đứa con như cứng lại, thấy khó thở với cái cách mẹ đặt ly xuống bàn, xua tụi nó uống đi nước mát lắm, cách mẹ vừa lau mặt bàn vừa phân trần như một thói quen, có một mình nên nhà cửa cứ tèm lem, bỏ qua nghen.

Tụi nó, giờ làm khách của mẹ mình.
 
5,622
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Nguyễn Ngọc Tư - Riêng tư vừa đủ...

Tiều tụy vòng quanh


Nhiều năm trước, ở ngay chỗ tôi nhìn người đàn ông cất vó sông, chính ông cất vó khi ấy vẫn trẻ ranh hôi nắng, cũng đang ngó cha mình cất lên một lưới đầm đìa nước.

Đó là một thằng nhỏ háo hức. Không ngóc ngách nào của làng cổ mà nó không thò mắt mó tay vào. Nghe gà gáy, nó biết trúng phóc gà nhà ai, nhìn sợi mưa nó đoán nước sông Châu ngập đến mức nào ở chân cầu, và có bao nhiêu tường vách thâm sì của những ngôi nhà trong làng cổ được rêu lợp kín. “Phải cuối tháng chín rêu mới trổ bông”, đôi khi du khách gặp một thằng nhỏ móc chân treo ngược trên nhánh cây bảo vậy. Rêu thơm dậy động chỉ ít ngày là hết, cậu khoe thêm, thơm tới nỗi ông Út Gù mất ngủ, cả đêm cứ lội bộ lang thang, tru từng chập hệt chó rừng.

Vài cái tên người làng thường xuất hiện ơ hờ trong câu chuyện của thằng nhỏ, như những cái bẫy vô hại. Khách tò mò, lỡ miệng hỏi ai là Út Gù, tức thì thằng nhỏ sẽ làm màn ảo thuật để ông già bên xóm hiện ra. Nó kể vanh vách từ đời bà cố lũy người đàn ông tật nguyền ấy, tên những con chuột ông nuôi bằng thịt mèo, và ý nghĩa của những chữ khắc trên thềm đá trước nhà ông, món cá hũn hĩn kho quéo ưa thích. Như thằng nhỏ đã nuốt trộng cái làng cổ này, giờ ai hỏi tới đâu nó thuộc làu tới đó.

Nhưng với một đứa háo hức tràn ra mắt, không bao giờ nó ngừng thòm thèm, thôi cảm thấy đói ngấu những thứ mới mẻ của cuộc đời.

Khi những mảnh ngói trong làng không còn gợi cái ý nghĩ dưới đó giấu một lá bùa, dưới ngói chỉ là một viên ngói khác, hay miệng giếng này không dẫn đến kho báu mà đến những bó xương gà, thằng nhỏ chạy theo du khách để háo hức trong đó đừng chết đói. Một hướng dẫn viên tận tụy, chẳng bao giờ xòe tay đòi tiền, bù lại, thằng nhỏ biết nước dừa ở Maidives ngọt y như xứ nó, ở Yukon đá bào chất đống ngoài đường, và người da đen máu cũng đỏ như thường. Họ có dình dàng bằng ba người làng bó lại, mắt nâu hay xanh, khi xước da họ cũng nhăn mặt, rớm nước mắt. Và họ luôn luôn vô tình làm thằng nhỏ đau.

- Ở chỗ tao, có cái tháp cao gấp hai chục lần cái gác chuông này.

Giỡn hoài, cái tháp chuông này cao nhứt hạng rồi, thằng nhỏ phải mất nửa tiếng mới trèo lên tới đỉnh tháp. Ở đó có thể nhìn thấy từ đầu đến cuối làng, vượt mắt qua những khu vườn ra tận giữa sông Châu, nơi có vài cù lao hoang tháng chạp bông lau lợp trắng. Nhưng khách chứng minh cái tháp chuông mà thằng nhỏ tôn thờ chỉ là muỗi, khi khoe tấm hình ngọn tháp xứ họ lên đèn ngay bên cạnh trăng sao.

Thằng nhỏ không làm sao hình dung nổi cái thứ cao hơn gấp hai chục lần tháp chuông làng mình. Nằm ngửa, tâm tưởng cậu lấy tháp này chồng lên tháp nọ, nhưng luôn bị mất mối nối giữa chừng. Nó rã rời trong cái ước muốn tận mắt nhìn ngọn tháp ngạo mạn chọc ngoáy vào những bó chớp, như những lần tuyệt vọng muốn sống trong một đêm Bắc Âu trời vẫn sáng trưng, hay nếm thử thứ trà khiến người ta luôn mơ thấy mình bay.

Những lúc đó, thằng nhỏ ra chỗ chân cầu ngồi nhìn cha mình cất vó. Cái bộ điệu lơ tơ mơ khi người đàn ông vươn vai kéo gọng vó lên làm phiền nó hết sức, cả cách ông lơ đãng chẳng thèm dòm ngó đám tôm cá quýnh lên trong lưới. “Phải mình là mình coi có con cá lạ nào lạc vô không”, nhiều lần nó nghĩ vậy. Nhưng cha nó không thèm những tặng vật của dòng sông, mỗi tháng ông nhận được khoản tiền lương cho cộng việc này, vậy là đủ. Cứ mười lăm phút ông cất vó một lần cho du khách đứng coi, chụp hình. Rồi rít một hơi thuốc, ông già buông cái vó cho ngập miệng vào sông, kệ tụi tôm cá trong lưới thong dong đi mất. Thằng nhỏ ngờ là cái tính háo hức của mình chắc là di truyền từ bà mẹ xưa giờ chưa từng thấy mặt. “Nhưng phải có ai đó đẻ mình ra chớ”, nó nghĩ vậy, và bà mẹ tồn tại trong nó bằng cách ấy. Hỏi cha thì ông nói, “đất nẻ đẻ mày”, rồi bỏ ra chòi vó.

Một ngày làm việc của ông kết thúc, khi chuông nhà thờ đổ, và làng mở những bản hòa tấu quen thuộc, thứ nhạc cả chục năm nay không đổi, phảng phất tựa khói nhang. Cất vó, khép cửa chòi, trên đường về nhà ghé tiệm mua xị rượu, và lấy rượu chườm ướp cho men Xiêm ngấm vô chiêm bao. Thằng nhỏ sinh ra đã thấy nhịp sống tẻ nhạt của cha mình, đến la rầy con cũng chẳng câu nào mới, mười bốn năm trời chỉ ba chữ “đồ con hoang” mà trên miệng ông đã mất dần cái âm sắc nhọn và độ rền của sự giận dữ.

Cậu nhỏ cảm thấy phiền, bởi người cha diễn trò cất vó ngoài sông, bởi dì The hát ầu ơ cho tụi búp bê nằm võng vang cả phố trưa, cũng là diễn cho du khách khúc ca để họ chạnh lòng quay lại chơi ở cái làng nửa thế kỷ trôi qua vẫn cổ. Thằng nhỏ cũng chịu hết xiết người làng cả ngày lơ đãng, kệ khách lại qua trước tiệm lụa nhà mình, nếu không có cái quạt ve vẫy trên tay thì chẳng khác nào tượng đá. Ngay những đứa cùng trang lứa với nó như con Hương cũng tự buộc tuổi mười bốn vào khung dệt chiếu, chắp trân đố có mắc lỗi nào. Những trưa đi theo cái bóng của chính mình dọc theo đường chính của làng, không khí êm đềm đến nỗi thằng nhỏ thở không ra hơi. Nó cảm thấy mình sắp chết tới nơi.

Một bữa, thằng nhỏ nhảy chuyến tàu sớm rời làng. Nó biết chị Cẩm sẽ đứng bên đường ray vẫy tay, như hai chục năm nay sáng nào nghe còi tàu đằng xa chị cũng bổ nhào ra chào người cha đã bỏ đi hồi chị còn ẳm ngửa. Dưới những tia nắng non chiếu xiên, những nhánh tay khô khằng của chị chói lên trong cái chào mà thằng nhỏ tự vơ vào cho mình.

Rồi một xế trưa của mười bốn năm sau, cũng chị Cẩm vẫy đón thằng nhỏ trở về. Chị không già đi mấy, nhưng thằng nhỏ háo hức ngày xưa giờ trở thành một gã đàn ông sạm nắng, áo sứt nút, tóc phủ vành tai, ẳm theo đứa nhỏ nói chưa sõi. Gã không kể mình đã đi đâu làm gì, kể từ biến mất trong toa tàu sáng ấy. May thì lúc say, trong bữa giỗ hay cuộc nhậu xình xang, khi nghe ai đó nhắc tới một thị trấn vùng biên mịt mù, gã buột miệng “chỗ đó thiếu chút nữa là tôi đâm chết con Phấn”. Mọi người đoán Phấn chắc là vợ gã. Nhìn hai trái chanh chai sần trên bàn tay, nghĩ mười mấy năm qua chắc thằng nhỏ chạy xe ôm hay xe tải, xe đò, mấy công việc rày đó mai đây. Thấy sẹo vết chằng chịt khắp người nghĩ gã chắc va chạm nhiều để kiếm miếng ăn. Ngó thằng người thừ lừ ngồi ngoài thềm, ruồi bu không đuổi, mắt đổ ghèn không dụi, biết lòng đã hết háo hức rồi. Giờ trộn gã với người phố cổ, sẽ không dễ nhận ra bởi cái thờ ơ ăn lan trên gương mặt, ánh mắt.

Sáng thứ hai từ buổi đặt chân về làng cổ, gã đi tới nhà chị Cẩm dúi con vô lòng chị, biểu “từ giờ giữ con cho tui”. Chị nói “mười tám phút nữa tàu qua”. Gã dặn “thằng nhỏ ăn gì cũng được, cho húp nước cơm vẫn sống như thường”. Cẩm vuốt mái tóc đứa nhỏ khét nắng, lại nói “cha có nhìn thấy mình không ta ?”. Năm ngoái, có anh lái tàu mủi lòng trước những cái vẫy tay, đã tìm tới và rủ Cẩm đi, nhưng chị nói tàu sắp qua, chị phải vẫy chào cha, đi thì sợ chạy về không kịp.

Tay lái tàu ấy sáng nay chắc vỡ mộng khi thấy chị Cẩm bồng trẻ nít đứng chào bên đường ray. Hình dung đó làm cho cha của đứa nhỏ hài lòng.

Thằng người lừ đừ ra chòi vó, chậm rãi đái một phát như chó đánh dấu lãnh thổ, và nói với ông già, từ giờ chỗ này của tui. Đồ con hoang, ông già chửi, rồi xách chai đong rượu về. Thằng con hút xong điếu thuốc, búng tàn lại sau lưng, hững hờ cất vó, không đếm xỉa coi có gì ngoài rác nằm trong lưới. Sông Châu giờ cũng chảy bâng quơ cho có, nhìn nước bằng mắt thường khó biết được nước xuôi phía nào.

Bóng in mặt sông, gã đốt điếu thuốc mới, nhả ra mớ khói lờ đờ như hút thuốc cũng là một phần của hợp đồng công việc. Từ giờ gã bắt đầu đi vào những khung hình, trở thành nhân vật chính trong những bức ảnh mang tên “yên ả”, “thanh bình” hay “cất vó” (mặc dù trong ảnh cũng rành rành là cất vó).

Và tôi, đứa con trai được ba mình mang về từ chân trời, được má Cẩm gói giấc ngủ vô cánh tay xương xẩu, tuổi mười ba rún đã bắt đầu thốn đau bởi tiếng còi tàu, nhìn nước ròng ròng chảy xuống lưới vó, nghĩ, rốt cuộc cái làng này còn cầm tù mình bao lâu nữa ?
 
5,622
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Nguyễn Ngọc Tư - Riêng tư vừa đủ...


Ký ức bứt dứt


Thiệt là sướng, khi người ta đến một nơi hoàn toàn không có ý ức. Mợ nghĩ vậy, khi bạn đồng hành cứ xuýt xoa khi xe đò sắp vào thành phố, ui trời đẹp quá chừng, chị ơi coi kìa, rừng thông. Con nhỏ đeo kính dày như đít chai, mới vừa thi xong, thấy hè dài nên thưởng cho mình chuyến đi xa đầu tiên trong đời. Nó nói nghe Đà Lạt trong thơ trong nhạc lâu rồi, giờ mới hít hà được khí trời, chạm tay vào xứ sở.

Dĩ nhiên là lúc trả tiền tô cháo gà trăm rưỡi ngàn ở ngay hông chợ, nhỏ học trò hơi mếu máo, nhưng dường như nó vượt qua cú sốc đó cũng nhanh, và tô cháo cắt cổ vẫn không che khuất được sự long lanh của Đà Lạt trong mắt đứa con nít lần đầu đến. Trong ý nghĩ con nhỏ, ngọn đồi trụi kia là đã trụi sẵn rồi hàng trăm năm trước. Giờ khách sạn có nằm chễm chệ trên đó cũng đẹp như thường.

Mợ thì bứt dứt. Không muốn đọ cảnh xưa cảnh nay, nhưng hồi ức lợp xanh đồi trong tâm trí mợ. Thông, và chỉ thông, thứ cây thẳng lưng kiêu hãnh. Hồi đó phim Titanic đang sốt, mợ và bồ hì hụi trèo lên tận đỉnh, ra chỗ cái mõm đồi trống, rồi bắt chước anh Jack và chị Rose căng hai tay ra trong lộng gió trời. Nhắm mắt, mợ nghĩ mình đang bay, liệng một vòng dũng mãnh giữa không gian khoáng đạt nức mùi nhựa thông và hoa dại, cảm giác tự do và an toàn, mợ biết mình không bao giờ rơi vì có bồ bay bên cạnh. Sau này chia tay bồ rồi, mợ vẫn nghĩ về ổng với những ý nghĩ dịu dàng, vì đã từng bao lượt bay chung.

Trên những lần xuôi ngược lúc yêu và sau yêu, mợ vô tình làm chứng cho nhiều đổi thay phố núi. Thành phố phình ra, đồng nghĩa những rừng thông bọc quanh nó thưa dần, hệt như tóc bà già mỗi tuổi mỗi thưa. Người đông lên, phố dày dạn lời chào mời, những bà chủ quán dữ tợn hơn, cả những cô bé con má cũng bớt hồng, vì tiết trời không còn lạnh như trước. Con người đi đến đâu, hơi ấm bừng lên ở đó, nhưng ấm đến mức thay đổi cả khí hậu của một vùng đất, cũng ghê.

Mợ đến xứ lạnh lần đầu vào năm mười tuổi. Hồi đó công đoàn luôn làm cho người ta nhớ là trên đời có công đoàn khi họ tổ chức cho cán bộ viên chức đi nghỉ mát mỗi năm. Cha mợ làm lính văn phòng, cũng được suất dắt con đi, như ông giám đốc (ừ thì hồi ấy cả hai ông cuối chiều cùng đi đổ cơm cặn nuôi heo, chẳng phân biệt trên dưới). Đà Lạt của năm mười tuổi, là cây rừng bất tận và cuộc cãi nhau giành khách của hai quán cơm. Vẫn còn tấm hình chụp con nhỏ cắt tóc hệt gáo dừa úp ngược đứng giữa phong cảnh hữu tình, nhưng mỗi khi nhìn lại, cách nào cũng nhớ giọng Bắc chua thanh chửi đến rát cành thúi củ.

Lần thứ hai trở lại, ký ức xúi mợ tìm đúng dãy hàng quán ấy để…tránh đi, mặc thức ăn của họ thơm ngon bỗ dưỡng. Muốn giữ lại ký ức đẹp thôi, nhưng những thứ xấu xí mợ không cách chi buông bỏ. Cũng như khó kìm giữ so đo hiện tại với quá khứ, kiểu như góc đường kia hồi xưa đẹp hơn, dốc chợ hồi xưa thanh cảnh mát lành hơn, cây cỏ hồi xưa đượm hương hơn.

Thứ ý nghĩ đó, nhỏ bạn đường của mợ chưa từng có. Với nó, đương nhiên là thác có nhiều rác (dãi dất này đâu chẳng rác), vườn hoa hơi diêm dúa (gì chớ diêm dúa thì nước Việt mình rất ưa), mùi mỡ động vật khét lẹt trên đường (chỗ nào chẳng vậy). Con nhỏ có thể hơi thất vọng một chút, nhưng không mất mát, áy náy như mợ cảm thấy. Như thể mảnh đất này của ông cố tổ mợ để lại, mà mợ thì không cách chi giữ gìn cho nó mơ mộng như xưa.

Học quen với mất mát, xem những biến động của đời chuyện tất nhiên, mợ chỉ có thể làm được vậy. Mà sau này cũng nên thôi làm khó mình, khi đi hoài một chỗ, chỉ vì nhớ bồ xưa. Những du khách một đi không trở lại, có phải khỏe lòng hơn không. Thế giới này thiếu gì điểm đến, quay lại chi nơi chốn dãi dề.

Mợ nghĩ vậy, khi xe lăn bánh bỏ lại thành phố (đã cạn) sương mù. Bạn đường ngoái nhìn chị chủ quán cháo gà ngồi thêu tranh chữ thập, nó nói “chỉ thêu Phật Bà Quan Âm mà chặt chém khách như thường”. Vậy đó, ấn tượng phố núi trong con nhỏ rốt cuộc là cảnh đẹp như bài hát và tô cháo trăm rưỡi ngàn.
 
5,622
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Nguyễn Ngọc Tư - Riêng tư vừa đủ...

Màu nước mắt

Không có gì giống nhau, cả màu tóc và màu mắt. Da Vàng chân ngắn mũi bè, lấy chồng từ năm hai hai tuổi, nhân dịp trốn đi chơi, buổi chiều xứ lạ ngồi nhớ bầy con chừng này chắc vừa tan học. Da Trắng mũi hếch, mặt nhiều tàn nhang, lông tay bạc óng ánh dưới nắng, có anh bồ Thụy Sỹ chơi trumpet trong một ban nhạc jazz. Và cô không bao giờ cưới hay sinh con, dành thời gian của đời mình đi lang thang làm mấy dự án phi chính phủ kiểu như trợ giúp phụ nữ và trẻ em bị buôn bán.

Gặp nhau ở chỗ nghỉ lưng chừng núi, Da Vàng đi xuống, bạn trắng thì lên, thổn thức hỏi còn bao xa thì tới ngôi đền. Một cơn mưa nhỏ giữ cả hai lại phiến đá thêu rêu trước miếu thổ thần. Thời gian chật, nhưng cũng đủ bật ra những tò mò, về hôn nhân và tự do. Ngó đời nhau thấy ngộ. Cuộc chuyện trò có khi phải dùng tay và nhánh cây vẽ lên rêu đá những hình thù để phụ họa, mấy lúc phải tạm dừng vì Da Vàng có điện thoại. Người nhà hỏi đổi gas thì đổi ở cửa hàng nào, áo ấm của thằng nhỏ thì để ở đâu. Mới đi mấy hôm thôi mà ở nhà đã trở mùa.

Những lúc đó cô bạn tóc đỏ cứ bật nguồn điện thoại nhìn vô đó tần ngần. Trên ảnh nền có một anh tóc xõa dài tay ôm cây kèn nhìn lãng tử.

Da Vàng khoe hình con, tranh thủ câu giờ để suy nghĩ câu hỏi bất ngờ của bạn, “sao cứ phải lấy chồng ?”. Chưa bao giờ tự hỏi mình điều gì giống vậy, cô ậm ừ thì mà là, thấy người ta vậy thì mình cũng vậy, yêu và cưới cũng tự nhiên như ăn và thở. Nếu không có trách nhiệm và ràng rịt những mớ dây nhợ không nhìn thấy bằng mắt thường, sống chỉ bằng vui thôi thì khó. Vì đời vui được mấy đâu, con người ta thò đầu ra đã khóc rồi, những đứa không khóc còn bị đánh cho khóc. Lấy thí dụ như đi chơi vậy, cuộc đi này đáng giá gấp mười chuyến đi của những người nhàn hạ khác, vì bà mẹ trẻ phải thu xếp một tuần hoặc nửa tháng trước, đứa nhỏ nhất nên gửi về nội hay ngoại, con gái học cấp hai nhờ ai đưa đón.

Những thứ này không giống câu trả lời, Da Vàng hoang mang nghĩ, may mà bạn không bắt bẻ, bạn mãi nhìn tụi nhỏ trong hình cười khoe răng sún. Hoặc Da Trắng đủ tinh tế và bao dung không dồn bạn vào đường cùng.

Cô chẳng vướng bận gia đình, nên cô thoải mái đi xa, qua xứ cát nóng kinh người, qua rừng mưa nhiệt đới. Thế giới của cô là những bé gái Ấn mười tuổi đã bị bán vào nhà chứa, những bé gái Somalia buộc phải phục vụ tình dục cho phiến quân, những chuyến xuyên rừng theo chân bọn buôn người qua biên giới. Không ngày nào giống ngày nào, cuộc sống của cô đầy kịch tính.

Bạn chỉ kể chuyện người, không tả cảnh, mà Da Vàng biết đôi mắt xanh kia đã ghi lấy bao nhiêu thứ lạ lùng, cây baobab bị khoét thân làm đường ba làn xe chạy, chợ trời ngợp ruồi ở Bangladesh, những nhà thổ trong khu ổ chuột Bombay. Buổi sáng trước khi ra phi trường bay từ Âu sang Á, Da Trắng ngồi giũa móng tay, ái ai ái à chia tay với anh bồ trên bộ sofa lụa, rồi thủng thẳng sửa lại tóc ra cửa vẫy xe. Những chuyến đi nhẹ nhõm. Đâu có phải chạy vắt giò quét nhà, nấu cơm, phơi đồ trước khi ra đường, như Da Vàng.

Đời ta như quyển sách vừa mỏng vừa tẻ nhạt, Da Vàng nghĩ vậy, trong lúc tìm một vài chuyện nào đó mô tả cuộc sống của mình. Một con đàn bà tha thẩn trong khoảng sân nhiều hoa và chim sẻ, vừa ngó chừng con gái đang tuổi dậy thì tính tình thoắt nắng thoắt mưa, vừa lo thằng út sổ mũi, ho. Chắt mót một năm được vài chuyến đi chơi. Thích nhất là ngồi một mình ở nơi xa lạ, ăn món lạ, nghe người ta nói bằng thứ thổ ngữ địa phương cũng lạ. Vui nhất lúc đi gom quần áo cũ, sách cũ đem cho trẻ con ngoài đảo. Bình yên nhất khi nằm coi truyền hình cùng tụi nhỏ, dõi theo chuyện tình ông chủ và cô bảo mẫu đang đến hồi kết ở tập một trăm.

Bằng cách nào đó, một ngày đã đi qua mà không để lại dư vị. Chỉ khi quần áo con ngắn, thì mới nhìn thấy dấu chân của thời gian. Da Trắng tỏ ra không hiểu nổi, cái cuộc sống ấy không phải quá chật chội và tù túng sao?

Rảnh đâu nghĩ tới chuyện chật hay không chật, Vàng cười.

Chuyện chưa xong mưa đã hết, từ chỗ của họ ngồi, nắng bắt đầu phết mật lên cây. Lúc chào nhau Da Vàng nói chúc bạn hạnh phúc với anh Trumpet. Tự dưng cô bạn mắt xanh sụt sịt, “Bốn ngày rồi anh ta không gọi”. À thì ra là nhớ, nên cứ cầm điện thoại tần ngần, cứ như chờ đợi.

Rốt cuộc thì cũng có một thứ giống nhau: màu nước mắt. Mấy lúc Da Vàng đau đầu mà chồng vẫn bỏ đi nhậu, nước mắt cô cũng y chang Trắng, giống cả vị mặn.

Một người lên, một người xuống núi. Ý nghĩ cả hai còn để lại ở lưng chừng.
 
1
0
0

dang686pro

New Member
Tiều tụy vòng quanh Nhiều năm trước, ở ngay chỗ tôi nhìn người đàn ông cất vó sông, chính ông cất vó khi ấy vẫn trẻ ranh hôi nắng, cũng đang ngó cha mình cất lên một lưới đầm đìa nước. Đó là một thằng nhỏ háo hức. Không ngóc ngách nào của làng cổ mà nó không thò mắt mó tay vào. Nghe gà gáy, nó biết trúng phóc gà nhà ai, nhìn sợi mưa nó đoán nước sông Châu ngập đến mức nào ở chân cầu, và có bao nhiêu tường vách thâm sì của những ngôi nhà trong làng cổ được rêu lợp kín. “Phải cuối tháng chín rêu mới trổ bông”, đôi khi du khách gặp một thằng nhỏ móc chân treo ngược trên nhánh cây bảo vậy. Rêu thơm dậy động chỉ ít ngày là hết, cậu khoe thêm, thơm tới nỗi ông Út Gù mất ngủ, cả đêm cứ lội bộ lang thang, tru từng chập hệt chó rừng. Vài cái tên người làng thường xuất hiện ơ hờ trong câu chuyện của thằng nhỏ, như những cái bẫy vô hại. Khách tò mò, lỡ miệng hỏi ai là Út Gù, tức thì thằng nhỏ sẽ làm màn ảo thuật để ông già bên xóm hiện ra. Nó kể vanh vách từ đời bà cố lũy người đàn ông tật nguyền ấy, tên những con chuột ông nuôi bằng thịt mèo, và ý nghĩa của những chữ khắc trên thềm đá trước nhà ông, món cá hũn hĩn kho quéo ưa thích. Như thằng nhỏ đã nuốt trộng cái làng cổ này, giờ ai hỏi tới đâu nó thuộc làu tới đó. Nhưng với một đứa háo hức tràn ra mắt, không bao giờ nó ngừng thòm thèm, thôi cảm thấy đói ngấu những thứ mới mẻ của cuộc đời. Khi những mảnh ngói trong làng không còn gợi cái ý nghĩ dưới đó giấu một lá bùa, dưới ngói chỉ là một viên ngói khác, hay miệng giếng này không dẫn đến kho báu mà đến những bó xương gà, thằng nhỏ chạy theo du khách để háo hức trong đó đừng chết đói. Một hướng dẫn viên tận tụy, chẳng bao giờ xòe tay đòi tiền, bù lại, thằng nhỏ biết nước dừa ở Maidives ngọt y như xứ nó, ở Yukon đá bào chất đống ngoài đường, và người da đen máu cũng đỏ như thường. Họ có dình dàng bằng ba người làng bó lại, mắt nâu hay xanh, khi xước da họ cũng nhăn mặt, rớm nước mắt. Và họ luôn luôn vô tình làm thằng nhỏ đau. - Ở chỗ tao, có cái tháp cao gấp hai chục lần cái gác chuông này. Giỡn hoài, cái tháp chuông này cao nhứt hạng rồi, thằng nhỏ phải mất nửa tiếng mới trèo lên tới đỉnh tháp. Ở đó có thể nhìn thấy từ đầu đến cuối làng, vượt mắt qua những khu vườn ra tận giữa sông Châu, nơi có vài cù lao hoang tháng chạp bông lau lợp trắng. Nhưng khách chứng minh cái tháp chuông mà thằng nhỏ tôn thờ chỉ là muỗi, khi khoe tấm hình ngọn tháp xứ họ lên đèn ngay bên cạnh trăng sao. Thằng nhỏ không làm sao hình dung nổi cái thứ cao hơn gấp hai chục lần tháp chuông làng mình. Nằm ngửa, tâm tưởng cậu lấy tháp này chồng lên tháp nọ, nhưng luôn bị mất mối nối giữa chừng. Nó rã rời trong cái ước muốn tận mắt nhìn ngọn tháp ngạo mạn chọc ngoáy vào những bó chớp, như những lần tuyệt vọng muốn sống trong một đêm Bắc Âu trời vẫn sáng trưng, hay nếm thử thứ trà khiến người ta luôn mơ thấy mình bay. Những lúc đó, thằng nhỏ ra chỗ chân cầu ngồi nhìn cha mình cất vó. Cái bộ điệu lơ tơ mơ khi người đàn ông vươn vai kéo gọng vó lên làm phiền nó hết sức, cả cách ông lơ đãng chẳng thèm dòm ngó đám tôm cá quýnh lên trong lưới. “Phải mình là mình coi có con cá lạ nào lạc vô không”, nhiều lần nó nghĩ vậy. Nhưng cha nó không thèm những tặng vật của dòng sông, mỗi tháng ông nhận được khoản tiền lương cho cộng việc này, vậy là đủ. Cứ mười lăm phút ông cất vó một lần cho du khách đứng coi, chụp hình. Rồi rít một hơi thuốc, ông già buông cái vó cho ngập miệng vào sông, kệ tụi tôm cá trong lưới thong dong đi mất. Thằng nhỏ ngờ là cái tính háo hức của mình chắc là di truyền từ bà mẹ xưa giờ chưa từng thấy mặt. “Nhưng phải có ai đó đẻ mình ra chớ”, nó nghĩ vậy, và bà mẹ tồn tại trong nó bằng cách ấy. Hỏi cha thì ông nói, “đất nẻ đẻ mày”, rồi bỏ ra chòi vó. Một ngày làm việc của ông kết thúc, khi chuông nhà thờ đổ, và làng mở những bản hòa tấu quen thuộc, thứ nhạc cả chục năm nay không đổi, phảng phất tựa khói nhang. Cất vó, khép cửa chòi, trên đường về nhà ghé tiệm mua xị rượu, và lấy rượu chườm ướp cho men Xiêm ngấm vô chiêm bao. Thằng nhỏ sinh ra đã thấy nhịp sống tẻ nhạt của cha mình, đến la rầy con cũng chẳng câu nào mới, mười bốn năm trời chỉ ba chữ “đồ con hoang” mà trên miệng ông đã mất dần cái âm sắc nhọn và độ rền của sự giận dữ. Cậu nhỏ cảm thấy phiền, bởi người cha diễn trò cất vó ngoài sông, bởi dì The hát ầu ơ cho tụi búp bê nằm võng vang cả phố trưa, cũng là diễn cho du khách khúc ca để họ chạnh lòng quay lại chơi ở cái làng nửa thế kỷ trôi qua vẫn cổ. Thằng nhỏ cũng chịu hết xiết người làng cả ngày lơ đãng, kệ khách lại qua trước tiệm lụa nhà mình, nếu không có cái quạt ve vẫy trên tay thì chẳng khác nào tượng đá. Ngay những đứa cùng trang lứa với nó như con Hương cũng tự buộc tuổi mười bốn vào khung dệt chiếu, chắp trân đố có mắc lỗi nào. Những trưa đi theo cái bóng của chính mình dọc theo đường chính của làng, không khí êm đềm đến nỗi thằng nhỏ thở không ra hơi. Nó cảm thấy mình sắp chết tới nơi. Một bữa, thằng nhỏ nhảy chuyến tàu sớm rời làng. Nó biết chị Cẩm sẽ đứng bên đường ray vẫy tay, như hai chục năm nay sáng nào nghe còi tàu đằng xa chị cũng bổ nhào ra chào người cha đã bỏ đi hồi chị còn ẳm ngửa. Dưới những tia nắng non chiếu xiên, những nhánh tay khô khằng của chị chói lên trong cái chào mà thằng nhỏ tự vơ vào cho mình. Rồi một xế trưa của mười bốn năm sau, cũng chị Cẩm vẫy đón thằng nhỏ trở về. Chị không già đi mấy, nhưng thằng nhỏ háo hức ngày xưa giờ trở thành một gã đàn ông sạm nắng, áo sứt nút, tóc phủ vành tai, ẳm theo đứa nhỏ nói chưa sõi. Gã không kể mình đã đi đâu làm gì, kể từ biến mất trong toa tàu sáng ấy. May thì lúc say, trong bữa giỗ hay cuộc nhậu xình xang, khi nghe ai đó nhắc tới một thị trấn vùng biên mịt mù, gã buột miệng “chỗ đó thiếu chút nữa là tôi đâm chết con Phấn”. Mọi người đoán Phấn chắc là vợ gã. Nhìn hai trái chanh chai sần trên bàn tay, nghĩ mười mấy năm qua chắc thằng nhỏ chạy xe ôm hay xe tải, xe đò, mấy công việc rày đó mai đây. Thấy sẹo vết chằng chịt khắp người nghĩ gã chắc va chạm nhiều để kiếm miếng ăn. Ngó thằng người thừ lừ ngồi ngoài thềm, ruồi bu không đuổi, mắt đổ ghèn không dụi, biết lòng đã hết háo hức rồi. Giờ trộn gã với người phố cổ, sẽ không dễ nhận ra bởi cái thờ ơ ăn lan trên gương mặt, ánh mắt. Sáng thứ hai từ buổi đặt chân về làng cổ, gã đi tới nhà chị Cẩm dúi con vô lòng chị, biểu “từ giờ giữ con cho tui”. Chị nói “mười tám phút nữa tàu qua”. Gã dặn “thằng nhỏ ăn gì cũng được, cho húp nước cơm vẫn sống như thường”. Cẩm vuốt mái tóc đứa nhỏ khét nắng, lại nói “cha có nhìn thấy mình không ta ?”. Năm ngoái, có anh lái tàu mủi lòng trước những cái vẫy tay, đã tìm tới và rủ Cẩm đi, nhưng chị nói tàu sắp qua, chị phải vẫy chào cha, đi thì sợ chạy về không kịp. Tay lái tàu ấy sáng nay chắc vỡ mộng khi thấy chị Cẩm bồng trẻ nít đứng chào bên đường ray. Hình dung đó làm cho cha của đứa nhỏ hài lòng. Thằng người lừ đừ ra chòi vó, chậm rãi đái một phát như chó đánh dấu lãnh thổ, và nói với ông già, từ giờ chỗ này của tui. Đồ con hoang, ông già chửi, rồi xách chai đong rượu về. Thằng con hút xong điếu thuốc, búng tàn lại sau lưng, hững hờ cất vó, không đếm xỉa coi có gì ngoài rác nằm trong lưới. Sông Châu giờ cũng chảy bâng quơ cho có, nhìn nước bằng mắt thường khó biết được nước xuôi phía nào. Bóng in mặt sông, gã đốt điếu thuốc mới, nhả ra mớ khói lờ đờ như hút thuốc cũng là một phần của hợp đồng công việc. Từ giờ gã bắt đầu đi vào những khung hình, trở thành nhân vật chính trong những bức ảnh mang tên “yên ả”, “thanh bình” hay “cất vó” (mặc dù trong ảnh cũng rành rành là cất vó). Và tôi, đứa con trai được ba mình mang về từ chân trời, được má Cẩm gói giấc ngủ vô cánh tay xương xẩu, tuổi mười ba rún đã bắt đầu thốn đau bởi tiếng còi tàu, nhìn nước ròng ròng chảy xuống lưới vó, nghĩ, rốt cuộc cái làng này còn cầm tù mình bao lâu nữa ?
Giày Dr.martin made in UK NEW ARRIVAL
hàng đẹp long lanh , New 100% ( size 8uk)
Giao dịch và ship toàn quốc
Liên hệ : 092 788 7910
https://www.facebook.com/profile.php…

( Cash in hand )
 
5,622
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Nguyễn Ngọc Tư - Riêng tư vừa đủ...

Đám cưới rừng

Địa chỉ in trên thiệp cưới có vẻ hẩm hút, kinh ông này ấp bà kia, nhưng hóa ra rất dễ tìm. Suốt con kinh xẻ dọc vạt rừng, chỉ mỗi đám cưới thằng Mọt. Ngay từ đầu kinh đã nghe tiếng nhạc sàn mở hết cỡ, cứ vịn theo đó mà đi.

Không thể nhận ra thằng Mọt suốt ngày lặn ngụp nhổ bông súng bán đang đóng bộ âu phục, dúi mũi vào gò má cô dâu cũng tây vô cùng trong tấm hình chình ình cửa rạp. Mặt hai đứa được chỉnh sửa láng o hệt đào kép trên lịch những năm 90. Má Mọt khoe chụp bộ ảnh này gần chục triệu, có quay phim nữa, chừng làm lễ sẽ mở cho bà con coi. Chị mặc áo đầm vàng, mang dép Lào, chắc vô thức xỏ nhầm.

Khách không nhịn được trầm trồ, ở rừng mà đám cưới y chang ngoài chợ, có khi còn trội hơn ở khoản khoa trường, ồn ào. Sà vô mâm tiệc toàn họ hàng, hỏi bà dì Bảy khỏe không, bà trả lời, ờ món này cay thiệt, nghe mùi muốn chảy nước mắt rồi. Thấy không cạnh tranh nổi âm thanh của dàn nhạc mướn từ ngoài huyện, khách đổi qua cách giao tiếp quen thuộc của những tiệc cưới thời nay : ra dấu.

Hỏi thăm mới biết không phải tự dưng mà người nhà thằng Mọt nảy ra ý tưởng làm đám cưới sang. Từ năm ngoái cưới kiểu chợ đã phả hơi thở thơm phúc nước hoa của nó vào rừng, xuyên qua những vạt tràm, lan rộng khắp như gió chướng. Tiếc là không thể rước dâu bằng xe mui trần, vì xứ rừng không có đường bộ. Vào cái ngày được coi là trọng đại của đời người, vợ chồng thằng Mọt cũng được tắm mình trong những thứ sặc sỡ nhất, gần như không có khoảng cách giữa chợ và quê, giàu với nghèo.

Nhưng cái nghèo chỉ lồ lộ khi khách ra khỏi rạp cưới vòng ra sau nhà. Gian bếp sắp đổ, lưng dựa hẳn vô hai cây tràm chỏi đỡ. Một bên vách rách, thấy bịt lại bằng mấy cái bao bố tời. Nhạc vỗ mạnh, cái nhà muốn rung lắc theo. Ba thằng Mọt nói cũng tính sửa nhà đón mùa mưa sắp tới, nhưng tiền đã dồn vô đám cưới thằng con. Chẳng đủ đâu là đâu, phải vay thêm một mớ. Hai chục năm nay thằng Mọt lặn ngụp sình bùn, mấy khi được hớn hở rỡ ràng như vầy để sau này kể lại cho con cháu.

“Nhưng cô đừng có lo, đám cưới xong tụi nó dắt nhau đi Bình Dương làm trả nợ, mấy hồi”, chắc thấy mặt khách hơi lo, ba thằng Mọt dỗ dành. Ngày này tháng sau, ở cái thành phố công nghiệp xa xôi cách quê nhà năm trăm cây số, đôi vợ chồng trẻ này nằm trong gian trọ hẹp như lổ mũi, nhắc hoài nhớ không anh bữa đám cưới mình mấy thằng bên sông nhậu xỉn quá, mửa tại chỗ, nhớ không em lúc bong bóng nổ tung cơn mưa giấy màu xuống đầu tụi mình, con nít cả xóm vỗ tay quá chừng. Ký ức đó có làm hai đứa quên cặp giò sung phù vì tăng ca, và những đầu ngón tay rướm máu, quên nước mưa tràn vào nhà trọ và cơm cháy thì khô nuốt cong cổ họng ?

Thực lòng, với tư cách cô họ thằng Mọt, cảnh nó mặc com lê xanh đọt chuối, cầm ly bia vàng tăm tăm bọt, nhìn bảnh hơn nhiều so với thằng Mọt môi mỏ tím ngắt mà khách từng gặp dầm mưa ngồi ngoài chợ, bán mớ nhái còm nhom. Biết đâu những gam màu u ám bôi vào cả đời thằng nhỏ, trong ký ức chỉ mỗi ngày cưới là rực rỡ, duy nhất chói lên mỗi khi ngó lại.

Nhưng ông nội thằng Mọt không chịu nổi cái lý đó, giận lẫy bỏ ra ngồi ngoài hậu vườn từ sáng sớm. Liếp chuối cách rừng chỉ một con mương khô đáy, muốn đốt điếu thuốc hút cho đỡ buồn, nhưng sợ tàn lửa gây cháy rừng, nên thôi. Thấy khách ra thăm ông già nói xóc óc, sao không ở trỏng nghe nhạc cho sướng mà ra đây chi, mướn dàn nhạc bộn bạc, không nghe uổng tiền.

Nói vậy thôi, ra tận bìa rừng nhạc vẫn bám gót dội theo. Ông già nói tụi chim nghe còn sợ hết hồn. Đầu mùa mưa có bầy cò về làm tổ, ông mừng hết nước. Chim cò chịu tới ở, thành sân chim, ông già sẽ xui ba má thằng Mọt cất quán nước bán cóc ken cho khách du lịch, đỡ nghèo. Nhưng nhạc nện suốt ba ngày đám cưới, tối qua chim về thưa lắm.

“Không biết tụi nó có quay lại không ?”, ông nội thằng Mọt nói. Khách tự hỏi không biết ông già đang nói tới bầy chim hay những đứa cháu ông, nay mai đây sẽ bỏ rừng ra chợ, cày cục trả nợ cho cái đám cưới thiệt sang.
 
5,622
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Nguyễn Ngọc Tư - Riêng tư vừa đủ...

Chuyện nước trong nhà

Mở mắt ra, chân quơ tìm dép thấy giặc đã ngang nhiên ở đó. Nước, không biết vào hồi nào, ngập nửa chân giường. Lần đầu tiên cái thành phố nhỏ này nổi trôi theo những ngày mưa trút xả, hồi nào giờ cứ tưởng đâu nó nghiêng chừng hai ba độ bảy, có nhiêu nước dốc chảy ra biển hết, nhưng giờ biết không phải vậy.

Một cuộc xâm lăng trắng trợn. Mở rộng lãnh thổ của mình vào tận các hộc bàn, nước tràn qua mặt ghế sô pha, thậm chí nó còn reo khi qua cửa hẹp. Bầy cá lòng tong lăng xăng lội te vào dọ thám mọi ngóc ngách, bã mía và lá khô thì điềm đạm hơn, dường như có chút tự ti cái phận rác của mình.

Những nếp nhăn trong vỏ não bà già cũng như bị úng nước. Mấy món đồ điện tử đắt tiền sắp ướt đít, nhưng bà mãi cứu hủ rượu mơ, tìm chỗ kê cao bình bông giả, cuốn võng lại. Bận rộn với đám đồ linh tinh vô giá trị, đến điện, thứ có thể rò rỉ bất cứ lúc nào, bà già cũng quên ngắt. Lúc ngơi tay đứng thở, bà ngó quanh, nghĩ những thứ đúng kiểu người già lo xa, biết dọn dẹp nổi không, một mai nước rút.

Ngày mai ấy chưa tới, còn lâu mới tới khi bão nối bão ngoài khơi, bầu trời cú rủ nặng trịch, và hiện tại nước không có dấu hiệu dừng cuộc chiếm đóng vô lối. Xế trưa nước đã lên quá đầu gối, bà già nghĩ tối nay chắc khó ngủ lắm đây, nghe sóng vỗ ì oạp dưới lưng, lại nhớ cái hồi ở trên nhà sàn của ông nội. Lúc ấy vẫn chưa tính tới chuyện bứt đi. Bỏ đi là chịu thua sao, dễ gì, bà già nói vô điện thoại lúc gọi cho thằng con độc nhất giờ đang ở xa ngàn cây số, nó giảy nảy kêu mẹ tạm chạy qua bên ngoại đi. Đâu được, ở lại coi chừng nhà cửa, bà già cãi.

Nhưng nước lên tinh thần xuống, phần do ngấm lạnh và thấm mệt, bà già tính chuyện chạy lụt. Chỉ nghĩ thôi mà đã rầu thúi ruột rồi. Làm sao chở theo cái võng ban trưa nằm đọc sách, bộ dàn Akai sáng nào Thái Thanh, Hà Thanh, Minh Hiếu cũng da diết “tim vang còn giây lát/hơi run còn thơm ngát/dương gian còn trong mắt/nghe tiếng hát chưa nhạt tan”, bộ bàn đá mài đặt ngoài hiên bà hay ngồi uống trà đón mặt trời, cái tủ lạnh lúc nào cũng chật ních những món ăn thú vị.

Bà già không muốn bỏ lại gì trong vòng tay lạnh lẽo của nước. Mọi thứ trong căn nhà nhỏ như lỗ mũi này đều quan trọng, thiết thân, áp chặt vào đời sống thường ngày. Sống một mình, bà già dành hết sự quan tâm vào cái tổ, như hồi xưa chỉ chăm chú vào thằng con, mặt nó hớn hở chắc là hái điểm cao, móng tay nó dài rồi kìa, tóc nó chải kiểu này coi không được, nó trỗ mã nhanh quá áo chưa chi đã ngắn. Rồi thằng nhỏ lập nghiệp ở xa, bà day qua cưng nhà, dồn vào nó thứ tình cảm đến mức cực đoan, kiểu như không nhà ai hay bằng nhà mình. Nên bà dõi theo chỗ sơn tường tróc lở hình như loang rộng ra một chút sau mưa, một viên gạch bật lên khỏi nền nhà, cửa gỗ bị nắng làm cho co ngót. Những tác động của thời gian và thiên nhiên lên ngôi nhà, dù là nhỏ, bà già cũng cảm nhận được ngay.

Giờ thì nhà chịu trận lún trong nước, chủ nó sắp chạy trốn. Như một kẻ bội phản, bà già nghĩ vậy trong lúc nhét bộ đồ vô giỏ, với tay lấy cuốn truyện ngắn Sê Khốp. Không thể mang theo cả căn nhà, nên cũng hết ham những thứ khác, kể cả thức ăn trong tủ lạnh mà cho dù ở chỗ nào thì bà cũng ăn được như thường, nhất là lúc này, sau một ngày mỏi rã. Chỉ mỗi việc tắt đèn hay không tắt đèn, thì nghĩ khá lâu. Nhà đã ướt rồi, giờ thêm tăm tối, nó lạnh chịu gì nỗi, bà già nghĩ vậy mà không nỡ gạt công tắc.

Nấn ná, tiếc rẻ, bịn rịn, rồi cũng phải rời đi. Lúc ra cỗng kịp cặp nách nải chuối xiêm chín bói, mà tại sao phải là nó mà không phải thứ gì khác thì chính bà già cũng không giải thích được, ngoài lý do tiện tay. Ngoài bộ quần áo khô, nải chuối và chút tiền gọi là gia tài, bà già không mang thêm gì nữa. Cả chiếc xe cub cà tàng cũng ướt bu gi câm như hến rồi.

Trong chuyến đi cuối cùng của một đời người sang bên trời khác, những thứ đem theo được cũng chỉ từng này. Sau ý nghĩ ấy tự dưng bà già thấy lòng thanh thản lạ lùng, khi ngoái lại căn nhà lần nữa.
 
5,622
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Nguyễn Ngọc Tư - Riêng tư vừa đủ...

Sót lại của tháng 11

Cô Thắm lấy chồng


Cô Thắm lấy chồng vào cái tuổi bốn mươi hai. Thiệp cưới đến tay trưởng phòng giáo dục, ông nghĩ chắc đây cũng là một giáo viên trong hàng trăm người dưới quyền quản lý của mình. Nhờ ai đó nhắc, ông mới nhớ ra cô Thắm chính là nhỏ bạn ngồi cùng bàn cùng lớp hồi trung học. Ai mà ngờ tới giờ mới lấy chồng.

Cô Thắm dạy mầm non. Sáng sớm cô đã có mặt ở trường chuẩn bị đón trẻ, chiều muộn cô mới về, có khi mỏi mòn ngồi cửa lớp chỉ vì có một đứa trẻ bị quên đón. Chuyện trẻ bị bỏ quên xảy ra cũng thường, sau này không đợi, chạng vạng cô đưa đứa nhỏ về nhà mình chờ người thân chúng sực nhớ ra. Hồi trẻ chắc là cô cũng đã từng yêu, từng hẹn hò trong những buổi tối không bận làm đồ dùng chơi và học cho bé, không ở lại trường tập văn nghệ, không chép giáo án (đừng nghĩ mầm non thì không có giáo án, mà lầm). Chắc là chuyện tình duyên đã chẳng đến đâu, bởi trong những buổi hẹn hò ấy cô mệt đừ sau một ngày quần quật với đám trẻ, hay trắc trở ở mẹ anh bồ khi đọc báo thấy bảo mẫu toàn những kẻ ngược đãi trẻ con. Rốt cuộc thì cô đã tìm được người đàn ông của đời mình, hiểu và yêu những gì cô có, kể cả công việc với đám nhỏ. Vài cô giáo cùng trường cũng quá tuổi ba mươi, lấy duyên muộn của cô Thắm ra làm hy vọng.

Đám cưới cô có hai đứa học trò được mẹ đưa tới chung vui. Cô dâu chú rễ dắt tụi nó ra chụp hình, tay mỗi đứa cầm cái đùi gà chiên nước mắm, nhai ngỏn ngoẻn. Tấm ảnh ấy sẽ được đặt trong tủ kiếng, để đôi khi cô Thắm nhớ được mặt mũi ít nhất hai đứa trong hàng ngàn đứa trẻ mà cô đã bảo bọc, dạy dỗ trong gần hai chục năm dạy học.

Không có đứa học trò nào nhớ cô hết. Cái ký ức non nớt của độ tuổi đó không thể nhớ người dưng nào thành rãnh, thành vết hằn. Giáo viên mầm non như cô không tồn tại trong những buổi tụ tập gọi là họp lớp. Cũng chẳng trò nào nhắc tên cô Thắm trong những bài tập làm văn kiểu như tả thầy cô giáo mà em yêu. Mặc dù, cô đã từng giặt quần cho trò khi chúng ị bậy, tè dầm, đút cơm chúng ăn từng muỗng. Cả khi nghỉ trưa, cô cũng chờ chúng ngủ say thì mình mới chợp mắt. Ngày Tết nhà giáo, chẳng có đứa học trò cũ nào tìm về tặng bông. Những vị khách lũ lượt qua đò và không bao giờ ngoái lại.
Ngày tết nhà giáo, thầy dạy cấp ba cũng là bạn học của cô Thắm, phải ôm hoa bỏ vô thùng rác sau khi lấy hết lõi[SUP](*)[/SUP]của chúng ra. Nhà thầy đối diện ở bên kia đường, luôn tấp nập ngay cả những ngày không lễ tết. Một ngày thầy dạy thêm bốn ca, hỏi sao chẳng nhộn nhịp. Ngoảnh đi ngoảnh lại, thầy bên ấy cơi lên mấy tầng, nhà cô Thắm ngày càng như lụn xuống. Thỉnh thoảng cô cũng được phụ huynh dúi cho chút tiền, gọi là “ưu tiên chăm chút cho cháu nó”, đổi lại, cô phải cảm thấy tội lỗi, khổ sở và bị trừng phạt khi con họ chạy giỡn va vào nhau xước trán, u đầu. Cô Thắm không than thở, bởi đã từng làm điều đó một lần, và bạn bè nhiếc “ai biểu đâm đầu đi nuôi dạy trẻ, thiếu gì nghề khác”. Giọng bạn kiểu như hãy tự nhận trách nhiệm cho chọn lựa của mình, hoặc hãy oán ông Nguyễn Văn Tý viết bài nhạc Cô đi nuôi dạy trẻ du dương dụ dỗ người nhẹ dạ cả tin. Quả là hồi ấy cô Thắm có nhiều con đường để đi, không như những cô giáo trẻ bây giờ “thi gì cũng rớt, tụi em mới thi vô sư phạm”.

Ở những trường mầm non quốc tế, trường tư hạng sang, cô giáo chỉ kể chuyện cháu nghe, dạy múa hát cho chừng hai chục đứa nhỏ mỗi lớp. Nhưng trong ký ức đi nuôi dạy trẻ mấy chục năm của cô Thắm, ở mấy trường công mà cô từng làm việc, lớp luôn trên năm mươi trẻ, hai cô giáo sẽ kiêm luôn quét lớp, lau nước tiểu tè dầm, thay quần áo cho bọn nhỏ, cho những đứa bệnh uống thuốc, dọn những đống nôn mửa của trẻ con. Cuối chiều trong giờ trả trẻ, cô còn phải ngai ngái một đỗi đường, không biết có rắc rối nào nảy sinh từ những lời con thỏ thẻ với mẹ, “cô giáo đánh”. Người ta luôn nghĩ những đứa trẻ luôn nói sự thật, chỉ mỗi bà mẹ trong Thiếu phụ Nam Xương là phải ngậm oan trầm mình tự vẫn vì lời thật của trẻ con.

Ai đó nói ở trường mẫu giáo công, nếu cô dạy trẻ nào tuyệt đối không từng quát mắng, hoặc tét đít con nít, thì cô ấy chính là hóa thân vị thần tiên áo trắng trong chùa Phật. Đó là nơi luyện phẩm hạnh, kể cả khi mệt lử bởi trẻ con và những bất tiện trong giảng dạy, cô giáo cũng phải cười tươi nói ngọt. “Cũng từng muốn bỏ, mà thấy không đành” cô Thắm nói vậy khi có người hỏi ngay trong đám cưới, liệu có theo chồng bỏ cuộc chăn (con nít).

Đám cưới của cô Thắm chỉ bảy bàn, cô dâu tóc có vài sợi bạc. Không biết cô có kịp sinh đứa trẻ của riêng mình, khi mà năm nay cô phải thi giáo viên giỏi toàn thành. Nhà trường nói chỉ trông cậy mỗi cô đem thành tích vẻ vang về thôi, kỳ thi văn nghệ vừa qua đã trắng tay rồi.
 
5,622
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Nguyễn Ngọc Tư - Riêng tư vừa đủ...

Lại một chương

Một buổi tối của tuổi mười lăm, cô Chín Tím được tìm thấy dưới chân cầu Tân Thạnh. Rách mướp, nhưng tay cô nắm chặt tới mức người ta chỉ có thể mở ra từng ngón một. Giữa lòng tay xanh lạnh, là một cái nút áo.

Tròn, màu trắng đục gợn nâu, vật chứng duy nhất cô Tím tóm được kẻ thủ ác đã chuyền qua tay từng người trong xóm, với hy vọng ai đó từng nhìn thấy nó hoặc anh em còn lại của nó. Cái nút có thể bị bứt ra từ áo trắng học trò, áo xám của anh đò dọc, áo kẻ của ông thầy giáo, áo chim cò của mấy thằng người hay ôm gà nòi đi cáp độ.

Nhưng chỉ có vậy, của bất cứ ai, bằng nhựa, lợn cợn trắng nâu, chỗ đính chỉ vô áo bị gãy, cái nút không nói gì không kể gì thêm. Người có thể kể thì lơ tơ mơ mỗi chuyện mình bị bịt miệng từ phía sau bởi một cánh tay cứng đanh, sau đó ngất luôn không biết chi trời đất.

Thiêm thiếp trên chiếc giường trạm xá, đôi lần tỉnh dậy cô Tím lại dập đầu vào tường, người ta phải nhồi thêm thuốc ngủ cho cô lịm đi. Ai tới thăm bà nội thắc thỏm mỗi câu “thiệt là quân ác nhơn, không lấy gì đắp cho con nhỏ”, như thể chuyện con gái bà phơi lạnh quan trọng hơn hết thảy chuyện khác.

- Khóc chừng nửa năm thì tôi nín. Anh cũng biết đó, nước mắt đâu mà khóc hoài.

Làm ra vẻ dửng dưng, cô Tím kết câu chuyện của mình, để giải thích cho anh con trai hiểu sao qua tuổi ba mươi mà cô chưa chồng, sao cổ cô đeo sợi dây chuyền bạc xỏ qua một cái nút áo. Cuộc coi mắt sẽ kết thúc ở đó, nhưng có khi kết thúc ngay lúc người con trai ghé cái quán đầu xóm để hỏi nhà Chín Tím. Phải Tím Nút Áo thì qua doi kia là tới. Vụ nút áo là sao hả ? Vầy, hồi con nhỏ mười lăm tuổi…

Chắc phải bỏ xứ đi con Tím mới mong kiếm được tấm chồng, bà nội hay rên rỉ vậy. Nhưng cô phải ở lại, hy vọng tìm được kẻ hại mình. Gã phải là người trong xóm mới thuộc lòng những chiều thứ sáu, cô Tím về nghỉ cuối tuần, xe lam chạy từ chợ về tới đầu xóm thì trời đã nhập nhoạng. Phải là người trong xóm mới đánh ngất cô để khỏi bị nhận mặt. Trong tay chỉ có cái nút áo câm, không đủ làm ra công lý của người, nhưng cô tin luật trời, thằng bất lương đó phải có khi lơ là mặc lại cái áo có hàng nút tật nguyền, hoặc sẽ biến sắc khi nhìn thấy dấu vết tội ác lủng lẳng trên cổ cô.

Suốt nửa năm dành cho việc khóc, cô Tím trốn ở trong nhà, thế giới của cô chỉ từ cửa giữa ra sau bếp. Nếu không phải nấu cơm giặt giũ cô sẽ săm soi nút áo, như nuốt trộng bằng mắt, ghi khắc, đóng đinh nó vào lòng mình. Một bữa cô Tím hỉ mũi cái rột, lấy cùi tay lau nước mắt, nói với chị dâu, mai đi coi cúng đình.

Chín Tím bắt đầu lảng vảng những chỗ đông người. Hay đi bộ ngoài đường, gặp người đàn ông nào cũng nhìn nghiến ngấu. Chẳng quan tâm mặt mũi vuông hay tròn, chân ngắn hay cong, chỉ nghĩ coi mặt họ có biến sắc không, áo có đứt nút không. Kẻ bất lương đang núp sau mặt nạ của anh Bảy dượng Ba, những người đàn ông sớm xỉn chiều say, hay chính ông ấp trưởng có ánh nhìn lén lút, không chừng. Cô tin mình sẽ nhận ra gã bằng thứ linh cảm được chuốt nhọn trong từng ấy tháng ngày. Mùi mồ hôi tay, hơi thở dày như tát lửa vào gáy cô, và tiếng tim gã lồng lên trong ngực. Chắc chắn mình sẽ bắt được quân bất nhân đó, cô Tím nghĩ vậy.

Bà nội tự dưng lo, “coi chừng gánh nút áo còng lưng”. Quãng đó bên sông có anh thợ máy nhờ mối mai qua hỏi cưới. Cô Tím cũng hơi xiêu lòng, nghĩ hôm cưới sẽ mời đông, biết đâu oan gia của mình cũng tới. Bữa Thợ Máy xách cặp vịt qua nhà xuống mối, nhìn thấy nút áo trên cổ cô Chín, anh chết lịm. Anh bảo từ đẻ ra đã sợ nút áo rồi, nên mặc toàn áo thun tròng cổ, cũng không biết sao lại sợ, chắc kiếp trước bị một vốc nút chèn ngang họng chết oan. Cứ thấy nút áo Thợ Máy sẽ không thở nổi, mà Tím thì lúc nào cũng treo tòng teng trước ngực, cưới nhau sao giờ.

Chỉ cần gói cái nút giấu đáy tủ hay quăng phứt ra vườn, là tháng Giêng sang năm có pháo rước dâu, bà nội rên rẫm. Chín Tím đóng cửa buồng nói vọng ra, “vậy khác gì bỏ qua cho ”. Chủ nhân của nút áo giờ biết đâu đang nằm tréo nguẩy cho vợ nhổ tóc bạc, hay thảnh thơi lắc võng ca vọng cổ, biết đâu ngồi coi đá cá lia thia. Hình dung đó làm cô Tím thấy mình bốc khói. Phải có ai đó trả giá cho cái cảm giác buốt ruột, buồn ói mỗi khi bước qua cầu Tân Thạnh, cho những ánh mắt thương hại dính vào người, cho tuổi hai mươi héo rượi.

- Tôi mà đi theo anh rồi thì tụi vô lương đó sẽ thảnh thơi đã đời, vậy đâu được.

Sau câu nói đó, thêm một người đàn ông ra về khi vừa mới ngồi ấm chỗ bàn trà nhà nội. Anh này không ghê nút áo, chỉ ở hơi xa. Cô Tím không ngại lấy chồng cách nhà mười ba cây số, cảnh lạ người lạ, cọ bụng chồng sẽ làm mối thù mòn mỏi. Nút áo còn cô còn nhớ mình từng tơ tướp bên cỏ chân cầu. Nhưng cái sự vắng mặt của cô sẽ làm thoát nơm nớp ám ảnh, vậy thì ông trời làm gì có mắt. Chín Tím chọn làm gai, không làm đàn bà nữa.

Một bữa bà nội lén cắt sợi dây chuyền lúc con gái ngủ trưa, bà nội quăng cả dây và nút áo xuống ao bông súng. Ai ngờ chỉ chút xíu vầy mà nặng, bà nội nghĩ vậy khi nhìn những vòng sóng dần lặng, nước khỏa dấu vết của cái nút áo vừa chìm xuống. “Bỏ đi. Sống đi. Sống như thiên hạ vậy”, bà trệu trạo bảo khi Chín Tím dậy quờ quạng cái cổ trống không. “Họ đâu có nằm phơi bụng dưới chân cầu”, cô cãi, chậm rãi ra ngoài ao bông súng không phải để nhìn bông súng. Bà nội mướn người bơm đất lấp ao, cảm thấy hành động ấy quá chừng vô vọng. cô Tím vẫn nhìn thấy bên dưới cỏ, dưới rễ cây mít, dưới từng lớp đất nâu nhão nhoét, có cái nút áo.

Nọc con rắn hổ đất chạy từ cổ chân lên tim cô Tím vào năm cô bốn mươi hai tuổi. Nhưng người ta cảm giác cô chết lâu rồi, đã lâu linh hồn chôn cùng cái nút áo.

Tròn, bằng nhựa cứng, trắng gợn nâu.
 
5,622
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Nguyễn Ngọc Tư - Riêng tư vừa đủ...

Chắc em Lủng sẽ về


Hỏi dân xóm Lá tự hào gì nhất, thì câu trả lời hong phải là chuyện thằng Quẹo vô chung kết chương trình “Đường lên đỉnh Himalaya”, chẳng phải con Tí được huy chương vàng olympic toán quốc tế, cũng không là ông Bảy Cò chống giặc ngoại xâm bằng nạng thun. Cái tên dọt khỏi môi răng lưỡi của người xóm Lá, phải là con Lủng, tức Lủng ghẻ, Lủng xà mâu, hay Lủng bánh bèo, mà giờ trở thành Jenny Lủng, trên fây - búc.

Sáng dậy chưa kịp đánh răng dụi ghèn, người xóm Lá nghĩ tới Jenny Lủng đầu tiên, không biết bữa nay con nhỏ hốt gơ có gì mới. Tối qua nó đăng một câu sầu não “trật khớp ngón trỏ đao ơi là đao, chụp MRI xong, bác sỹ nói do đeo cái nhẫn hột xoàn bự quá”. Nghe mà lo, không biết bữa nay nó lấy chi xỏ vô ngón trỏ, vừa nhẹ nhàng vừa sang chảnh, thể hiện đúng đẳng cấp đã từng chơi gôn chung với tổng thống Oblablama, nhảy đầm cùng vua Puxutin, ngồi húp cháo vịt với ca sỹ hàng đầu Đàm Vĩnh Viễn, đánh tá lả với siêu mẫu Nao Mi Cam Beo.

Mọi thứ đều có hình ảnh ràng ràng trên mạng hết, không tin không được. Cảnh con nhỏ Lủng kề vai Oblablama chụp hình tự sướng, phía sau là ánh mắt đầy ghen tuông của bà vợ ổng, làm dân xóm Lá khoái chí đến tận cả tháng sau. Thật là phổng mũi khi cái xóm rách rưới này có thể sản sinh ra một cô gái nổi tiếng toàn cầu như Jenny Lủng. Nhất là khi con nhỏ khoe bữa cháo trắng củ cải trứng muối giá hai triệu rưỡi cùng với thiếu gia chuỗi cửa hàng Cờ Tây, báo lá cải tìm đến tận nhà để viết bài, xóm Lá cũng nổi tiếng lây. Phóng viên của trang Kênh 18+ nhờ vậy vang danh cả nước bởi cái câu “Bạn đang chứng kiến nơi Jenny Lủng lớn lên. Vâng thật không thể tin được, không thể tin nỗi, đến tôi mà cũng không thể tin nỗi”.

Không ai ngờ con nhỏ siêu lộng lẫy bây giờ ngày xưa đầu đầy ghẻ chốc, tóc cháy chân cong, từng tuyệt vọng đến mức mua thuốc chuột tự vẫn, sau cú thất tình mùa ba. May nhờ thuốc chuột Tàu nên chỉ quặn bụng sơ sơ, ngủ giấc thức dậy thấy mình vẫn sống, nó bỏ xóm đi trước khi đến gặp thằng bồ (vừa cũ), nói “rồi tui sẽ khiến ông tiếc tuôn nước miếng”.

Nói được làm được, chỉ một năm sau, thằng Tèo mụn, bồ cũ của Lủng, đã quằn quại vì ân hận khi coi tấm hình mới nhứt của Jenny đăng trên fây - búc. Mặt con nhỏ mịn mứt láng o, nghe nói có nhiều ruồi đậu lên đều trượt chân rơi xuống mấy chai nước “Không Lo Bị Nóng”, và cái sự trắng rực của làn da không tì vết gây nên nhiều vụ tai nạn liên hoàn trên đường cao tốc, sơ bộ có sáu mươi chín xe hơi bị hư hại do tài xế chói mắt. Ngó nó khoác cái áo lông báo gấm Somali giá triệu đô, đã không còn ai nhận ra đây chính là mèo ghẻ ngày nào.

Bữa Jenny Lủng về thăm xóm lần đầu, cả xóm nhấp nhổm. Cái biểu ngữ “Chào mừng Hốt gơ Lủng thăm quê hương xóm Lá” được treo ngay đầu cầu. Lủng đi tới đâu, mùi dầu thơm dậy động tới đó, át cả mùi mắm kho, mùi cá phân dành để tưới trầu. Đã thơm còn tỏ ra thơm hẳn, con đường mà nhỏ Lủng vừa đi qua hai tiếng đồng hồ trước, cả cây củi cũng ngộp thở. Sau cái vẫy tay chào của bồ cũ với bao nhiêu vòng vàng hột xoàn chói loá dưới mặt trời, thằng Tèo mụn bị mất thị lực năm mươi phần trăm.

Lủng về vài tiếng Lủng lại đi, “tối nay em phải bay qua Dubai mua sắm”. Nhờ có những mảnh khăn giấy tẩm dầu thơm Lủng bỏ vãi bên đường, người xóm Lá mới biết họ không mơ. May mấy nhỏ trong xóm biết xài điện thoại thông minh, nên dù Lủng có ngồi coi chim cánh cụt ăn lúa lép ở mũi Hảo Vọng thì xóm Lá vẫn thấy con nhỏ gần xịt bên mình. Sớm nó khoe bộ móng mới sơn giá ba chục triệu, tối lại thấy nó ăn hột vịt lộn rắc bụi vàng, “nhờ món nài mà da tui đẹp dầy nè mấy pồ”. Cái sự giàu sang của Lủng làm người xóm Lá tha thứ chuyện nó viết sai chính tả tè le hột me, đến con Bèo mới học lớp hai còn nhận ra. “Hồi phia bị mót túi mất cái điện thoại cẩn 6969 hột xoàn, hu hu”, “phi trườn bữa nay đông, ai cũng nhàu tới xin chụp hìn, mình mệt sỉu, he he”, những lỗi chính tả kể tới sáng cũng không hết, nhưng những người ngưỡng mộ Lủng đều có thể bỏ qua, miễn giàu là được.

Từ Lủng nổi tiếng, nó trở thành nhân vật của tụi nhỏ trong mấy bài tập làm văn có đề bài kiểu như ước mơ của em (là được trở thành chế Jenny Lủng), miêu tả người mà em yêu quý (ấy chính là Lủng, ngôi sao fay buc, thiên thần cánh mỏng), chỉ vài ba đứa lơ ngơ ước lớn lên làm công nhân vệ sinh và tả chân dung bà nội bán bánh giò của mình, bị cười cho thúi đầu, rằng xa vời, không thiết thực.

Mãi đến khi Jenny Lủng không về xóm nữa, thì người già vẫn kể cho con cháu nghe ngày xưa xứ này sinh ra một hốt - gơ tầm cỡ quốc tế. Bao nhiêu gia sản của cư dân xóm Lá đã được cô ấy mang đi hùn vốn vào việc xây dựng sân bay lớn nhứt thế giới, thứ mà nước mình đang thiếu, sau khi xây chùa lớn nhứt thế giới, nhiều tượng đài (y chang nhau) hoành tránh nhứt, và nợ nần nhiều nhứt thế giới. Thím Chín Trầu vẫn nhớ hình ảnh cuối cùng trước khi Jenny Lủng biến mất trên fây - búc là chụp lại đống của hồi môn “cưới hoàng tử Ả Rập”, một mớ vòng vàng tiền bạc, trong đó có bảy cái bịt răng vàng của thím. Lúc cạy răng vàng đưa cho con nhỏ, thím nghe nó nói hong gì sinh lời bằng hùn vốn xây sân bay, cho bạc góp lãi suất cao cũng chỉ là muỗi. Chỉ có anh Năm chèo đò là không chịu bán chiếc đò để có phần hùn, anh nói “tui thấy nghi nghi, con Lủng khoe hình ngồi uống trà với chủ tịch tỉnh, mà mấy cha nội đó bộ muốn gặp là gặp sao, quan dân cách biệt nào giờ, thà nó nói gặp tổng thống Mẽo mà tui tin”. Quả nhiên, người ta phát hiện ra những tấm hình chụp chung với đại gia, tổng thống và những biệt thự xe hơi mà có con Lủng nhe răng cười trong đó, đều là hình ghép.

Giờ mỗi khi chắc lưỡi tiếc mớ của bay theo thiên thần cánh mỏng, dân xóm Lá bắt tụi nhỏ lên mạng xã hội lục tìm coi có thấy dấu vết Lủng đâu không. Nhưng trên đó chỉ còn Meo Trương, Angela Tủn, Pile Téo, mặt mũi, giọng điệu thì y chang con Lủng bánh bèo, chỉ cái tên là khác. Buồn tình, nhại theo bài hát của một hốt – bôi nổi tiếng, mà an ủi nhau rằng, chắc em Lủng sẽ về.
 
5,622
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Nguyễn Ngọc Tư - Riêng tư vừa đủ...

Ngày mai ai biết

Có vài tranh cãi nhỏ mỗi khi người ta nhắc lại cái ngày bà cô Ba Tý cất tiếng nói đầu tiên. Nếu ông nội không lãng đi chỗ khác, ông cũng chẳng xác nhận chuyện có hay không người chị đã bú cạn hai bầu sữa vốn dành cho ông, lúc ấy mới tập bò. Bữa đó cuối tháng Ba, nhưng cũng có thể giữa Chạp. Khi đứa con gái năm tuổi đầu chạy ra níu áo và nói sõi như chưa từng câm lặng từ lúc đẻ ra, cố đang quết bánh phồng ăn tết, hoặc đang cúng thanh minh ở mấy cái mả đất sau vườn. Và đứa trẻ chưa từng kêu tiếng má, bỗng rành rọt từng lời “mai con chết, má đừng buồn”.

Riêng câu nói ấy không có dị bản, ngay trong trí nhớ nhá nhem lem luốc. Lạ lùng biết bao một đứa con nít cất lên lời từ giã cuộc sống bằng những tiếng nói đầu tiên trong đời. Làm đổ ly rượu cúng, bà cố nạt, mới mở miệng là nói bậy. Nhưng đứa trẻ nhắc lại lần nữa, lần nữa, cho tới khi người mẹ khóc tru lên. Kéo nó lại chùa Nhỏ, bà lạy tới trán sưng, hai gối không đứng nổi. Sữa chảy khô còng cả thân áo trước, bà quên luôn thằng nhỏ chín tháng tuổi phải uống nước cơm đằng nhà. Hồi đầu thì năn nỉ, sau mệt quá, bà chửi um mụ nội ông trời, tổ cha bồ tát, nỡ nào con nhỏ mới mấy tuổi đầu mà mấy người lại muốn đem đi. Ngỏn ngoẻn ăn hết ba nải chuối xiêm, con nhỏ chui vô gầm ban thờ ngủ một giấc, dậy ăn thêm dĩa khoai luộc của nhà chùa, vẫn kêu đói. Nhìn con ăn cho một ngày mai sẽ không bao giờ tới, bà mẹ khóc khan.

Nhưng con nhỏ Tý vẫn sống tỉnh bơ, dù ngày nào nó cũng từ giã người thân, bằng vẻ thanh thản pha một chút nghiêm trang khi nói ngày mai mình chết. Vẻ mặt mà một đứa con nít không bao giờ có. Nửa đêm bà mẹ thường phải dậy sờ soạng coi con còn thở không, thân thể nó có còn ấm nóng. Thời gian trôi quanh bà cô Tý sánh đặc thành giọt, gần như đếm được khi chúng rơi. Ăn một bữa hai tô, ngủ đẩy giấc tới sáng, chạy chơi đâu bà cũng không quên bảo xóm giềng mai mình chết. Lỡ thật thì sao, biết đâu chút nữa nó ngoẻo củ từ, ý nghĩ đó bảng lảng ngay cả lúc người ta nạt “đừng có xạo”.

Chỉ Ba Tý tin mình sắp rời cõi tạm, khi từ chối phần đất ruộng được cố cắt cho, “Sống chỉ tới mai thôi thì vơ lấy chi cho mệt”. Cái mùng rách chỉ giăng có hai góc rưỡi giữa căn chòi cột cặm cuối vườn, chảo xoong méo mó, bà Tý đôi lúc thuyết phục được người ta tin vào cuộc đi lúc sớm mai. Hôm khâm liệm bà, gom hết tư trang trong nhà mới lưng lửng áo quan. Phải cắt lá chuối chèn cho đầy hòm, người ta nói vui để bà Tý xuống dưới giăng mùng.

“Ngày mai con chết” cũng là lý do bà quắp cứng một anh bên xóm Gò, lúc mới mười lăm tuổi. Nếu ông nội không tránh đi khi nghe nhắc tới người chị gái, chắc gì ông kể chuyện chính mình thấy bà cô Tý lăn lóc với cậu bạn trên bờ ruộng, tưởng chị bị thằng kia cướp áo, tưởng chị đau lắm mới rên ử ừ ư, xót ruột ông chạy đi méc má.

Sau này, gã trai đó hay khoe mình là người đàn ông đầu tiên của Ba Tý. Cười toe, bà nói kệ thằng chả, vui mà. Rốt cuộc, người vui cũng hơn một chục. Bà bắt cặp nhiều đến không nhớ xiết. Hồi đầu, chen giữa nỗi lo mất mùa lo chiến sự, cố còn rền rĩ đứa con gái hư thân, sau chỉ ngồi than, phải chi hồi mới đẻ đừng bôi mật cá trê cho môi nó đỏ. Mà đâu chỉ môi đỏ như cháy, đôi má bà Tý cũng rực lên, tướng mạo tươi giòn. Người như cái ngó sen, đàn ông chỉ muốn cắn ngấu, muốn bẻ làm đôi. Đàn bà thì ngược lại, ghét bứng dấu chân, nhưng có mắng chửi mấy Ba Tý cũng cười :

- Giận chi, mai cũng chết rồi.

Chút bùi ngùi làm nguôi những cơn giận dữ đổ lên đầu con đàn bà phóng túng, cả lúc cô ta na cái bụng chửa lặc lè. Ừ, biết đâu, không tự dưng lăn đùng ra chết thì cũng bom rơi đạn rớt. Thời loạn lạc, xác người vài ba bữa lại trôi cùng lục bình sông Muống, con nít nhìn theo tập thở dài. Chỉ bà cô Tý dửng dưng chiến sự, nhà cháy hay lụt chìm đồng.

Lo bom đạn không biết tới chừng nào, người ta sực nhớ tới lại thấy bà cô Tý chửa, với ai thì bà cũng không chắc. Bên nào bà cũng thương, bữa càn rát quá có người chạy vô nhà, bà giấu trong căn hầm bên dưới bộ vạc, rồi tỉnh rụi vạch áo cho con bú. Đám lính ghé vô, không sục sạo được bởi đôi bầu vú mẩy che mờ con mắt, ông cầm đầu ở lại ử ừ ư với bà một đỗi, ra về trong chơi vơi. Đứa nhỏ bú mẹ đó sau này chọi miểng chai vô đồn bị bắt, Ba Tý lội bộ tìm người cũ xin đón con ra. “Dễ ợt”, bà kể, “tui nói với thằng chả, đứa nhỏ này từng chung bầu sữa với cưng”. Hỏi sao nó nhớ, mười mấy năm rồi mà, thì bà cô cười lúng liếng, “thì có cách nhắc nó nhớ chớ”.

Vào năm bà cô Tý sáu mươi tuổi, một cậu lính kiểng đồn Chẹt cứ lẽo đẽo theo bà để rửa chân cho. Ông nội gầm gừ, chị riết rồi coi không được, thằng nhỏ chỉ đáng tuổi con cháu mình. Mai chị chết rồi, bà cười.

- Giỏi thì chết liền tui coi.

Ông nội nghiến răng, ực ngụm trà cho bớt giận. Lúc day qua thấy bà cô ngoẹo đầu bên cửa, miệng vẫn tươi. Dường như cái hơi thở cuối cùng ra khỏi đôi môi đỏ đó, nó trong veo, chói ngời.

Đám ma bà cô Tý, ông nội bỏ đi. Ông không bao giờ tha thứ cho người chị gái đã chết ngay trước mắt, sau câu nói vô tình của mình. Người ta vẫn kể đám ma vui lắm, vì những người ở lại đều đã được Ba Tý từ giã tử tế. Không ấm ức, không tiếc nuối bởi những điều chưa kịp nói, họ còn vui vì người nằm kia đã sống đã một đời. Chỉ có vụ tranh cãi nhỏ giữa vài ông tình cũ, kẻ nói trên người bà có mười bảy nốt ruồi, ông kia cãi hết thảy là hai mươi ba.
 
5,622
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Nguyễn Ngọc Tư - Riêng tư vừa đủ...

Đá trổ bông
Tản văn


Khờ, thằng nhỏ gánh nước đi đằng trước tôi, đang bốc khói. Bằng mắt thường cũng thấy một làn hơi mỏng bả lả gợn quanh nó, nhất là từ đôi ống quần ướt mèm. Nước trong thùng ở hai đầu quang gánh dù không sánh ra chút nào, nhưng cứ nghĩ lên đến đỉnh núi chắc chỉ còn lưng lửng, vì nước bốc hơi. Mình thì có hơn gì, tôi nghĩ, cũng sắp bốc cháy tới nơi rồi.

Nắng hệt một chảo mật nấu sôi, và những con người bé nhỏ ngụp lặn trong ấy chín nhừ, mặt mày đỏ lựng. Thỉnh thoảng Khờ dừng lại để chờ tôi lúc này hồng hộc thở, bước từng bậc đá bằng đôi chân không biết của ai. Dù nó đã lên xuống núi mười bảy lần trong ngày, gánh nước uống cho chục ngoài hộ dân sống trên ấy. Hỏi Khờ sắp tới nơi chưa, nó kêu xíu nữa. Chữ “xíu” không làm tôi mừng, vì biết mình còn trèo nhiều dốc đá mới chạm chân đỉnh núi trọc bon không cây cối.

“Đám đá này mơi mốt trổ bông”, Khờ nói.

Năm Khờ chín tuổi, mẹ dắt nó lên ngọn núi Trời này, bảo ngồi đó đợi đá trổ bông mẹ lên đón. Rồi bà mẹ trẻ xuống núi, biệt dạng. Chị chủ quán nước ngay bên sườn núi vẫn còn nhớ gương mặt cô gái đó, “trẻ măng, đem con đi bỏ mà mặt tỉnh bơ, trửng giỡn với mấy thằng kiếm củi”. Chắc là sớm làm mẹ đơn thân, không mang vác nổi thằng nhỏ khờ căm đặt đâu ngồi đó. Chắc là ngủ quên trên cỏ rồi đẻ Khờ, như những bà mẹ Việt cổ xưa vẫn cấn bầu nhờ uống nước trong gáo dừa, ướm chân vào dấu chân lạ.

Thằng nhỏ từng có cái tên tử tế, nhưng người xóm núi quên mất rồi. Nói cho cùng, làm gì có tên nào hợp với nó, bằng tên Khờ. Trong thân xác thằng con trai sắp ba mươi, là một trí khôn của trẻ con năm bảy tuổi. Thời gian không làm mai một cái niềm tin rồi đá trổ bông, mẹ đón về.

Sống nhờ chén cơm của cư dân triền núi, nhưng Khờ chưa bao giờ làm họ tiếc vì đã nuôi dưỡng mình. Nhờ chi thằng nhỏ cũng làm, và nặng nhọc cỡ nào cũng không than vãn. Mưa nó đi cọ rửa những bậc đá đóng rêu, che giúp mái nhà ai đó, cõng bà Chín Sầu Đâu đi hốt thuốc nam chữa đau khớp, đón thằng Đen kẹt ở trường trong giông gió. Hạn qua nó kiếm củi phơi khô chất đầy miễu hoang, cả xóm xài mút mùa không hết. Mùa khô nào họ cũng uống nước mưa một tay Khờ gánh, từ ngôi chùa gần chân núi Xanh.

Suốt ba chục năm, duy nhất một lần Khờ rời núi chừng tuần lễ. Nó bị sét đánh. Cái đầu trọc của núi mà nó đang chăn giữ, không hiểu sao hay bị sét xuống thăm, đến cây cối không mọc nổi. Bữa đó giông khô, Khờ lom khom gom mớ thuốc nam chùa gửi phơi, thì bị sét quật lăn ra, tóc cháy xém. Câu đầu tiên nó nói khi tỉnh dậy, “đá trổ bông chưa ?”

Tới ông trời còn không bứng thằng Khờ ra khỏi mớ đá đó, người núi Xanh nói. Đúng lúc Khờ lại thêm một lượt gánh nữa ngang qua chỗ quán nước tôi ngồi cùng mấy bà trong xóm, nhe răng cười. Ở Khờ không có vẻ gì bơ vơ, dù đang một mình bơi giữa đá và nắng. Ngay khi nó bị che khuất bởi một cua gắt trên đường mòn, cũng để lại cảm giác ấm áp, chắc nịch. Khó giải thích, nhất là nhân vật ấy mang trong mình một câu chuyện mủi lòng.

Hỏi mẹ Khờ có từng quay lại không, người núi Xanh nói biết đâu, giờ nhiều du khách lên đây, mặt mũi ai cũng dáo dác như ai, nhớ sao nổi người phụ nữ mấy chục năm về trước. Thằng nhỏ hay bị du khách ghẹo, họ xưng mẹ nè con, mau về với mẹ. “Mẹ tui nói chừng đá trổ bông mới lên đón, giờ có trổ xíu nào đâu”, Khờ nói. Chỉ một lời dối ầu ơ, nhưng với bộ não ngờ nghệch của Khờ, đã thành một thứ dây trói bền dai, buộc nó mãi trên đỉnh núi.

Mẹ Khờ có ở đây, chắc gì lay chuyển được nó, đá chưa nở bông nào.

Dân núi Xanh có lần hối tiếc, khi xúm nhau thuyết phục Khờ, rằng đám đá đó đâu thể trổ bông được, sét đánh quá chừng mà, nhìn thì biết, tới cỏ còn không mọc nổi. Khờ nói luôn, vậy mấy cục đá hong bị trời đánh thể nào cũng có bông. Từ bữa đó nó leo trèo khắp núi. Lo bông đá đang trổ ở hang hốc nào đó, nơi nó chưa mò tới. Còn cả xóm thì phấp phỏng sợ nó trượt chân.

Mình mà nói núi này đá đực khó ra bông, Khờ sẽ hỏi, vậy núi nào mới có ? Tôi hình dung vậy, khi ngó thằng nhỏ vừa gánh xong đôi nước cuối cùng trong ngày, đổ vào cái khạp da bò đặt ngay đỉnh trọc. Nước ấy dành cho du khách uống đỡ khát. Dù họ chỉ dùng rửa mặt, rửa chân, hắt vào người nhau cho vui.

Nắng vẫn xéo xắt, chưa chịu nguội. Tôi quay lại đúng cái chân núi mà vài tiếng đồng hồ trước mình đứng ngán ngẩm vì nắng và hồ Xanh cạn đáy. Nghĩ chắc cũng không cần trèo lên chi, quá biết trên đó có những thứ gì, lại miễu cậu miễu cô, lại những quán xá đu theo vách đá, lại bày bán mấy thứ thần dược từ cỏ cây meo mốc chớ đâu.

Nhưng Khờ xuất hiện, với đôi thùng nước treo đầu gánh, rủ khơi khơi, lên núi chơi, bông đá nay mai sẽ trổ.
 
Top