Bia chủ quyền sống trên biển

10,253
30
48

ALnML

Super Moderator
Những “cột mốc” chủ quyền trên thềm lục địa:
Bia chủ quyền sống trên biển

(VOV) - Vượt lên trên những cách trở về không gian, thời gian, gian nan, thiếu thốn là tinh thần trụ vững kiên cường nơi đầu sóng ngọn gió của người lính biển
LTS: Ít ai biết giữa đại dương mênh mông cách đất liền hàng nghìn km lại có những ngôi nhà nhỏ bé mọc lên từ đáy đại dương, bốn mùa dầm chân trong nước biển mặn. Đó là các Trạm Kinh tế - Khoa học - Dịch vụ DK1 (thường gọi là nhà lô, nhà chòi, hay nhà giàn) đóng trên thềm lục địa Tổ quốc. Đó là nơi chốt giữ của cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn DK1, vùng 2 Hải quân. Nắng cũng như mưa, ngày cũng như đêm, mùa biển lặng cũng như mùa giông bão, họ phải gồng mình chịu sự khắc nghiệt của thời tiết, và nỗi nhớ đất liền luôn trào dâng trong lòng. Vượt lên trên khó khăn trở ngại ấy là tinh thần kiên cường bám trụ, vững vàng nơi đầu sóng ngọn gió.

Nhà giàn DK1 vững vàng trên thềm lục địa Tổ quốc
Vành đai đảo thép trên biển
Trước yêu cầu bảo vệ vùng biển thềm lục địa Tổ quốc, ngày 5/7/1989, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) giao cho Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân, Bộ Tư lệnh Công binh thăm dò, khảo sát và đóng các nhà nổi trên các bãi đá san hô ngầm khu vực thềm lục địa lãnh hải nước ta, từ Bãi cạn Ba Kè (giáp quần đảo Trường Sa), đến Bãi cạn Cà Mau (biển Cà Mau tỉnh Minh Hải, nay là tỉnh Cà Mau - vùng tiếp giáp với biển Malaysia và Philippines)… Các nhà giàn ra đời từ đó với nhiệm vụ là canh giữ vùng biển, vùng trời, làm tiêu và chỗ dựa cho ngư dân ra khai thác đánh bắt hải sản, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vùng biển, vùng trời thềm lục địa của Tổ quốc.
Các nhà giàn được kết cấu bằng thép do Bộ Tư lệnh Công binh xây dựng có sức bền lâu dài và chịu được sự khắc nghiệt của thời tiết như gió to, bão lớn cấp 10, cấp 11, có chân bằng thép cắm sâu xuống đáy san hô. Nhà chia thành nhiều tầng, nhiều khối để sinh hoạt học tập với diện tích sử dụng hàng trăm m2/tầng. Mùa sóng bão, nhà rung lắc nhưng không chao đảo và không dễ gì đổ được. Theo quy định, khi có bão to, xảy ra hiện tượng nhà rung lắc mạnh là cán bộ, nhân viên được lệnh chuyển xuống tàu an toàn.
Hiện nay trên vùng biển thềm lục địa Bà Rịa - Vũng Tàu có 15 nhà giàn ở các cụm Ba Kè, Phúc Tần, Quế Đường, Tư Chính, Phúc Nguyên, Huyền Trân, Cà Mau tạo thành một vành đai đảo thép trên biển. Mỗi nhà như một “pháo đài” vững chắc. Trên đó là những người trẻ tuổi ngày đêm quan sát phát hiện mục tiệu lạ, “mời” ra khỏi vùng biển được phân công. Đó là cán bộ chiến sĩ tiểu đoàn DK1, Vùng 2 Hải quân - những người mà anh em gọi nửa đùa nửa thật là “Bia chủ quyền sống” trên biển. Những “tấm bia” ấy không chỉ gồng mình với điều kiện khắc nghiệt, mà còn phải chịu đựng nỗi nhớ nhà, nhớ đất liền. Nhưng vượt lên trở ngại về không gian cách trở, gian khổ, thiếu thốn là tinh thần trụ vững kiên cường nơi đầu sóng ngọn gió.
Nơi “hai thừa, ba thiếu, ba khát”
Vùng biển thềm lục địa Tổ quốc được coi là “vùng biển bão tố”. Thời tiết ở đây chia làm 2 mùa rõ rệt. Mùa biển lặng từ tháng 4 đến tháng 10. Mùa bão tố từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Nắng gió đã làm cho da của những người lính ở đây đen cháy. Những cái tên thân thương “Nhật da chum”, “Hạnh da mầu”, “Thuỷ Ăng gô la” cũng bắt nguồn từ cái nắng như thiêu, như đốt ấy. Do khí hậu ở đây vô cùng khắc nghiệt. Việc trồng rau xanh được ươm trong máng gỗ và làm nhà cho rau ở, gió chiều nào, che chiều ấy. Bây giờ nhà nào cũng có rau xanh tươi tốt, nhưng vẫn là “hàng” hiếm hoi. Một nhà giàn có hơn chục bồn rau, gọi là nhiều nhưng phải tiết kiệm ăn dần. Mọi người thường gọi lính nhà giàn là “hai thừa, ba thiếu, ba khát”. Đó là thừa nắng, thừa gió; thiếu rau xanh, thiếu nước ngọt, thiếu báo chí; khát thư nhà, khát văn công và khát hơi ấm đất liền.

Rau xanh ở nhà giàn DK1 được trồng trên các máng gỗ từ đất liền mang ra
Nói về nước ngọt, ít ai biết ở đây nước ngọt hiếm hơn cả Trường Sa. Ở Trường Sa, nước ngọt được các chiến sĩ đào giếng lấy lên từ lòng biển, còn ở nhà giàn, nước ngọt được mang ra từ đất liền và hứng từ mưa trời là chủ yếu. Với mỗi nhà giàn, lượng nước ngọt dự trữ khó có thể đủ cho hơn chục con người dùng trong 6 tháng mùa khô. Vì thế, chỉ huy đã lên “kế hoạch tắm” cho bộ đội. Mùa mưa 2 ngày tắm 1 lần, mùa khô tuần tắm 2 lần. Có nhà giao cho người quản lý bếp ăn đong nước sẵn trong can nhựa, một tuần, mỗi người được dùng 1 can 30 lít cho cả tắm giặt. Nước thừa dồn vào một thùng để tưới rau miễn không lẫn xà bông và nước mặn. Bắt đầu từ tháng 10 dương lịch là phải tắm theo kế hoạch 2 lần/tuần. Anh em tiết kiệm nước thừa để tưới rau bằng cách “tắm tiên”. Nhiều hôm sau khi huấn luyện, anh em rủ nhau ra tắm gió, kỳ ghét bở như vỏ khoai lang, hoặc nhảy ùm xuống biển tắm, nước ngọt chỉ tráng qua người.
Nếu ở Trường Sa, chiến sĩ “khát” văn công một, thì ở các nhà giàn DK1 “khát” văn công mười. Ở Trường Sa, cứ tháng 4, tháng 5 hằng năm, đến hẹn văn công lại ra biểu diễn cho bộ đội xem, nhưng đối với các nhà giàn DK1, được xem văn công biểu diễn là vô cùng hiếm hoi. Những nhà giàn ở cụm Quế Đường, Ba Kè có thể mỗi năm được xem văn công một lần, nhưng đối với chiến sĩ các nhà giàn Tư Chính, Phúc Nguyên, Cà Mau, 3 - 4 năm, thậm chí 5 năm mới được xem văn công một lần. Nhân viên Đặng Văn Anh, nhà giàn Tư Chính thổ lộ: “Đã lâu rồi chưa một lần nhìn thấy con gái, chưa một lần cầm tay con gái. Chỉ cần nói có văn công là cả trạm thấp thỏm đợi chờ nhiều đêm không ngủ, mong từng ngày từng giờ đoàn đến”./.


Mai Thắng
 
10,253
30
48

ALnML

Super Moderator
Ðề: Bia chủ quyền sống trên biển

Những người đầu tiên chốt giữ nhà giàn

(VOV) - Biển xa sóng gió, gian khổ khó khăn, biết có gì chờ đợi người lính lần đầu tiên ra nhà giàn. Vượt lên tất cả là tinh thần sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc
Nhà giàn DK1, vùng 2 Hải quân trên thềm lục địa phía Nam Tổ quốc đã đứng vững vàng giữa ngàn khơi 22 năm kể từ ngày thành lập. Những người đầu tiên ra chốt giữ nhà giàn DK1, người còn sống, người vĩnh viễn nằm lại biển khơi. Nhà giàn DK1 vẫn tồn tại như một bằng chứng lịch sử về sự cống hiến, hy sinh thầm lặng của các thế hệ chiến sĩ Hải quân. Những câu chuyện về ngày đầu tiên gian khó ấy vẫn tươi mới, vẹn nguyên trong ký ức ông Nguyễn Văn Nam - một cựu binh đầu tiên của nhà giàn DK1.
Nước mắt thay lời chia ly
Qua 2 lần hẹn, tôi mới gặp được ông tại nhà riêng ở 1096 đường 30/4 phường 11 thành phố Vũng Tàu. Trước mặt tôi là người chỉ huy cương nghị, rắn rỏi đã có 20 năm lăn lộn với biển cả. Câu chuyện của tôi và ông bắt đầu bằng những kỷ niệm về những ngày đầu ra chốt giữ nhà giàn, nổi bật trong đó là tinh thần vượt lên gian khó và nghị lực sống kiên cường.
Chấp hành mệnh lệnh cấp trên, đầu tháng 7/1989, Đại úy Nguyễn Văn Nam dẫn đầu 13 cán bộ chiến sĩ ra chốt giữ nhà giàn Phúc Tần. Trước ngày đi 3 hôm, em trai mất do tai nạn, còn vợ anh đang ốm nặng. Lúc ấy, nói đến đi Trường Sa, DK1 là chuyện gì đó rất ghê gớm. Những người đi Trường Sa, DK1 xác định: “Ra đi chẳng hẹn ngày về”. Nguyễn Văn Nam cũng xác định, đi là sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc. Lần đầu tiên, Lữ đoàn 171 Hải quân đưa lực lượng đi làm nhiệm vụ trên biển xa nên cán bộ Lữ đoàn rất quan tâm, lo lắng. Trước ngày đi, Thủ trưởng đơn vị đến từng nhà động viên anh em yên tâm lên đường làm nhiệm vụ. Đối với cán bộ chiến sĩ sống tập thể tại đơn vị, khi chia tay, ai cũng nói hẹn ngày gặp lại, nhưng trong thâm tâm ai cũng nghĩ “biển xa sóng gió, gian khổ khó khăn, biết có gì chờ đợi người lính nơi đó…”.

Trung tá Nguyễn Văn Nam rửa rau mang ra từ đất liền cùng cán bộ chiến sĩ nhà giàn Phúc Nguyên B. (Ảnh: Xuân Cường)
Mặc dù nhà đang có tang, vợ ốm nặng, nhưng Đại uý Nguyễn Văn Nam vẫn quyết tâm gạt nước mắt ra đi vì Tổ quốc đang cần anh và những đồng đội. Biết gia đình Nam gặp khó khăn, Trung tá Phạm Xuân Hoa, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 171 đã đến tận nhà động viên: “Đồng chí cứ chỉ huy anh em ra nhà giàn làm nhiệm vụ. Vợ con ở nhà yên tâm đã có đơn vị, chúng tôi lo”. Chị Thủy - vợ anh đang ốm nặng cũng cố tiễn chồng ra cửa, gạt hai hàng nước mắt dặn chồng: “Anh đi bình an, hoàn thành nhiệm vụ trở về với mẹ con em. Em và các con luôn chờ đón anh về”. Nhìn người vợ thân yêu và con gái nhỏ, Nam mím chặt môi để không bật ra tiếng nấc. Anh bế con gái đầu lòng hôn lên má và giấu giọt nước mắt trào ra.
Con tàu gỗ nhỏ bé có tên HQ727 qua 3 ngày, 3 đêm hành trình liên tục đã đưa 14 cán bộ chiến sĩ đến nhà giàn Phúc Tần. Ra đến nơi, anh viết thư về quê tận Vĩnh Phú dặn người em ruột: “Nếu anh hy sinh thì chú vào Vũng Tàu đưa vợ con anh về quê sinh sống”.
Khó khăn chồng chất
Giữa cái nắng cháy da, giữa tiếng gió gào thét suốt đêm ngày, 14 cán bộ chiến sĩ trằn mình trong nắng lửa huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, luyện tập các phương án tác chiến, chuẩn bị sẵn sàng đối phó với những trận bão cuồng phong. Những thứ ở đất liền rất bình thường như rau xanh và nước ngọt, thì ở nhà giàn cực kỳ hiếm hoi và quý giá. Nước ngọt cho sinh hoạt ở đây chỉ có thể mang ra từ đất liền hoặc hứng được khi trời mưa.
Nhà giàn Phúc Tần là thế hệ nhà giàn được đóng đầu tiên. Nhà thiết kế kiểu bong - tông đặt nổi trên đáy san hô, được chia làm ba tầng. Dưới tầng công tác là 3 ngăn đựng nước ngọt và dầu hỏa. Bồn chứa nước chỉ hơn 10 khối. Với ngần ấy nước cho 14 con người trong 6 tháng trời ròng rã, chỉ nội rửa tay thôi cũng không đủ, nói gì đến chuyện nấu ăn, tắm, rửa. Còn rau xanh thì chưa biết trồng thế nào. Thức ăn chính hằng ngày của cán bộ chiến sĩ vẫn là thịt hộp và rau muống phơi khô đóng thành bao tải do quân nhu gửi từ đất liền ra.
Do nhà có kết cấu dạng bong - tông đặt lên nền san hô cách mặt nước 7 mét, nên chỉ cần sóng cấp 4 hoặc dòng nước chảy mạnh là khối bong - tông đã dịch chuyển, bập bềnh trôi trong nước. Sau 3 ngày trấn giữ, sóng to đã đánh vỡ toàn bộ phần bong - tông, bồn nước ngọt và bồn dầu hỏa. Biết không trụ vững an toàn, lệnh cấp trên rút toàn bộ cán bộ chiến sĩ về đất liền.
Ngày trở về đất liền, chị Thủy bế con ra tận cầu cảng đón chồng. Bế con gái trên tay, Nam nghèn nghẹn. Ôm vợ trong lòng, anh bảo: “Chỉ về ít hôm, anh và đồng đội lại ra ngay. Ngoài ấy đang cần anh và đồng đội. Vùng biển đảo thân yêu phải được bảo vệ giữ gìn” .
Nam và các cán bộ, chiến sĩ lao vào huấn luyện, rèn luyện sức khỏe sẵn sàng nhận nhiệm vụ. Một tháng huấn luyện qua mau, Đại úy Nguyễn Văn Nam cùng 13 cán bộ chiến sĩ đem theo 20 phi nước ngọt và 5 phi dầu hỏa theo tàu ra nhà giàn Phúc Tần chốt giữ. Một kế hoạch sinh tồn cho cuộc sống mới bắt đầu. Trước hết là tiết kiệm thật chi li nước ngọt và trồng rau xanh. Nước ngọt được chia theo đầu người mỗi ngày 6 lít kể cả tắm rửa. Nước tắm, giặt xong dùng để tưới rau, miễn là không nhiễm xà bông và nước mặn. Anh em đã lấy gỗ tạp chế ra chiếc máng nhỏ để trồng rau trên ấy và phải “làm nhà” cho rau ở, gió hướng nào che hướng ấy. Do nhiễm mặn từ nước biển bốc hơi, nên rau xanh cứ nảy mầm là thối gốc hoặc lên được 2 lá là chết lụi.
Khó khăn thiếu thốn là thế, nhưng cán bộ chiến sĩ yên tâm công tác, thương yêu nhau như ruột thịt, chia nhau từng ca nước ngọt, nhường nhau từng cọng rau xanh, đọc chung nhau thư nhà gửi tới, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Nhà giàn Phúc Tần - nơi anh Nam và 13 cán bộ, chiến sĩ ra chốt giữ đầu tiên (Ảnh tư liệu)
Nước mắt của biển
Sau 11 tháng sống trên nhà giàn Phúc Tần, Đại úy Nguyễn Văn Nam cùng 13 cán bộ chiến sĩ đầu tiên ra nhà giàn được về đất liền do kíp trực khác ra thay. Chia tay nhà giàn và những người ở lại, Nam căn dặn anh em: “Điều kiện sống ở đây vô cùng khó khăn gian khổ. Anh em phải thương yêu đùm bọc nhau, coi nhau như ruột thịt. Gian khổ thế nào cũng giữ vững ý chí chiến đấu, không sờn lòng, không chùn bước. Còn người là còn trạm”.
Chiếc xuồng nhỏ bé chở Nam và đồng đội của anh ra tàu HQ931 về đất liền. Ngồi trên xuồng, ngoảnh lại nhìn nhà giàn mà thương anh em quá. Nam và mọi người nhìn lên nhà giàn mà khóc. Khóc bởi thương anh em, khóc bởi giữa biển nước mênh mông, nhà giàn nhỏ bé như bị nuốt vào lòng biển, không thấy bến bờ. Trên đó là những người lính trẻ mười tám, đôi mươi, vô tư, hồn nhiên sẽ phải gồng mình chống chọi với khí hậu khắc nghiệt nơi đây. Những khó khăn đó có thể chịu đựng được, nhưng có những điều phải thầm lặng hy sinh gian khổ hơn, đó là nỗi nhớ nhà, nhớ người thân luôn day dứt trong lòng. Nỗi nhớ này sẽ tăng dần theo thời gian. Nhiều người nhận được tin vợ ốm, con đau, cha già, mẹ héo đành cắn răng chịu đựng không về được.
Với 34 năm tuổi quân, 20 năm công tác ở DK1, đầu năm 2009, ông Nam được nghỉ hưu với cấp hàm Thượng tá. Trở về với cuộc sống đời thường, ông vẫn giữ vững phẩm chất của người lính Cụ Hồ; Cương nghị trong công việc, sâu nặng nghĩa tình với đồng đội và bà con lối xóm. Căn nhà ở khu tập thể A đoàn M71 lúc nào cũng đầy ắp tiếng cười. Vợ ông - bà Đặng Thị Thủy đảm đang nội trợ giỏi. Con gái đầu lòng Nguyễn Thị Thanh là giáo viên trường THCS Thắng Nhì thành phố Vũng Tàu, con trai thứ Nguyễn Văn Dũng hiện là sinh viên đại học Sài Gòn. Người con trai út được ông Nam đặt tên là Nguyễn Hải Dương để nhớ mãi về những ngày sống trên đại dương bão tố ở nhà giàn Phúc Tần. Ngày cuối tuần, con gái, con trai về thăm bố mẹ, cả nhà quây quần bên mâm cơm hạnh phúc.
Trở về đời thường, Thượng tá Nguyễn Văn Nam bắt tay vào công việc mới. Hiện ông làm thủ kho vật tư cho Tổng Công ty xăng dầu Thái Bình Dương (Vũng Tàu). Tuy bận rộn, nhưng ông luôn quan tâm đến sự trưởng thành của nhà giàn DK1. Ông bảo: “Những ngày đầu tiên ra sống trên nhà giàn Phúc Tần gian nan vất vả, nhưng đó là quãng thời gian hạnh phúc, tự hào nhất đời tôi. Bây giờ không được vẫy vùng trên biển nữa, nhưng những vật dụng gì, để chỗ nào, ở nhà giàn nào tôi đều nhớ rõ. Thế hệ hôm nay phải biết phát huy truyền thống của cha anh đi trước, bằng mọi giá phải giữ vững chủ quyền biển đảo, thềm lục địa Tổ quốc. Bởi đó là cột mốc chủ quyền mà bao thế hệ đã đổ mồ hôi công sức, sự hy sinh quên mình mới có được”./.

Mai Thắng
 
Top