Ðề: Chuyện con mèo dạy Hải âu bay - Luis Sepúlveda
10. Một mèo cái. Một mèo đực.Và một thi sĩ.
Zorba bắt đầu chạy băng qua các mái nhà về phía sân thượng của con người đã được lựa chọn. Khi thấy Angelina đang duyên dáng dựa mình giữa mấy chậu hoa, nó trân trân nhìn rồi thở dài trước khi cất tiếng. “Angelina, đừng hoảng nhé. Tôi ở trên này.”
“Anh muốn gì? Anh là ai?” Cô nàng xinh đẹp giật mình, lên tiếng hỏi.
“Xin đừng bỏ đi, làm ơn. Tôi tên là Zorba và tôi sống ở gần đây. Tôi cần sự giúp đỡ của cô. Tôi xuống đó được không?”
Angelina gật đầu. Zorba bò xuống dưới sân thượng và ngồi quỳ trên hai chân sau. Angelina tiến lại hít nó.
“Anh có mùi của sách, của hơi ẩm, của quần áo cũ, của một con chim, của bụi bặm, nhưng lớp lông của anh lại sạch sẽ,” Angelina kết luận.
“Đó là các loại mùi từ cửa tiệm tạp hóa Harry. Đừng có ngạc nhiên nếu tôi cũng bốc mùi của một con đười ươi,” nó cảnh cáo cô nàng.
Thứ âm nhạc dìu dặt văng vẳng vọng ra sân thượng. “Âm nhạc tuyệt vời quá!”
“Của Vivaldi. Bản giao hưởng Bốn Mùa. Anh muốn gì ở tôi?” Angelina thắc mắc.
“Tôi muốn cô dẫn tôi vào trong và giới thiệu với chủ của cô,” Zorba trả lời.
“Không đời nào. Ông ấy đang làm việc và không một ai, ngay cả tôi, được phép làm phiền ông ấy,” cô nàng mèo nói.
“Làm ơn đi mà, đây là vấn đề cấp bách lắm. Tôi cầu xin cô nhân danh tất cả mèo sống ở bến cảng này,” Zorba van nài.
“Tại sao anh phải gặp với ông ấy?” Angelina hỏi, tỏ ra thoáng chút nghi ngờ.
“Tôi cần nói chuyện với ông ấy,” Zorba nói chắc gọn.
“Đó là điều cấm kị!” Angelina ngoao lên, lông trên lưng của cô nàng dựng ngược.
“Đi ngay khỏi đây!”
“Không đời nào. Và nếu cô không mời tôi vào… ờ, thế thì dẫn ông ấy ra đây! Cô có khoái nghe rock không hả, người đẹp?”
Bên trong, người được chọn đang gõ máy chữ. Ông đang phấn khởi sắp hoàn thành một tác phẩm và những vần thơ tuôn ra như nước. Đột nhiên, từ phía sân thượng, ông ta nghe thấy tiếng ngoao ngóao của một con mèo, không phải là Angelina. Tiếng con mèo gào rõ ràng chẳng theo một giọng nào, nhưng xem chừng lại có nhịp điệu. Nửa bực mình, nửa hiếu kỳ, ông ta bước ra ngoài sân thượng rồi phải dụi mắt để tin vào những điều mình đang nhìn thấy.
Angelina đang lấy hai chân trước bịt tai lại, trước mặt cô nàng là một con mèo mun, to đùng, mập ú đang ngồi lên hai cẳng chân sau, dựa mình vào một chậu hoa. Nó lấy một chân trước nắm lấy đuôi như thể đó là cái cần đàn guitar bass, còn chân kia thì đang giả vờ gẩy đàn tưng tửng trong khi vẫn gào lên ngoeo ngoéo không ngừng.
Khi đã hết ngạc nhiên, con người không thể nào nhịn được cười, và khi ông ta phải cúi gập về phía trước, ôm lấy bụng vì cười dữ quá, Zorba chớp lấy cơ hội để trườn nhanh vào trong nhà.
Khi còn đang mềm oặt cả người ra vì cười, người đó trở vào trong, ông nhìn thấy con mèo đen, to đùng, mập ú ngồi thù lù trên ghế.
“Thật là một buổi diễn ra trò! Mày đúng là một gã Don Juan ngon lành, nhưng ta e là Angelina không ưa nhạc của mày cho lắm. Một màn trình diễn hết sẩy đấy!” Người đó nói.
“Tôi biết tôi là một ca sĩ dở ẹc. Không ai hoàn hảo cả,” Zorba đáp lại bằng ngôn ngữ của loài người.
Con người há hốc miệng, đập một tay lên đầu rồi ngã dựa vào tường. “Mày.. mày… đang nói,” ông thốt lên.
“Ông cũng đang nói đấy thôi và tôi chẳng ngạc nhiên gì cả. Vui lòng bình tĩnh lại đi nào,” Zorba nói.
“Một… một con mèo… nó nói!” Giờ thì con người ngã vật xuống ghế bành.
“Tôi không nói, tôi chỉ kêu meo meo thôi, nhưng bằng ngôn ngữ của các ông. Tôi biết cách meo bằng nhiều ngôn ngữ,” Zorba đáp.
Con người đó lấy tay che mắt và nhắc đi nhắc lại, “Mình chỉ đang mệt quá thôi. Mình chỉ đang mệt quá thôi.” Khi ông ta bỏ tay ra, con mèo đen, to đùng, mập ú vẫn đang ngồi chình ình trên ghế.
“Tao đang bị ảo giác. Mày chỉ là một ảo giác thôi đúng không?” Con người đó hỏi.
“Không, tôi là một con mèo bằng xương bằng thịt đang ngồi đây trò chuyện với ông,” Zorba khẳng định với ông ta. “Cộng đồng mèo ở cảng đã chọn ông, từ rất nhiều con người để phó thác một vấn đề rất lớn. Chúng tôi hy vọng ông sẽ giúp đỡ. Ông không bị khùng đâu. Tôi có thật.”
“Anh bạn bảo anh có thể nói được nhiều ngôn ngữ?” Con người hỏi, vẫn còn nghi hoặc.
“Tôi cho rằng ông cần minh chứng. Tốt thôi, cứ việc thử tôi.”
“Buon giorno[18],” con người nói.
“Bây giờ đã là cuối ngày rồi. Nói Buon Sera[19] thì tốt hơn,” Zorba chỉnh lại.
“Kalimera[20],” con người đó nhấn giọng bằng tiếng Hy Lạp.
“Kalispera[21], tôi đã bảo ông là bây giờ muộn rồi mà,” Zorba đính chính lần thứ hai.
“Dobroye utro[22]!” Con người đó gào lên bằng tiếng Nga.
“Dobry den[23]. Giờ thì ông tin tôi chưa?” Zorba hỏi.
“Rồi. Và kể cả nếu đây là một giấc mơ thì đã sao? Ta thích nó và muốn tiếp tục mơ,” con người trả lời.
“Tốt, giờ chúng ta vào việc thôi,” Zorba đề nghị.
Con người gật đầu, nhưng ông ta muốn Zorba phải tôn trọng những nghi thức giao tiếp của loài người. Ông ta thết Zorba một liễn sữa, rồi ông ngồi xuốn ghế bành với một ly cô-nhắc trong tay. “Nói đi, anh bạn mèo,” con người đó bảo, và Zorba liền kể lại cho ông ta nghe câu chuyện về cô hải âu hấp hối, quả trứng, Lucky bé bỏng, và những nỗ lực vô vọng của bọn mèo để dạy cho nó bay.
“Ông có thể giúp chúng tôi được không?” Zorba hỏi khi kết thúc câu chuyện của loài mèo.
“Ta nghĩ là ta có thể. Ngay chính đêm nay,” con người đó đáp lại.
“Ngay chính đêm nay. Ông chắc chứ?”
“Nhìn ra cửa sổ xem, anh mèo. Hãy ngước nhìn bầu trời. Anh thấy gì nào?” Con người đó hỏi.
“Mây. Mây đen. Một cơn bão đang tới, trời sắp mưa rồi,” Zorba quan sát.
“Phải, vì thế mà chính là đêm nay đấy,” con người nói. “Tôi không hiểu. Xin lỗi ông, nhưng tôi chưa hiểu”
Con người đó tiến tới bàn, nhặt lên một cuốn sách rồi lần tìm qua các trang. “Nghe này, anh mèo. Tôi sẽ đọc cho anh nghe một tác phẩm của nhà thơ có tên Bernardo Atxaga. Một vài dòng trong bài thơ có tựa đề là “Những con hải âu”
“Nhưng những trái tim nhỏ bé
- Những trái tim của thần bay lượn
- Không khao khát gì hơn
Những cơn mưa hoang dại
Những cơn mưa mang lại luồng gió thổi
Những cơn mưa mang lại ánh mặt trời”
“Tôi hiểu rồi. Tôi biết là ông sẽ giúp được chúng tôi mà,” Zorba nói, nhảy bật khỏi chiếc ghế. Họ thống nhất rằng sẽ gặp lại lúc nửa đêm, bên ngoài hiệu tạp hóa, và con mèo mun, to đùng, mập ú lao đi để thông báo lại cho bạn bè mình.
11. Bay
Cơn mưa lớn đổ ập xuống Hamburg, từ những khu vườn, mùi đất ẩm ướt sực lên. Mặt đường trải nhựa lấp lóa sáng, và những bóng đèn neon phản chiếu nhập nhòe trên những vỉa hè ướt. Một người đàn ông rảo bước trên con phố hoang vắng về phía Hiệu tạp hóa Bến cảng Harry.
“Không đời nào!” Con đười ươi rít lên. “Kể cả chúng mày có ngoáy năm mươi cái móng vào lỗ dom tao, tao cũng không mở cửa cho chúng mày đâu!”
“Nhưng không ai muốn đánh anh cả. Chúng tôi chỉ muốn anh giúp đỡ,” Zorba nài nỉ.
“Giờ bọn tao mở cửa là từ chín giờ sáng tới sáu giờ tối. Đó là quy định, và nó phải được tôn trọng.”
“Đồ sứa bầy nhầy! Mày không thể thành một gã trai tử tế chỉ một lần trong đời mày sao, đồ khỉ?” Bốn Biển ngoao lên.
“Làm ơn đi mà, ngài Khỉ,” Lucky van vỉ.
“Không là không! Quy định cấm tao chìa tay ra mở cánh cửa mà bọn khố rách áo ôm tay không ngón chúng mày không thể mở được,” Matthew rít lên đầy khinh bỉ.
“Mày là một con linh trưởng khủng khiếp! Khủng khiếp!” Einstein lẩm bẩm.
“Có một người đàn ông ngoài kia đang nhìn đồng hồ đeo tay,” Secretario la lên, trỏ trỏ chân qua cửa sổ.
“Ông nhà thơ đấy! Không còn thì giờ nữa đâu!” Zorba nói, lao hết tốc lực về phía cửa sổ.
Khi tiếng chuông của nhà thờ Thánh Michael bắt đầu ngân lên báo nửa đêm, con người trên phố giật bắn mình khi nghe tiếng kính vỡ. Con mèo đen, to đùng, mập ú nhảy phốc xuống mặt phố giữa đám mưa mảnh thủy tinh mù mịt, nhưng nó lại lấy đà, không hề chú ý tới vết rách trên đầu, rồi lại nhảy ngược lên khung cửa sổ mà nó vừa đâm xuyên qua.
Con người kia chạy lại đúng lúc mấy con mèo đang kéo con hải âu lên bậu cửa sổ. Đằng sau bọn mèo, một con đười ươi đang run rẩy lấy tay ôm mặt cố bịt mắt, bịt tai, bịt miệng cùng một lúc.
“Đón lấy con bé. Đừng để cho nó bị mảnh kính cắt phải,” Zorba lên tiếng nhắc.
“Nhảy xuống đây, cả hai bạn,” con người nói, ôm cả con mèo và con hải âu trong vòng tay.
Con người gấp rút rời khỏi cửa sổ hiệu tạp hóa. Bên dưới lớp áo mưa, ông mang theo một con mèo mun, to đùng, mập ú và một con hải âu có lớp lông màu bạc.
“Bọn cặn bã! Quân kẻ cướp! Chúng mày sẽ phải trả giá!” Con đười ươi rít lên.
“Cho mày đáng đời! Mày biết mai ông Harry sẽ nghĩ gì không? Rằng chính mày đã đập vỡ cửa kính,” Secretario nói.
“Hoan hô,” Đại Tá líu cả lưỡi.
“Cho mày nhớ cái lần mày dám thụi tao.”
“Cá chuồn phi gấp! Chạy lên nóc nhà thôi, anh em ơi! Phải xem Lucky của bọn mình bay mới được,” Bốn Biển lên tiếng gọi.
Con mèo mun, to đùng, mập ú đang rất thoải mái dưới lớp áo mưa, tắm trong hơi ấm của con người đang sải những bước nhanh, mạnh. Chúng có thể nghe thấy tiếng ba trái tim đập với những nhịp điệu khác nhau, nhưng đều đang đập mãnh liệt.
“Anh có bị đau không, anh mèo?” Con người hỏi khi trông thấy những vết máu khô đọng trên vệt áo mưa.
“Chẳng đáng bận tâm. Chúng ta đang đi đâu đây?” Zorba hỏi.
“Má hiểu được con người đó nói gì hả má?” Lucky lép chép.
“Ừ. Ông ấy là một con người tử tế và sẽ giúp con bay,” Zorba trấn an con hải âu.
“Anh có hiểu được con hải âu nói gì không?” con người hỏi.
“Nói cho tôi hay chúng ta đang đi đâu đi,” Zorba lại nhắc thêm lần nữa.
“Chúng ta không đi đâu cả, chúng ta đang ở đó rồi,” con người đáp.
Zorba ló đầu ra. Họ đã dừng lại trước một tòa nhà cao vút. Nó ngẩng lên và nhận ra đó chính là tháp chuông nhà thờ Thánh Michael, được chiếu sáng chói bởi hàng chục ngọn đèn pha. Ánh sáng tập trung vào một khối kiến trúc đơn giản với những lớp đồng mạ đã bị thời gian, mưa gió để lại lớp gỉ màu xanh.
“Xem chừng cửa bị khóa rồi,” Zorba ngao ngán bảo.
“Không phải tất cả các cửa đâu,” con người nói. “Ta thường lên đây vào những đêm bão tố để hút thuốc và suy ngẫm về nỗi cô đơn. Ta biết một lối vào.”
Họ ngoặt vào một góc rồi bước qua cánh cửa bên mà con người nậy ra bằng một lưỡi dao. Ông lôi từ túi ra một cái đèn pin và nhờ vào ánh sáng yếu ớt của nó, họ bắt đầu leo lên một cầu thang xoắn vòng tưởng chừng như không bao giờ hết.
“Con sợ,” Lucky thốt lên.
“Nhưng con muốn bay, phải không?” Zorba hỏi.
Từ tòa tháp chuông nhà thờ Thánh Michael, họ có thể nhìn thấy toàn bộ thành phố. Mưa bao phủ cả tháp truyền hình, và trên bến cảng, những chiếc cần trục trông như những con thú đang say ngủ.
Zorba trỏ về phía một ngôi nhà có ánh sáng. “Trông kìa, hiệu tạp hóa của Harry. Nơi bạn bè chúng ta đang đứng đấy,” Zorba nói.
“Má ơi, con sợ lắm!” Lucky lại kêu lên.
Zorba nhảy lên lan can bao quanh tháp chuông. Phía dưới, những phương tiện giao thông đang nhung nhúc bò như đám côn trùng với cặp mắt sáng chói. Con người nâng con hải âu trên bàn tay.
“Không! Con sợ lắm! Zorba! Zorba ơi!” Lucky òa lên khóc, mổ chong chóc vào bàn tay con người.
“Khoan đã! Đặt con bé xuống lan can đi,” Zorba nói với con người.
“Tôi không định thả nó xuống đâu,” con người đáp.
“Con chuẩn bị bay rồi, Lucky à. Hít một hơi thở sâu. Hãy cảm nhận làn mưa. Đó là nước. Trong cuộc đời, con sẽ có rất nhiều lý do để hạnh phúc. Một trong những thứ đó là nước, thứ khác là gió, thứ khác nữa là mặt trời, và đó luôn là món quà đến sau những cơn mưa. Hãy cảm nhận mưa đi. Dang đôi cánh của con ra,” Zorba điềm tĩnh nói.
Con hải âu xòe đôi cánh. Những chiếc đèn pha tưới nó đẫm trong ánh sáng, và nước mưa vương trên bộ lông nó như những viên ngọc trai. Con người và con mèo quan sát nó ngẩng đầu lên, mắt nhắm nghiền.
“Mưa. Nước. Con thích chúng,” nó nói.
“Con sắp bay,” Zorba nói thêm lần nữa.
“Con yêu má, Zorba. Má là con mèo tuyệt vời nhất thế giới,” Lucky nói, di chuyển về góc chót của dãy lan can bao quanh.
“Con sẽ bay. Cả bầu trời kia sẽ thuộc về con.”
“Con sẽ không bao giờ quên má và cả các bác mèo.” Lucky đã chấp chới vươn nửa bàn chân ra khỏi gờ lan can, đúng như bài thơ của Atxaga đã nói, nó mang trái tim của thần bay lượn.
“Bay đi!” Zorba la lên, chìa ra một bàn chân và hích con hải âu một cái thực là khẽ. Lucky biến mất khỏi tầm nhìn, con người và con mèo sợ đến chết khiếp.
Nó rơi thằng xuống như một viên đá. Nín thở, họ vươn ra ngoài lan can, và rồi họ thấy con hải âu, đang đập cánh, lượn qua bãi đỗ xe, rồi họ dõi theo nó bay cao lên, cao hơn cả cái phong hướng tiêu mạ vàng đang tôn vinh vẻ đẹp độc nhất vô nhị nhà thờ Thánh Michael.
Lucky bay một mình trong đêm quanh thành phố Hamburg. Nó bay đi xa, đập nhanh đôi cánh của mình, cho tới khi đã bay cao vượt trên cả những cái cần trục ở cảng, cao vượt trên cả những cột buồm, và rồi nó quay trở lại, lướt đi, đảo hết vòng này đến vòng khác quanh tháp chuông nhà thờ.
“Con đang bay! Má Zorba! Con biết bay rồi!” Con hải âu la lên ngây ngất từ bầu trời xám xịt bao la.
Con người vỗ lưng Zorba. “Đó, anh mèo, chúng ta làm được rồi,” ông ta nói, thở phào.
Zorba ngẩn ra ngẫm nghĩ mất một lúc. “Phải. Từ chỗ không biết gì con bé đã thấu hiểu được điều quan trọng nhất,”
“Ô, thế sao? Đó là cái gì?” con người hỏi.
“Chỉ những kẻ thực sự dám thì mới có thể bay.”
“Ta chuẩn bị đi xuống đây. Ta đợi anh bên dưới,” con người nói rồi bước đi.
Zorba ngồi đó, dõi theo con hải âu cho tới lúc nó không biết những giọt mưa hay nước mắt đã phủ mờ đôi mắt màu vàng của con mèo mun to đùng, mập ú… một con mèo tử tế, cao quý, một con mèo của bến cảng.
Laufenburg, Cánh Rừng Đen, 1996
-----------------------------------------
[1] Một loại chong chóng được cắm trên đỉnh các toà nhà để chỉ hướng gió
[2] Scusi: tiếng Ý, nghĩa là “Xin lỗi”
[3] Porca miseria: tiếng Ý, nghĩa là “khốn khổ khốn nạn”
[4] Caro amico: tiếng Ý, nghĩa là “bạn quý”
[5] Mio amico: tiếng Ý, nghĩa là “bạn của ta”.
[6] Lasagna al forno: Món của người Ý bao gồm mì sợi, thịt bò, pho mát, cà chua và các nguyên vật liệu khác trộn lẫn và nướng trong lò
[7] Gatto: tiếng Ý, nghĩa là “mèo”.
[8] Xi-nho: tiếng Ý, nghĩa là “ông”, “ngài”
[9] Mama mia: tiếng Ý, nghĩa là “mẹ ơi”
[10] Bella: tiếng Ý, nghĩa là “tuyệt”
11] Bambino: tiếng Ý, nghĩa là “đứa trẻ”
[12] Sì: tiếng Ý, nghĩa là “Vâng”
[13] Numero: tiếng Ý, nghĩa là “số”
[14] Naturalmete: tiếng Ý, nghĩa là “Cứ để tự nhiên!”
[15] Volare: tiếng Ý, nghĩa là “Bay lên nào!”
[16] Il ristorante: tiếng Ý, nghĩa là “nhà hàng”
[17] Porca miseria: tiếng Ý, nghĩa là “Thật là khốn khổ”
[18] Buon giorno: tiếng Ý, nghĩa là“chào buổi sáng”
[19] Buon sera: tiếng Ý, nghĩa là “chào buổi tối”
[20] Kamilera: tiếng Hy Lạp, nghĩa là “chào buổi sáng”
[21] Kalispera: tiếng Hy Lạp, nghĩa là “chào buổi tối”
[22] Dobroye utro: tiếng Hy Lạp, nghĩa là “chào buổi sáng”
[23] Dobry den: tiếng Hy Lạp, nghĩa là “chào buổi tối”