Theo ghi nhận tại cộng đồng DN, người lao động và cả những khảo sát, nghiên cứu thì vấn đề lương thấp và cơ chế đối đãi không tốt của DN là mấu chốt gây ra những tác động xấu.
Tuy nhiên, đáng nói là tác động này không chỉ dừng lại ở việc thiếu tiền trang trải cuộc sống, mà nó còn tạo tác động vòng xoáy khiến NLĐ đều chịu ảnh hưởng to lớn.
Vòng xoáy làm thêm
Trên thực tế, xuất phát từ quy định mức lương tối thiểu quá thấp hiện nay, nên các DN cũng có cái cớ để chi trả lương thấp cho NLĐ. Khi tiền lương không đủ trang trải cuộc sống, sinh dưỡng cho sức khỏe không đảm bảo nên dù làm cật lực trong 8 tiếng, NLĐ vẫn khó hoàn thành định mức công việc. Vì thế, NLĐ buộc phải rơi vào vòng xoáy đầu tiên là phải quay quắt làm thêm giờ để có thêm thu nhập.
Ăn hết suất rồi vẫn chẳng thấm vào đâu. Ảnh: Anh tuấn
Theo khảo sát thì hiện nay có tới 35,5% số NLĐ phải rơi vào vòng xoáy làm thêm ở mức 1,5 giờ/ngày. Điều đáng nói là số NLĐ này lại chủ yếu làm việc tại những DN cần nhiều sức lực, tiêu tốn nhiều năng lượng như dệt may, giày da... Ghi nhận tại một số DN thì có người phải làm thêm tới hơn 600 giờ/năm - vượt mức cho phép tới 3 lần. Số NLĐ không phải làm thêm giờ hiện chỉ là con số ít ỏi 5,2%, điều đó cho thấy có tới 94,8% số NLĐ phải làm thêm giờ. Đây là con số quá lớn. Các chuyên gia cho rằng, con số này đủ cho thấy “vòng xoáy làm thêm” đã hút sức lực của NLĐ nhiều đến mức nào.
Tuy nhiên, làm thêm dù là vòng xoáy mạnh nhất nhưng lại chưa phải là cuối cùng. Từ kết quả khảo sát, các chuyên gia phân tích hầu hết DN đều dùng chiêu thức tách trợ cấp, phụ cấp ra khỏi tiền lương để dễ dàng điều chỉnh. Trong số này, đáng chú ý là vấn đề tiền ăn trưa (ăn ca) tại các DN. Tuy nhiên, điều đáng nói là hầu hết DN hiện nay thực hiện hỗ trợ tiền ăn trưa (ăn ca) cho NLĐ bằng tiền ở mức rất thấp từ 8.000 - 12.000đ/bữa. Thế nhưng theo khảo sát, bữa ăn cho NLĐ do DN tại Đà Nẵng cung cấp và bao cấp tiền điện, nước, chi phí bếp ăn, nhà ăn, miễn phí nước uống đã là 12.770đ/suất. Còn tại Nam Định, bữa ăn đạm bạc nhất cần tới 12.000đ/suất và tại Tuyên Quang cũng cần tới 10.000đ/suất. Như vậy có thể thấy, khoản tiền ăn trưa (ăn ca) mà DN hỗ trợ cho NLĐ cũng không đáp ứng được nhu cầu tối thiểu.
Những tác động vòng ngoài
Theo phân tích của các chuyên gia thì nếu như vòng xoáy tại DN có tác động trực tiếp hằng ngày thì những tác động vòng ngoài lại âm ỉ, nhưng tiềm ẩn quá nhiều nguy cơ. Cụ thể, khi mà thu nhập không đủ trang trải cuộc sống cá nhân thì đồng nghĩa với việc không có khả năng tích lũy. Khi đó, NLĐ không thể tái tạo và mở rộng sức lao động và càng không thể có chi phí đáp ứng cho các vấn đề như học tập, chăm sóc y tế, giáo dục của bản thân và người thân trong gia đình.
Đến nay, dù chưa có nghiên cứu và khảo sát tổng quát hay cụ thể nào, nhưng thực tế cho thấy hầu hết các khu công nghiệp đều không có nhà ở cho công nhân, không có nhà trẻ cho con em NLĐ, còn vấn đề y tế và giáo dục thì cũng phó mặc cho xã hội. Chính vì thế, NLĐ tại các khu công nghiệp hầu hết phải tự đi thuê nhà, thậm chí sống tập trung tại các khu nhà trọ ổ chuột. Việc nhu cầu dinh dưỡng không đủ, điều kiện sống không đảm bảo khiến NLĐ tại các khu vực này thuộc nhóm dễ bị tổn thương nhất về mặt sức khỏe, nhất là NLĐ nữ trong vấn đề sức khỏe sinh sản.
Một kết quả nghiên cứu riêng về nhu cầu dinh dưỡng cho thấy, hiện lương tối thiểu chỉ đáp ứng được hơn 60% cho NLĐ ở khối DN FDI và 55% ở khối DN trong nước. Theo khảo sát tại 30 DN thì có tới 73,4% số NLĐ ở cả 4 KV hiện đang có mức lương không đáp ứng được mức sống tối thiểu. Ở khối DN FDI, lương tối thiểu chỉ đáp ứng được từ 43 - 48% mức sống tối thiểu của NLĐ. Còn lương tối thiểu của DN trong nước chỉ đáp ứng được 36% - 40% mức sống tối thiểu cho NLĐ.
Thực trạng NLĐ “làm không đủ ăn” rồi “ăn không đủ sức khỏe để làm” đã tạo nên những vòng xoáy liên hoàn và liên tục theo thời gian. Những vòng xoáy này không những bóp nghẹt cơ hội vươn lên của NLĐ, mà còn dần dần vắt kiệt sức lực và khả năng của NLĐ. Chính vì thế khi xảy ra rủi ro, hầu như NLĐ phải tự trang trải chi phí và gánh chịu hậu quả. Thậm chí là khi không đủ sức khỏe để làm việc thì họ dễ bị nghỉ việc.
60% số NLĐ làm thêm để có thu nhập thêm dưới 500.000đ/tháng. Trong số này có tới 21,1% số NLĐ dù làm thêm nhưng cũng chỉ có được dưới 150.000đ/tháng. Số NLĐ làm thêm có thêm 150.000 - 300.000đ/tháng chiếm 21,3%. Chỉ có 17,5% số NLĐ làm thêm là có thêm được thu nhập từ 300.000 - 500.000đ/tháng.
Theo Bộ luật LĐ thì tiền lương tối thiểu được quy định: Mức lương tối thiểu được ấn định theo giá sinh hoạt, bảo đảm cho NLĐ làm công việc đơn giản nhất trong điều kiện lao động bình thường bù đắp sức lao động giản đơn và một phần tích luỹ tái sản xuất sức lao động mở rộng…
Các chuyên gia cho rằng, nếu đối chiếu với quy định này thì sẽ thấy việc trả lương cho NLĐ tại các DN hiện nay là quá thấp. Tiền lương này khó đủ nuôi sống bản thân chứ đừng nói là tích luỹ để tái sản xuất sức lao động. Đây chính là đầu mối phát sinh những nghịch lý.
Bữa ăn của công nhân còn eo hẹp trong bối cảnh giá cả leo thang. Ảnh: Kỳ Anh
Toàn cảnh chế độ tiền lương
Trao đổi với phóng viên Lao Động, đại diện Tổng LĐLĐVN cho biết: Tiền lương tối thiểu được hiểu là số tiền thấp nhất mà DN trả cho NLĐ làm công việc giản đơn và đáp ứng được mức sống tối thiểu, thêm vào đó là phần tích lũy để tái sản xuất mở rộng sức lao động chính là khoản tiền có thể dành dụm để nuôi con và các chi phí khác... Hiện nay, quy định về tiền lương tối thiểu trả cho NLĐ là quá thấp do chưa căn cứ vào mức sống tối thiểu.
Bữa ăn của công nhân còn eo hẹp trong bối cảnh giá cả leo thang. Ảnh: Kỳ Anh
Tuy nhiên, trên cơ sở tính toán khoa học và khảo sát 10 năm qua (từ năm 2000 - 2011) thì chế độ tiền lương đã hoàn toàn “hụt hơi” trong cuộc chạy đua với lạm phát. Cụ thể trong 10 năm qua, lương tối thiểu dù được điều chỉnh tăng 7 lần (từ 210.000đ/tháng lên 830.000đ/tháng), song đã hoàn toàn trở nên lạc hậu so với tốc độ tăng GDP (khoảng từ hơn 6% - hơn 8% mỗi năm) và CPI (có 3 năm dưới 5%, 4 năm từ hơn 6 - 9,5%, 2 năm trên dưới 12%, 1 năm là 19,9%).
Theo phân tích của chuyên gia Nguyễn Quang A thì từ năm 2001 - 2010, đồng tiền đã mất giá 2,154 lần (nhân (1+CPI) của tất cả các năm). Ở lần điều chỉnh lương gần đây nhất, NLĐ tại DN FDI và DN trong nước KV1 lần lượt có lương tối thiểu là 1.550.000đ và 1.350.000đ; KV2 có lương tối thiểu lần lượt là 1.350.000đ và 1.200.000đ; KV3 có lương tối thiểu lần lượt là 1.170.000đ và 1.050.000đ; KV4 có lương tối thiểu lần lượt là 1.110.000đ và 830.000đ. Các chuyên gia cho rằng, thực tế việc điều chỉnh lương chưa căn cứ vào mức sống tối thiểu, mà chủ yếu căn cứ vào khả năng đáp ứng của ngân sách. Bên cạnh đó, việc cùng một địa bàn, cùng công việc và cùng sức lao động, song NLĐ tại DN FDI lại được hưởng lương tối thiểu cao hơn DN trong nước là sự không phù hợp. Đặc biệt dù có điều chỉnh lương, song lạm phát những năm qua phức tạp hơn nhiều so với các con số trên và gây ra những tác động xấu đáng kể cho đời sống của NLĐ.
Căn cứ trên cơ sở khảo sát của một cơ quan chuyên môn, các chuyên gia khẳng định lương tối thiểu của NLĐ tại VN chỉ đạt 4.000 - 4.500đ/giờ (0,2 - 0,275USD/giờ), trong khi khu vực EU đạt 5,33USD/giờ (gấp 20 lần VN) và khu vực ASEAN đạt 0,76USD/giờ (gấp 3 lần VN), đủ thấy việc các DN trả lương cho NLĐ quá thấp.
Lương tối thiểu... còn xa mức sống tối thiểu!
Trong vòng xoáy của lạm phát, mức lương tối thiểu hiện nay cũng như tổng thu nhập mà DN trả, NLĐ khó đảm bảo mức sống tối thiểu chứ đừng nói đến việc tích lũy để tái sản xuất mở rộng sức lao động. Chứng minh qua nghiên cứu cho thấy: Mức sống tối thiểu được cấu thành bởi 3 nhóm yếu tố gồm lương - thực phẩm, nhóm phi lương - thực phẩm và chi phí nuôi con.
Căn cứ trên cơ sở này, theo tính toán của Viện Dinh dưỡng quốc gia cho thấy, nhu cầu calo của 1 NLĐ nhẹ tại VN là từ 2.200 - 2.400
kilocalo tùy theo độ tuổi. Còn theo cách tính của Tổng cục Thống kê thì để lương - thực phẩm cung cấp năng lượng cho NLĐ đạt đến 2.300 kilocalo/ngày, NLĐ tại KV4 phải chi phí hơn 450.000đ/tháng. Ở nhóm nhu cầu phi lương - thực phẩm (nhà ở, đi lại, học tập...), Tổng cục Thống kê xác định chi phí này bằng 90% chi phí cho nhu cầu lương - thực phẩm.
Có nghĩa là NLĐ tại KV4 phải chi phí tới gần 380.000đ/tháng. Với nhóm chi phí xác định nhu cầu nuôi con, theo tính toán ở VN chi phí nuôi con trung bình bằng 70% của NLĐ, bao gồm chi phí nhóm lương - thực phẩm (450.000đ/tháng), phi lương - thực phẩm (380.000đ/tháng). Nếu cộng chi phí 2 nhóm này thì chi phí xác định nhu cầu nuôi con tương ứng với hơn 570.000đ/tháng. Từ đây có thể xác định, thu nhập để có thể đảm bảo mức sống tối thiểu KV4 là khoảng 1,5 triệu đồng/tháng, KV3 là gần 1,9 triệu đồng/tháng, KV2 là gần 2,2 triệu đồng/tháng và KV1 là hơn 2,4 triệu đồng/tháng.
Với tính toán này, các chuyên gia chỉ ra rằng lương tối thiểu tại các KV hiện nay chỉ đáp ứng được 2 trong 3 nhu cầu tối thiểu của NLĐ. Thậm chí, ngay cả khi các DN trả lương cho NLĐ cao hơn lương tối thiểu, nhưng thấp hơn số tiền tính toán theo nhu cầu thì cũng chưa đảm bảo được mức sống tối thiểu cho NLĐ.