Luật Nhân Quả

142
0
0

TA0875

New Member
Luật Nhân Quả

11. Tháng Mười Hai 2009 17:12 Trong giáo lý của đạo Phật có rất nhiều trọng tâm để tham học và tu tập như là: Từ - bi - hỷ xả; Phật tánh; vô minh tứ đế; bát chánh đạo; ngã; ngũ uẩn; bát nhã; Bồ Đề..v..v.. nhưng chỉ có trọng tâm NGHIỆP là tinh yếu nhất, quan hệ nhất cho đời sống cá nhân nói riêng, cho đạo pháp chúng ta nói chung. NGHIỆP là nền tảng mà trên đó giáo lý căn bản của PHẬT GIÁO được xây dựng nên. Cho nên phải biết NGHIỆP đóng một vai trò quan trọng như thế nào trong đạo Phật.

Vậy hễ TU PHẬT - bất luận theo pháp môn nào - cần phải thấu triệt và hoàn toàn tin tưởng vào NGHIỆP BÁO tức là LUẬT NHÂN QUẢ.

Đức Phật có dạy rằng: "...Thuở xưa từ đời quá khứ cách đây rất xa chúng ta đã tạo ra Nhân quả rồi. Những Nhân quả ấy dồn dập như sóng biển, dẩu cho trải qua bao nhiêu kiếp cũng không hề thất lạc. Đúng kỳ, chúng hiện ra cho chúng ta hoặc thưởng hoặc phạt tùy theo chúng ta đã làm lành hay làm dữ, làm phải hay làm quấy.

Về Nhân quả báo ứng, ai làm nấy chịu, chẳng trốn tránh hay san sớt cho người khác được..." (Soạn tập bá duyên kinh).

Có người cho rằng: nếu đã gọi là "luật" thì tất phải có một đấng thiêng liêng nào, người nào hay xã hội nào đặt ra. Quan niệm như thế có nghĩa hơi nông cạn. Luật ở đây là "luật thiên nhiên", luật tự nhiên nó bao trùm cả vũ trụ, vạn vật chứ nó không nằm trong phạm vi của loài người hay một xã hội nào đó. Người ta có thể khám phá ra luật ấy chứ không thể nào đặt ra luật ấy được. ĐỨC PHẬT - Ngài chỉ là người đã dùng TRÍ HUỆ sáng suốt của Ngài để vạch cho mọi người thấy rõ ràng cái "luật Nhân quả" đang điều hành trong vũ trụ mà thôi.

NHÂN QUẢ: Nhân là nguyên nhân; quả là kết quả. Quả là cái quả do mầm mống phát sinh, Nhân là nhân lực phát động, quả là sự thành hình của năng lực phát động ấy. Nhân quả là một định luật của tất cả mọi sự vật. Nhân quả - tuy ngó thấy đơn giản nhưng nếu đi sâu vào sự vật để mà nghiên cứu thì lại càng thấy rất phức tạp và khó khăn bởi vì trong vũ trụ, mọi sự vật không phải đơn thuần, tách rời từng mòn mà có sự liên quan mật thiết với nhau, xoắn kết lấy nhau, đan lát vào nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, tương phản lẫn nhau, thừa tiếp với nhau... hãy gọi đó là trạng thái chằng chịt giữa sự vật, đạo Phật thường dùng từ NHÂN DUYÊN nghĩa là mọi sự vật có ra là nhờ nhân duyên với nhau, nương tựa vào nhau hay tương phản nhau mà thành chứ không có một cái nào đứng biệt lập được. Trong sự phức tạp của sự vật ấy mà tìm ra cái Nhân chính của QUẢ hay cái QUẢ chính của NHÂN không phải là việc dễ. Do đó mà nhiều người không dụng công suy nghĩ, tìm tòi sâu xa mà đâm ra sanh lòng nghi ngờ thuyết Nhân quả. Ta thử tìm hiểu xem: hạt lúa có thể là cái NHÂN cho những hạt lúa vàng là QUẢ trong mùa gặt sau nhưng nếu ta đem hạt lúa ấy nấu ăn, như thế cái NHÂN chính có thể thành ra QUẢ này hay QUẢ khác nếu nhân sự khác nhau; muốn hạt lúa giống của mùa này thành hạt lúa vàng của mùa sau thì cầ phải có đất, nước, ánh sáng, không khí, thời gian, phân tro... muốn cho hạt lúa giống ấy thành máu huyết thì phải nấu, phải ăn, phải có bộ máy tiêu hoá. Cho nên nói NHÂN QUẢ tách riêng sự vật ra khỏi cái chung cùng toàn thể vũ trụ lấy một khía cạnh nào đó để quan sát nghiên cứu chứ muốn nói cho đúng thì phải dùng hai chữ NHÂN DUYÊN, cũng như một nhà khoa học khi muốn nghiên cứu một bộ phận nào bên trong cơ thể thì thường cắt xén bộ phận ấy ra khỏi cơ thể để nghiên cứu cho dễ chứ thật ra bộ phận ấy không phải biệt lập mà trái lại nó có liên quan mật thiết đến toàn bộ cơ thể.

Cho nên khi chúng ta muốn có ccái kết quả như thế nào đó thì phải hội đủ các nhân duyên thì kết quả mới như ý muốn. Có người muốn kết quả như vậy nhưng lại không hội đủ nhân duyên như thế nên kết quả không đạt do đó họ đâm ra nghi ngờ sự đúng đắn của "luật Nhân quả"; trong Nhân có quả, trong quả có Nhân. Chính trong NHÂN HIỆN TẠI đã có chứa cái QUẢ VỊ LAI và trong cái QUẢ HIỆN TẠI đã có hình bóng NHÂN QUÁ KHỨ cho nên Phật nói "NHÂN QUẢ" thông cả ba đời".

Một sự vật mà ta gọi là Nhân là khi nó chưa biến chuyển hình thành ra cái quả mà ta quan niệm; một sự vật mà ta gọi là quả khi nó biến chuyển hình thành ra trạng thái mà ta đã quan niệm. Mọi vật đều có Nhân và quả: đối với quá khứ thì nó là quả nhưng đối với tương lai thì nó lại là Nhân. Nhân và quả đắp đổi nhau, tiếp nối nhau không bao giờ dứt. Nhờ sự liên tục ấy mà trong một hoàn cảnh nào người ta cũng có thể đoán biết quá khứ và tương lai của một sự vật hay một con người. Kinh Phật có dạy: "...Muốn biết cái Nhân thì cứ coi cái quả đời này đang thọ, muốn biết cái quả về sau như thế nào thì cứ xét cái Nhân đang tác động trong hiện tại..."

Sự phát triển mau hay chậm từ Nhân đến quả của mỗi người, sự vật không tiến triển trong cùng một thời gian; vì lý do mau chậm trong sự phát hiện của cái quả mà chúng ta không nên nóng nảy cho rằng cái luật Nhân quả không hoàn toàn đúng khi thấy cái Nhân mà ta đã gieo chưa hình thành nên cái quả. Vậy mỗi chúng ta phải kiên nhẫn mà gieo cái Nhân lành trước để một ngày kia chúng ta đón hưởng cái quả tốt mà chúng ta đã có công trình đặt hạt giống ngay từ bây giờ.

Mỗi Phật tử chúng ta đã thấu triệt luật Nhân quả tức là đã hiểu và tin; hiểu rõ ràng; tin sâu đậm rằng tất cả những vui, buồn, sướng, khổ... ở kiếp sau là quả của những Nhân (nghiệp) từ kiếp này.

Mặt khác, những điều mà thế tục gọi là hạnh phúc hay bất hạnh đều do duyên sanh hoặc những liên hệ giữa người và cảnh, người và người, người và vật...cũng do duyên sanh.

Phật nói : "Chư pháp duyên sanh" mà nói duyên tức nói nghiệp: cha - con; vợ - chồng; anh em; bè bạn..., nếu không phải là "duyên" thì là "nợ". Theo thế tục mà nói: "duyên" tức là hạnh phúc, là "thiện duyên" - theo Phật giáo mà nói: "nợ" tức là bất hạnh theo thế tục mà nói, còn theo Phật giáo mà nói: "nợ" là "ác duyên" (như Axà Thế vương là nợ của vua Tần Bà-Sa-la). Nếu hiểu biết triệt để điều này thì dù bất cứ ở trong hoàn cảnh nào, người Phật tử chơn chánh vẫn bình thản họăc tưởng quả lành hoặc thọ quả dữ, hưởng hay thọ cho xong kiếp này và đừng gieo Nhân ác thì mới hy vọng kiếp sau được "rảnh rang trọn vẹn" "Bồ Tát sợ Nhân-chúng sanh sợ quả": Bồ Tát sợ Nhân nên không gây Nhân ác; chúng sanh sợ quả chớ ít sợ Nhân nên vô tình hay cố tình mà gây Nhân ác. Nhân ác hiện ra quả ác. Một khi quả ác đã hiện ra liền lo sợ, chẳng khác nào "kẻ muốn trốn nắng lại chạy ra dưới ánh mặt trời".

Trong khắp cõi Ta bà thế giới này chẳng có một nơi nào để cho ta trốn được luật Nhân quả được. Nên biết "trông sâu khó bứng" chẳng khác nào tung quả bóng, tung mạnh dội mạnh, tung nhẹ dội lại nhẹ.

Vì:

- Sân hận, oán ghét, tà dâm là Nhân; điạ ngục là quả.

- Tà kiến, ám muội, làm ác là Nhân; súc sanh là quả.

- Tham lam, bỏn xẻn là Nhân, ngạ quỷ là quả.

- Ngã mạn, cống cao là Nhân; A tu la là quả.

- Giữ tròn năm giới là Nhân; thân người là quả.

- Tu hành thập thiện là Nhân; thân trời là quả.

- Chứng ngộ "CHƠN KHÔNG" là Nhân; thinh văn là quả.

- Thấu pháp "Thập nhị Nhân duyên" là Nhân; Duyên giác là quả.

- Tu tròn sáu độ là Nhân; Bồ Tát là quả.

- Bình đẳng (vô thượng - chánh đẳng - chánh giác) là Nhân; Phật là quả.

* Niệm Phật Adiđà là Nhân; Tây phương cực lạc là quả.

Cho nên nếu tin mà không tin sâu đậm, còn khởi lòng nghi thì không bao giờ đạt tới CỬU CÁNH được cả.

Khi nói rằng người Phật tử đã tin sâu đậm vào luật Nhân quả thì người Phật tử ấy phải biết chắc rằng: chết không phải là hết vì chết đây liền sanh kia, chết kia liề sanh đây, sanh dưới một hình thể khác hoặc xấu hơn hoặc tốt hơn hình thể cũ tùy theo NGHIỆP LỰC của mình (Cũng gọi là SINH TỬ BIẾN THỨC -kinh Kiến Chính) - tức là tùy theo sức dẫn dắtcủa cái mghiệp do THÂN KHẨU Ý tạo ra trước đây; sức dẫn dắt này đưa ta vào một trong saú lục đạo (Trời -người - A tu la - ngạ quỷ - súc sanh - địa ngục) trong kinh gọi là PHÂN ĐOẠN SANH TỬ nghĩa là sanh ra và chết đi có từng phần, từng giai đoạn một, khi thì làm người, khi thì làm thú. Đó là nói về hạn phàm phu không tu hành hoặc có làm dữ, hoặc có làm lành. Bằng như có tu hành mà vẫn chưa liễu sanh tử tức là chưa ra khỏi TAM GIỚI như bực nhi thừa và quyền thừa Bồ Tát khi thì sanh lên trời, khi thì trở lại trần gian thì gọi là BIẾN DỊCH SANH TỬ. Quyết tâm tu hành mà vẫn không hiểu thế nào là "phân đoạn sanh tử" hay "Biến dịch sanh tử" thì vẫn còn triền miên lăn trôi trong Tam giới. Có rất nhiều sự tích chứng minh là luật Nhân quả là bất di bất dịch (Sự tích Tỳ kheo ni Bảo Liên Hương cáo đồng thoái hoá; ông lão đắc quả A la hán) và đến như đức Phật - một đấng đại từ đại bi, công đức vô lượng vô biên, một bậc thầy cuả Trời và người mà còn phải trả quả thay! huống hồ là ai! chuyện kể rằng:

"Một thời gian nọ, khi Phật đang ngụ ở Trúc Lâm tịnh xá gần thành Sa duyệt, bỗng đâu một mũi kim thương hiện ra sừng sững trước mặt Ngài. Ngài hiện hình lên không trung, mũi kim thương cũng bay lên theo; Ngài trở xuống tịnh xá; mũi kim thương cũng bay xuống theo. Thấy thế Phật bèn nói với mọi người hiện diện tại đó cùng với Thiên long Bát Bộ rằng:

- Kim thương này là quả báo đời trước của ta. Vậy mọi người hãy an lòng để ta trả quả.

Phật bèn đưa chân mặt ra, kim tương đâm xuống chân Phật, lún xuống đất, rung động cả vũ trụ. Mọi người thấy thế lấy làm ngạc nhiên và xin Phật giải rõ. Phật nói: "trong một tiền kiếp xa xưa, thật là xa ta là một vị Chúa tàu chở 500 người đi buôn, ra biển để tìm báu vật. Bỗng nhiên đang đi ngoài khơi, có một kẻ trong bọn ấy sanh tâm muốn giết hết tất cả để đoạt sản vật, ta liền đâm nó chết. Nay ta phải trả cái quả ấy".

(QUY NGUYÊN TRỰC CHỈ)

Và để nói rõ hơn về luật Nhân quả, ngài pháp sư Ấn Quang - một bậc cao tăng, danh đức trong Tăng giới - đã từng nói: "... Nên biết sự tu trì củ hành Nhân quả thật chí thành không giả dối thì có thể chuyển hậu báo thành hiện báo tức là chuyển báo nặng của những đới sau thành báo nhẹ ở đới này. Nười phàm mắt thịt chỉ thấy sự kiết hung trước mắt chớ đâu biết được Nhân quả đời trước, Nhân quả đời sau. Bà họ Trương (1) ấy nhiều năm tinh tu một sớm chết thảm: hoặc giả do sự khổ đó mà tiêu được ác báo Tam đồ sanh về cõi Trời. Nếu trong hiện đời bà ấy có Tín sâu và Nguyện thiết thì bà cũng có thể vãng sanh về Tây phương. Bởi chúng ta không có tha tâm, đạo nhãn nên không dám ức đoán hay quyết đoán chắc rằng bà có vãng sanh hay không.

Nhưng có một điều mà chúng ta dám quả quyết là: làm lành tất được quả lành, làm dữ phải mang quả dữ. Đây là quả báo của nghiệp ác đời trước-nếu ta làm lành mà mang quả dữ-chứ chẳng phải là quả báo của nghiệp lành đời này. Còn làm dữ mà được quả lành - đó là quả báo của nghhệp lành đời trước; còn nghiệp ác đời này nếu hiện đời chưa trả kịp thì chắc chắn đời sau sẽ phải trả chớ có mất mát đi đâu.

Các người thấy bà lão chết khổ như thế liền nghĩ lầm rằng: việc lành không dám làm, bởi làm lành chẳng những không được phước mà lại còn mang lấy khổ. Nghĩ như thê các người mới nghi ngờ, sợ hãi. Sự nhận thức đó đâu có khác gì các người chưa nghe, chưa hiểu Phật pháp. Nếu các người tin lời Phật dạy, quyết các người không vì việc ấy mà tỏ vẻ sững sốt kinh hoàng.

Việc Nhân quả trùng trùng điệp điệp không ngừng, có khi Nhân này chưa trả mà quả nọ đã chín muồi; ví như gieo giống sớm thì gặt lúa sớm, nhưng lại thiếu nợ, chủ nợ nào mạnh thì lôi kéo con nợ trước nhứt..." (Lá thơ Tịnh Độ - Ấn Quang pháp sư).

Vậy nếu tỏ rõ được lý thì dù cho cảnh ngộ có ra sao đi nữa là quyết không nghi ngờ rằng Nhân quả sai lầm, lời Phật hư dối. Ngày xưa, vua Nghiêu là vị vua hiền đức lại sanh ra con hun dữ nên mới tìm ông Thuần để nhường ngôi và ông Thuầ là một đại hiền, một đại hiếu chi tử mà lạ là con của một kẻ bất Nhân là ông Cổ Tẩu.Thật là:

"Cổ Tẩu mấy hiền mà sanh đại hiền chi tử, vua Nghiêu mấy dữ mà sanh bất hiếu chi nhi: có khi cây đăng lá the mà trổ sanh hoa thơm trái ngọt!"

Thật thế! Về nguồn gốc hay ngọn ngành của Nhân, của quả chỉ có Phật mới biết được mà thôi; ngoài ra, chẳng có ai biết nổi kể cả bực Đẳng giác Bồ Tát.

Căn cứ vào những sự tích do Phật kể ra về tiền thân của Phật hoặc của các đệ tử Phật hoặc của những người đồng thời có dịp gặp Phật trong những kinh như là: Soạn tập bá duyên kinh, kinh Vị tăng hữu, kinh Hiền ngu..v..v..thì luật Nhân quả không có ứng nghiệm trong sự khấu trừ ác và thiện như một số người thường nghĩ; họ cho rằng có thể "hối lộ" được Phật, Trời, Thánh, Thần nên cùng một lúc vừa làm ác vừa làm lành như cho vay ăn lời "cắt cổ"; làm nghề sát sanh mạng vật, mua cân già bán cân non, tham nhũng... rồi lấy đồng tiền đó đi cúng chùa, cất miếu tưởng rằng làm như vậy sẽ được hết tội vì lành dữ bù qua chế lại. Nếu không hiểu còn có chỗ giảm chế; bằng như đã hiểu rồi nếu muốn thật sự tu hành để Giải thoát thì Nhân ác cần phải giảm thiểu dần dần Nhân lành tăng gia mãi mãi và phải thật sự ăn năn sám hối. Sám hối không phải là lễ lạy, tụng kinh, trì chú vào những đêm 15 hay 30. Đích thực của sám hối là ăn năn tội trước, lánh ngừa tội sau.

Phật có nói: "Chỉ có hai hạng người quân tử: một là hạng người không bao giờ lầm lỗi (Thánh Nhân) hai là những người đã lầm lổi rồi nay biết ăn năn sám hối".

Và thiết tưởng đối với chúng ta - những người con Phật - nếu đã thấu triệt luật Nhân quả thì dù cho trong hiện đời có một đại bất hạnh nào xảy ra, ta vẫn an nhiên tự tại, không nên buồn rầu, thối thất đạo tâm nên lấy đó làm một đề mục để minh quán xét: hễ là nợ, nếu trả được món nào thì mừng món đó chẳng khác nào rút được một trong vô số những mũi kim ra khỏi người và bởi vì điều bất hạnh ấy đáng lý ra là trọng báo của những đời sau nhưng nay nó chuyển ra thành khinh báo ở đời này; đó là do chỗ ta chơn thành, chí kính và tha thiết tụ niệm nên mới được "dồn quả" như vậy.

Với niềm tin vững chắc này, ta càng hoan hỷ và càng hăng hái tiến tu hầu mau có Giải thoát, mau trở về với mái nhà xưa-nơi có Mẹ chờ Cha trông ngóng từng ngày từng giờ. Đây có phải là điều đáng quý và tối quan trọng không ư?!

(1) Bà Trương Thái Thái là người rất tin Phật, ăn chay trường đã 20 năm, thường đến cư sĩ Lâm nghe giảng kinh pháp. Bà ấy hiền hậu Nhân đức ưa làm lành, gặp ai nấy bà cũng khuyên ăn chay, niệm Phật. Không ngờ một hôm đang đi đem đồ ăn chay cho một vị sư huynh, bà bị xe hơi cán chết, vì không có ai nhận mặt nên nhân viên tuần phòng chuyển đi. Đến 3 ngày sau con cháu mới hay và đến xin xác bà về chôn.

Tâm Bình

Lời bàn thêm của chủ topic : Hôm trước đi chùa có nghe sư thầy Thích Quảng Hiếu giảng : Nhân quả của bản thân không ai có thể thoát được, cho dù có phép thần thông hô mưa gọi gió cũng không thoát khỏi nghiệp lực. Tạo nhân tốt thì được quả tốt, tạo nghệp chướng thì dù có bay lên trời cũng không thoát khi vận tới.
Rằm tháng 7 vừa rồi tôi tụng kinh Vu Lan ở chùa, tụng đến đoạn đức Mục Kiền Liên Bồ Tát mở thần nhãn thấy mẹ đẻ mình đang phải chịu nghiệp báo dưới chín tầng địa ngục, lửu đốt, kim châm vô cùng đau đớn nhưng cũng không tài nào cứu được vì đó là nghiệp do mẹ ngài tạo ra từ kiếp trước. Rồi đến đức Phật tổ Thích Ca - Phật pháp vô lượng như đã viết ở trên
cũng không thoát được nghiệp lực thì hỏi ai còn có thể thoát được nữa đây.
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
1,669
0
0

mesubim

New Member
Ðề: Luật Nhân Quả

Một hôm một người đàn ông trông thấy một bà lão với chiếc xe bị ‘pan’ đậu bên đường. Tuy trời đã sẩm tối anh vẫn có thể thấy bà đang cần giúp đỡ. Vì thế anh lái xe tấp vào lề đậu phía trước chiếc xe Mercedes của bà rồi bước xuống xe. Chiếc xe Pontiac củ kỉ của anh vẫn nổ máy khi anh tiến đến trước mặt bà. Dù anh tươi cười nhưng bà lão vẫn tỏ vẻ lo ngại. Trước đó khoảng một tiếng đồng hồ không một ai dừng xe lại để giúp bà. Người đàn ông này liệu có thể hãm hại bà không? Trông ông không an toàn cho bà vì ông nhìn có vẻ nghèo và đói.

Người đàn ông đã có thể nhận ra nỗi sợ hãi của bà cụ đang đứng bên ngoài chiếc xe giữa trời lạnh. Anh biết cảm giác lo sợ của bà như thế nào rồi. Cái run đó, nỗi lo sợ trong lòng đó mới là lý do tự nó thành hình trong ta.
Anh nói: “Tôi đến đây là để giúp bà thôi. Bà nên vào trong xe ngồi chờ cho ấm áp? Luôn tiện, tôi tự giới thiệu tôi tên là Bryan Anderson.”

Thật ra thì xe của bà chỉ có mỗi vấn đề là một bánh bị xẹp thôi nhưng đối với một bà già thì nó cũng đủ gây phiền não rồi. Bryan bò xuống phía dưới gầm xe tìm một chỗ để con đội vào và lại bị trầy da chổ khớp xương bàn tay một hai lần gì đó.

Chẳng bao lâu anh đã thay được bánh xe. Nhưng anh bị dơ bẩn và hai bàn tay bị đau xát.

Trong khi anh đang siết chặt ốc bánh xe, bà cụ xuống cửa kiếng và bắt đầu nói chuyện với anh. Bà cho anh biết bà từ St. Louis đến và chỉ mới đi được một đoạn đường. Bà không thể cám ơn đầy đủ về việc anh đến giúp đỡ cho bà. Bryan chỉ mỉm cười trong lúc anh đóng nắp thùng xe của bà lại. Bà cụ hỏi bà phải trả cho anh bao nhiêu tiền. Bryan chưa hề nghĩ đến hai lần là sẽ được trả tiền, đây không phải là nghề của anh. Anh chỉ là giúp người đang cần được giúp đỡ và Chúa, Phật biết đã có rất nhiều người trong quá khứ ra tay giúp anh. Anh đã sống cả đời mình như thế đó, và chưa bao giờ anh nghĩ sẽ làm chuyện ngược lại.

Anh nói với bà cụ nếu bà thật sự muốn trả ơn cho anh thì lần khác khi bà biết ai cần được giúp đỡ thì bà có thể cho người ấy sự giúp đỡ của bà, và Bryan nói thêm: “Và hãy nghĩ đến tôi…”

Anh chờ cho bà cụ nổ máy và lái xe đi thì anh mới bắt đầu đi về. Hôm ấy là một ngày ảm đạm và lạnh lẽo nhưng anh lại cảm thấy thoải mái khi lái xe về nhà và biến mất trong hoàng hôn.

Chạy được vài dặm trên con lộ bà cụ trông thấy một tiệm ăn nhỏ. Bà ghé lại để tìm cái gì để ăn và để đỡ lạnh phần nào trước khi bà đi đoạn đường chót để về nhà. Đó là một nhà hàng ăn trông có vẻ không được thanh lịch. Bên ngoài là hai bơm xăng cũ kỹ. Cảnh vật rất xa lạ với bà. Chị hầu bàn bước qua chỗ bà ngồi mang theo một khăn sạch để bà lau tóc ướt. Chị mỉm cười vui vẻ với bà dù phải đứng suốt ngày để tiếp khách. Bà cụ để ý thấy chị hầu bàn này đang mang thai khoảng tám tháng gì đó nhưng dưới cái nhìn của bà, bà thấy chị không bao giờ lộ sự căng thẳng hay đau nhức mà làm chị thay đổi thái độ.

Bà cụ thắc mắc không hiểu tại sao khi cho một người dù có ít lại cho một người lạ mặt rất nhiều. Rồi bà lại chợt nhớ đến anh chàng tên Bryan hồi nãy.

Sau khi bà ăn xong, bà trả bằng tờ giấy bạc một trăm đô-la. Chị hầu bàn mau mắn đi lấy tiền để thối lại tờ bạc một trăm của bà cụ nhưng bà cụ đã cố ý nhanh chân bước ra khỏi cửa rồi. Lúc chị hầu bàn quay trở lại thì bà cụ đã đi mất . Chị hầu bàn thắc mắc không biết bà cụ kia có thể đi đâu. Khi để ý trên bàn chị thấy có dòng chữ viết lên chiếc khăn giấy lau miệng.

Nước mắt vòng quanh khi chị đọc dòng chữ mà bà cụ viết: “Cô sẽ không nợ tôi gì cả. Tôi cũng đã ở vào tình cảnh thiếu thốn giống như cô. Có ai đó đã một lần giúp tôi giống như bây giờ tôi đang giúp cô. Nếu cô thực sự nghĩ rằng muốn trả ơn lại cho tôi thì đây là điều cô nên làm: Đừng để cho chuỗi tình thương này kết thúc ở nơi cô.” Bên dưới tấm khăn giấy lau miệng bà cụ còn lót tặng thêm bốn tờ giấy bạc 100 đô-la.


Thật ra, có những bàn ăn cần lau dọn, những hủ đường cần đổ đầy, và những khách hàng để phục vụ nhưng chị hầu bàn đã hoàn tất việc ấy để sửa soạn cho qua ngày mai. Tối hôm đó khi chị đi làm về và leo lên giường nằm thì chị vẫn còn nghĩ về số tiền và những gì bà cụ đã viết cho. Làm thế nào bà cụ đã biết chị và chồng của chị cần số tiền ấy? Với sự sanh nở đứa bé vào tháng tới, điều ấy sẽ là khó khăn….

Chị biết chồng chị lo lắng đến mức nào, và trong lúc anh ta nằm ngủ cạnh chị, chị cho anh một cái hôn nhẹ và thì thào bên tai anh, ‘Mọi chuyện sẽ tốt đẹp cả. Em thương anh, Bryan Anderson, ạ.’

Có một cổ ngữ “NHÂN NÀO QUẢ NẤY” Hôm nay tôi gửi bạn câu chuyện này, và tôi yêu cầu bạn chuyển tiếp nó. Hãy để cho ngọn đèn này chiếu sáng. Đừng xóa nó, đừng gửi nó trở lại. Chỉ việc chuyển câu chuyện này đến một người bạn. Những người bạn tốt, giống như những vì sao….

Bạn không luôn luôn trông thấy họ, bạn biết họ luôn luôn có mặt ở đó.


Tôn Thất Bảng
(Việt dịch ngày 11 tháng 9 năm 2009: TTB)
 
142
0
0

TA0875

New Member
Ðề: Luật Nhân Quả

Bài mesubim viết gọi là Nhân - Quả nhãn tiền, nhưng Luật Nhân quả qua đúc kết của đạo Phật phức tạp, rộng hơn, bao quát qua nhiều đời con đời cháu, thậm chí qua nhiều kiếp và cũng có thể là Nhân - Quả nhãn tiền ngay lập tức.
 
713
0
16

Virgo2007

Member
Ðề: Luật Nhân Quả

Đúng vậy, Nhân - Quả không chỉ xảy ra trong ngay một kiếp người mà còn kéo dài hết kiếp này đến kiếp khác. Có những Nhân ta vô tình gieo, nhiều khi chỉ do hoàn cảnh xô đẩy, đến khi biết rằng cái Nhân đó khi gieo mình sẽ bị nhận lại Quả đắng thì đã muộn rồi. Nhưng Phật thì luôn bao dung đối với những người biết quay đầu nhận lỗi và sửa chữa lỗi lầm đúng không ạ?. Vậy phải làm gì để giảm bớt được Nghiệp khi mà Nhân đã lỡ gieo ạ?
 
142
0
0

TA0875

New Member
Ðề: Luật Nhân Quả

Đúng vậy, Nhân - Quả không chỉ xảy ra trong ngay một kiếp người mà còn kéo dài hết kiếp này đến kiếp khác. Có những Nhân ta vô tình gieo, nhiều khi chỉ do hoàn cảnh xô đẩy, đến khi biết rằng cái Nhân đó khi gieo mình sẽ bị nhận lại Quả đắng thì đã muộn rồi. Nhưng Phật thì luôn bao dung đối với những người biết quay đầu nhận lỗi và sửa chữa lỗi lầm đúng không ạ?. Vậy phải làm gì để giảm bớt được Nghiệp khi mà Nhân đã lỡ gieo ạ?
Dùng chính Nhân - Quả bạn ạ, như tôn chỉ mà trang web này đang thực hiện đó
 
1,669
0
0

mesubim

New Member
Ðề: Luật Nhân Quả

Gieo gì hôm nay thì mai này bạn sẽ gặt lấy những kết quả tương ứng :

Nếu bạn gieo thành thật bạn sẽ gặt lòng tin.
Nếu bạn gieo lòng tốt bạn sẽ gặt thân thiện.
Nếu bạn gieo khiêm tốn bạn sẽ gặt cao thượng.
Nếu bạn gieo kiên nhẫn bạn sẽ gặt chiến thắng.
Nếu bạn gieo cân nhắc bạn sẽ gặt hòa thuận.
Nếu bạn gieo chăm chỉ bạn sẽ gặt thành công.
Nếu bạn gieo tha thứ bạn sẽ gặt hòa giải.
Nếu bạn gieo cởi mở bạn sẽ gặt thân mật.
Nếu bạn gieo chịu đựng bạn sẽ gặt cộng tác.
Nếu bạn gieo niềm tin bạn sẽ gặt phép màu.

còn :

Nếu bạn gieo dối trá bạn sẽ gặt ngờ vực.
Nếu bạn gieo ích kỉ bạn sẽ gặt cô đơn.
Nếu bạn gieo kiêu hãnh bạn sẽ gặt hủy diệt.
Nếu bạn gieo đố kị bạn sẽ gặt phiền muội.
Nếu bạn gieo lười biếng bạn sẽ gặt mụ mẫm.
Nếu bạn gieo đắng cay bạn sẽ gặt cô lập.
Nếu bạn gieo tham lam bạn sẽ gặt tổn hại.
Nếu bạn gieo tầm phào bạn sẽ gặt kẻ thù.
Nếu bạn gieo lo lắng bạn sẽ gặt lo âu.
Nếu bạn gieo tội lỗi bạn sẽ gặt tội lỗi.

Vì vậy, hãy cẩn thận những gì bạn gieo HÔM NAY, nó sẽ QUYẾT ĐỊNH những gì bạn gặt vào NGÀY MAI
:x
 
142
0
0

TA0875

New Member
Ðề: Luật Nhân Quả

[h=1]Sự trở về kỳ lạ của một cô gái sau gần 1.500 ngày mất tích[/h]



Lâm Thị Thanh Huyền trong ngày cưới.
Năm 2000, Lâm Thị Thanh Huyền sang Australia du học theo diện học bổng, thế nhưng liên tiếp những tai ương đã khiến cô mất trí nhớ và phiêu bạt khắp nơi. Gia đình đau đớn bởi tưởng đã mất con, thế nhưng thật kỳ lạ, 4 năm sau Huyền đã tìm được bố mẹ nhờ một sự trùng hợp ngẫu nhiên…
Lâm Thị Thanh Huyền là con gái út của ông Lâm Văn Bảng, người đã lập bảo tàng nhà tù Phú Quốc ngay tại gia đình ở thôn Nam Quất, xã Nam Triều, huyện Phú Xuyên, Hà Tây. Ông Bảng kể, trong số mấy người con của ông, cô út Lâm Thị Thanh Huyền là người thông minh nhất. Hồi tuổi mới lên ba, chưa ai dạy chữ, thế mà nghe các anh, các chị học thuộc lòng chỉ một hai lần là Huyền đã đọc lại vanh vách những bài học của anh chị mình. Ông quyết tâm dồn tất cả mọi thứ cho cô những mong con mình phát huy được hết khả năng thiên phú.
Sự kỳ vọng của ông và mọi người trong gia đình đã không uổng phí, Huyền năm nào cũng là một học sinh xuất sắc được thầy cô và bạn bè mến yêu, nể phục. Tốt nghiệp cấp III năm 1997, Huyền trúng tuyển vào Trường Đại học Giao thông vận tải với số điểm cao chót vót. Học hết năm thứ nhất ở Trường Đại học Giao thông vận tải, thấy mình không hợp, cô quyết định chuyển trường.Huyền thi đậu Khoa Toán tin của Đại học Quốc gia Hà Nội mà chẳng khó khăn gì. Sự tự hào của gia đình ông Bảng được nhân lên gấp bội khi đang là sinh viên năm thứ 2, Huyền được nhà trường cử đi du học nước ngoài.
Sách quý tặng con trước lúc đi xa
Trước ngày sang Australia học, ông Bảng đã ngồi suốt tối dặn dò con gái yêu những điều cần thiết khi một mình ở nơi xứ lạ. Ông Bảng tặng con một cuốn sách đã được gói ghém rất cẩn thận. Đó là cuốn Nhân Quả, ông mua từ năm 1995 và thuộc lòng từng câu chữ. Bởi là sách quý nên ông tỉ mẩn bọc bằng mấy lớp bìa, ngoài cùng là lớp giấy nilon phẳng phiu, sáng bóng.

Đưa cuốn sách ấy cho con, ông rưng rưng bảo: "Ba chẳng có quà gì cho con trước lúc đi xa cả, chỉ có cuốn sách này thôi. Đây là cuốn sách mà ba thích nhất, sang đó, cứ khi nào khó khăn nhất, con hãy đọc nó, nó sẽ chỉ cho con cách vượt qua khó khăn ấy con ạ!". Nhận cuốn sách từ tay người cha già cả đời lam lũ, Huyền cũng nước mắt nghẹn ngào.

Ông Bảng có thói quen hễ mua được cuốn sách nào việc đầu tiên ông ghi ngay tên, địa chỉ của mình lên đó. Cuốn Nhân Quả cũng vậy, tên ông, số điện thoại gia đình, ông đã nắn nót ghi ngay gáy trước. Thế nhưng, chẳng hiểu tại sao, khác với những cuốn sách khác, cuốn sách ấy ông lại ghi tên mình theo kiểu viết không có dấu (Bảng thành Bang) và chỉ ghi mỗi số điện thoại nhà mình chứ không ghi địa chỉ rõ ràng.
Tai ương nối tiếp tai ương
Huyền sang Australia học, cô vẫn đều đặn viết thư về cho gia đình. Cuốn sách người cha ở quê tặng, cô cất cẩn thận trong hòm và thỉnh thoảng vẫn lấy ra đọc mỗi khi buồn, mỗi khi "gặp khó khăn" như lời cha cô dặn trước lúc xa nhà. Cạnh nơi Huyền ở có một bà người Pháp bởi không có con nên thấy Huyền hiền lành thì đem lòng quý mến. Bà nhận Huyền làm con nuôi và hai người thường xuyên qua lại chăm sóc nhau như ruột thịt.
Học được gần một năm thì tai họa ập xuống. Huyền bị ốm nặng. Mấy ngày liền nằm liệt giường bởi những cơn sốt ly bì hành hạ. Lâu không thấy cô con nuôi ngoan hiền ghé qua, bà mẹ nuôi người Pháp đã tất tưởi đến thăm. Thấy Huyền sốt cao, bà vội vàng gọi bác sỹ và lập tức đưa Huyền nhập viện. Tại viện, các bác sỹ đã chẩn đoán, Huyền bị viêm não đã biến chứng, nếu không đưa sang một bệnh viện tốt nhất của Mỹ thì tính mạng cô sẽ vô cùng nguy hiểm.
Vậy là, từ viện, Huyền đã được bà mẹ nuôi vội vàng làm thủ tục để cấp tốc sang Mỹ chạy chữa. Đến Mỹ, phẫu thuật xong và sau gần một tháng điều trị, bệnh tình của Huyền đã có dấu hiệu thuyên giảm. Sốt ruột vì việc học, dù sức khỏe vẫn chưa phục hồi hoàn toàn nhưng hai mẹ con vẫn cập rập làm thủ tục để quay lại Australia .
Họa vô đơn chí, chiều ấy, trên đường sân bay, một tai họa kinh hoàng khác đã ập xuống, chiếc taxi chở hai mẹ con đã va vào xe tải, nát bươm. Lần tai nạn ấy đã khiến mẹ nuôi Huyền thiệt mạng ngay tại chỗ, còn Huyền thì bất tỉnh nhân sự và được mọi người đưa trở lại bệnh viện. Nằm miên man suốt mấy ngày trời, khi tỉnh dậy, Huyền ú ớ khi không còn nhận ra chính mình nữa. Cô đã mất trí hoàn toàn. Cô không biết mình là ai, không biết tại sao lại ở nơi này…
Sau tai nạn kinh hoàng trên, mọi đồ đạc của Huyền đã bị mất hết, kể cả giấy tờ tùy thân. Ra viện, không biết đi đâu về đâu, Huyền đành ở lại Mỹ và kiếm sống bằng nghề rửa vỏ chai, lọ trong một nhà hàng ở New York .
Trong cuốn sách Nhân Quả mà cha cô tặng, có nhắc nhiều đến chuyện ở hiền gặp lành. Và điều ấy đã đúng với Huyền. Thấy Huyền chăm chỉ lại ở trong một cảnh ngộ rất đỗi bi thương, một phụ nữ lái buôn người Trung Quốc đã đón Huyền lên tàu chở hàng của bà, nhận Huyền làm con nuôi và Huyền giúp bà những việc vặt hàng ngày.
Lúc này, Huyền vẫn không nhớ một chút gì về quá khứ của mình. Cô chỉ thấy văng vẳng trong đầu mình mấy câu "Việt Nam , Hồ Chí Minh" mà cô không biết đã nghe từ đâu. Tiếng Trung Quốc cô không biết, vậy nên khi bà lái buôn người Hoa ra hiệu hỏi quê quán, cô đã nói với bà câu ấy. Biết chắc Huyền là người Việt Nam , bà mẹ nuôi hứa sẽ đưa Huyền về quê cũ khi có chuyến hàng ngược về đại lục.
Hơn 2 tháng sau, trên chuyến tàu chở toàn đồ điện tử ấy, tạm biệt nước Mỹ phồn hoa, Huyền lênh đênh trở về Trung Quốc. Đến nơi, nghỉ ngơi vài ngày, Huyền được bà mẹ nuôi cho người đưa đến tận Lạng Sơn. Từ đây, Huyền tìm về Hà Nội, bởi nghĩ ở đó dễ kiếm sống và cơ hội tìm được người nhà sẽ lớn hơn nhiều.
Ở Australia , sau khi thấy Huyền đi chữa bệnh rồi mãi không quay lại trường, tưởng cô đã về nước, bạn bè của cô đã gom tất cả đồ đạc trong đó có cuốn Nhân Quả và gửi về Việt Nam . Thế nhưng, địa chỉ họ gửi không rõ ràng nên những thứ đồ đó không đến được tay người nhận.

Những ngày đầu ở Hà Nội, Huyền kiếm sống bằng nghề rửa bát thuê cho những hàng phở, hàng cơm bụi ở quanh Cầu Giấy. Tối, cô lang thang ở khắp các đình, chùa quanh đó tìm chỗ nghỉ chứ không thuê nhà bởi chẳng có tiền.
Gặp Huyền, chẳng biết vì mục đích gì, một bà buôn ở mãi Lạng Sơn cứ nằng nặc nhận cô chính là người con mất tích của bà. Sau nhiều lần thuyết phục, tưởng thật, cô đã theo người đàn bà đó ngược về xứ sở hoa hồi. Lên đó, thấy anh em, họ hàng của người đàn bà ấy không thân thiện với mình, nghĩ chắc chắn đây không phải nơi mình đã sinh ra nên ở được hơn một tuần, Huyền đã bỏ về Hà Nội và chuyển sang nghề bán bánh mỳ dạo.
Bởi lo ốm đau không ai chăm sóc nên gần năm trời đội bánh mỳ đi bán ở khắp các hang cùng ngõ hẻm, Huyền đã dành dụm được chút tiền. Biết Huyền có vốn, một ả buôn sách cũ ở đường Láng đã ngọt nhạt mời Huyền về để cùng nhau hùn vốn làm ăn. "Hợp tác" được vài tháng thì ả ôm sạch tiền bỏ trốn, vứt lại cho Huyền mớ sách cũ cuốn nhàu, cuốn rách.
Không còn sự lựa chọn nào khác, Huyền đành "tiếp quản" "gia tài" của ả lừa đảo kia để lại. Mong gỡ lại chút tiền, thôi nghề bán bánh mỳ, Huyền đi bán sách. Huyền là người ham đọc, nên cứ nhập được đợt sách nào là cô đọc hết rồi mới bày ra bán.
Chính sở thích ấy mà một ngày cuối năm 2004, nhập đợt hàng mới, thấy cuốn Nhân Quả hấp dẫn, cô đã giữ lại và đọc rất say mê. Có lẽ, có giàu trí tưởng tượng đến mấy, Huyền cũng chẳng thể ngờ rằng, cuốn sách cô đang cầm trên tay lại chính là cuốn sách mà cha cô tặng khi cô lên đường đi học 4 năm về trước.
Tò mò muốn ngắm nghía trang bìa của cuốn sách quý nên Huyền đã bóc dần những lớp giấy bọc ấy để xem. Bóc hết lớp bọc thứ nhất, cô giật mình khi thấy kẹp giữa hai bìa sách là tấm chứng minh nhân dân có ảnh một cô gái rất giống mình. Và, càng ngạc nhiên hơn khi thấy cái tên Lâm Thị Thanh Huyền trên chứng minh nhân dân là một cái tên rất quen mà hình như cô đã thấy ở đâu đó mà cô không thể nào nhớ rõ.
Không rõ quá khứ nên Huyền đâu biết rằng, trước đây, khi ở Australia, bởi quý món quà cha tặng, cô đã cất giữ cuốn sách ấy rất cẩn thận, đi đâu cô cũng mang bên mình. Chứng minh nhân dân của cô, sợ rơi mất nên cô gài luôn vào giữa hai bìa cuốn sách. Không ai biết cuốn sách đã lưu lạc bao nhiêu nơi, qua bao nhiêu chủ và giờ, chẳng hiểu lẽ gì mà lại quay về với Huyền.
Sao ở trên đời lại có người giống nhau đến thế? Hay người trong chứng minh nhân dân lại chính là mình? Những câu hỏi ấy đã khiến cô để ý đến chữ Bang và số điện thoại đã mờ ghi trên gáy sách. Và, để giải tỏa sự tò mò của mình, Huyền bấm máy theo số điện thoại ấy.
Chuông đổ một hồi dài thì đầu dây bên kia có tiếng alô. "Thưa bác, đây có phải nhà bác Bang không ạ?". "Không phải, cô nhầm rồi!". Nói vừa dứt câu, đầu bên kia cúp máy đánh rụp. Thấy tiếng người phụ nữ ở đầu dây bên kia rất quen, nên Huyền đã kiên nhẫn bấm máy lần thứ hai. "Đã bảo không phải rồi mà, cô buồn cười thế nhỉ!". Vẫn một tiếng "rụp" cất lên khô khốc.


Lại nói chuyện ở quê nhà, sau nhiều lần viết thư không thấy con trả lời, bố mẹ Huyền đã nghi ngại về một chuyện chẳng lành đã đến với con mình. Quá sốt ruột, ông đã tìm số điện thoại của trường con mình học và điện thẳng sang. Câu trả lời "Huyền không còn học ở đây nữa, em đã chuyển đi đâu thì chúng tôi không được rõ!" của nhà trường làm ông bà Bảng rụng rời chân tay.
Sau một thời gian không thấy Huyền trở về, bạn bè cô đã gom đồ dùng, sách vở của Huyền để lại gửi một người đưa về Việt Nam cho gia đình. Và có lẽ do địa chỉ ghi không rõ ràng, nên số đồ dùng, sách vở đó đã không đến được gia đình ông Bảng.
Sau khi đã khóc lóc suốt mấy ngày ròng, mọi người trong gia đình đã mỗi người một hướng bằng mọi cách có thể để tìm tin tức của Huyền nhưng đều vô vọng. Lúc ấy, ông Bảng nghĩ mình đã chính thức mất con.
Vợ chồng ông Bảng.
Trở lại quê nhà

Từng bị bắt và giam giữ ở địa ngục trần gian Phú Quốc thời Mỹ, ngụy nên ông Bảng đam mê sưu tầm những kỷ vật của đồng đội thời chiến. Cuối năm 2004, ông cho xây ngay trong khu vườn, cạnh mấy gian phòng trưng bày kỷ vật đồng đội một ngôi đền nhỏ để ngày ngày hương khói cho những anh linh đã ngã xuống vì đất nước. Sau gần một tháng thi công, đền thờ liệt sĩ đã được khánh thành vào đúng ngày 26 Tết. Đó cũng chính là ngày Huyền gọi điện về nhà.
Bà Nguyễn Thị Lan, mẹ Huyền kể, hôm ấy, đang bận rộn bởi khách khứa nên cứ thấy một cô gái gọi điện hỏi nhà ông Bang, bà đã phát bực và nói nặng lời. Ngoài Hà Nội, Huyền cứ nằm ngắm nghía tấm ảnh "giống mình" trong chứng minh nhân dân ấy chẳng hiểu vì lẽ gì cô đã bấm máy lần thứ ba.
Đang tiếp khách ở ngoài sân, thấy chuông điện thoại lại đổ dài, mẹ Huyền làu bàu bảo: "Chắc lại điện thoại của con bé ấy, đã bảo không phải lại cứ hỏi mãi! Rõ bực!". Thấy vợ mình khó chịu, ông Bảng vội chạy lại nghe máy. Vừa nghe giọng cô gái, khuôn mặt ông đã tái mét vì ở đầu giây bên kia là một giọng nói rất quen. "A lô! Ai đấy!? A lô! A lô…".
Không chờ đầu dây bên kia trả lời, ông hấp tấp hỏi như người đang ở tận cùng hoảng loạn. "Dạ, thưa bác nhà bác có ai tên là Huyền không ạ!?". "Có, có! Ai đấy!? Huyền đấy à con!? Ôi, ba đây mà! Ba của con đây mà! Con không nhận ra ba sao!? Thế con đang ở đâu để ba lên đón con về!?".
Nghe cô gái nói nơi mình ở, ông Bảng đã vội vàng vơ chiếc áo rét gọi thêm vài người nữa rồi ào lên Hà Nội. Chạy xe một lèo đến nơi Huyền ở, ngách 18 phố Trương Định, ông Bảng mừng như điên dại và không tin vào mắt mình nữa bởi cô gái đang đứng trước mặt chính là Huyền, con gái của ông.
Thế nhưng, Huyền vẫn không nhận ra ông và vẫn gọi ông bằng bác như người xa lạ. Mất một lúc lâu, nghe ông Bảng kể lại quãng thời gian ngày trước, kể tỉ mỉ việc gia đình đã cho Huyền đi du học thế nào thì cô mới tin người đàn ông tóc bạc như cước ấy chính là cha mình. Ngay đêm đó, cô theo ông về lại quê nhà sau gần 4 năm xa cách.
Năm ấy, nhà ông Bảng đã có một cái Tết đáng nhớ nhất trong đời. Họ hàng, làng xóm lúc nào cũng đến kín nhà chúc mừng cho sự trở về lạ kỳ của cô gái con ông. Và, để giúp Huyền dần dần phục hồi trí nhớ, ai đến, ông cũng giới thiệu kỹ lưỡng với cô để cô biết đâu là anh, là em, là cô, dì, chú, bác của mình.
Huyền bây giờ đã có một mái ấm hạnh phúc. Cô mới xây dựng gia đình tháng 1/2006. Hiện đôi vợ chồng trẻ đang sống tại phòng 318/No 4B khu chung cư Linh Đàm, Hà Nội. Nhờ sự giúp đỡ tận tình của gia đình cũng như người chồng hiền lành, chu đáo, trí nhớ của Huyền cũng đã khôi phục nhiều. Tuy thế, vết thương ở đầu do tai nạn vẫn hành hạ cô mỗi khi trái gió trở trời. Những khi ấy, cô ôm đầu quằn quại như người điên dại.
Thế nhưng, có một điều lạ là những kiến thức Huyền đã được học thì cô lại nhớ lại rất nhanh và chính xác. Chính vậy mà hơn một năm nay, Huyền luôn có một khoản thu nhập ổn định nhờ nghề dạy học. Cô mở lớp dạy thêm ngay tại nhà và nơi đó đã là một địa chỉ tin cậy để nhiều học sinh tìm đến…
Cuốn sách Nhân Quả giờ ông Bảng giữ như báu vật đời mình. Ông bảo, nhờ nó mà con ông tìm được gia đình thế nên sau này trước khi qua đời, ông sẽ lại cẩn thận giao lại cuốn sách ấy cho Huyền cất giữ...
 
1,669
0
0

mesubim

New Member
Ðề: Luật Nhân Quả

TRANH NHÂN QUẢ

“Muốn biết nhân đời trước
Xem hưởng quả đời này
Muốn biết quả tương lai
Xét nhân gieo hiện tại
Người mà tâm chân chánh
Mọi người hướng thiện theo
Việc làm hợp lý lẽ
Khắp nơi được an vui
Người mà hư tâm tà
Tham sân dần phát triển
Làm việc mà tùy tiện
Tự rước họa vào thân”






Kiếp trước: Hiến vàng tô điểm Phật
Đời nay: Làm quan. Tại vì sao?






Kiếp trước: Xây cầu đắp đường làm lộ
Đời nay: Cởi ngựa ngồi kiệu








Kiếp trước: Dâng y cúng dường chư Tăng
Đời nay: Mặc gấm mặc lụa





Kiếp trước: Cơm gạo bố thí người nghèo
Đời nay: Có ăn, có mặc








Kiếp trước: Dâng gạo cúng chùa
Đời nay: Nhà cao lầu gác






Kiếp trước: Hoa tươi dâng cúng Phật
Đời nay: Mặt mày trang nghiêm, tại vì sao?








Kiếp trước: Tụng kinh niệm Phật
Đời nay: Thông minh trí tuệ








Kiếp trước: Tràng phan nghiêm cúng Phật
Đời nay: Vợ chồng hạnh phúc






Kiếp trước: Kính trọng người cô độc
Đời nay: Cha mẹ song toàn



 
1,669
0
0

mesubim

New Member
Ðề: Luật Nhân Quả




Kiếp trước: Mở chuồng phóng sinh thả chim
Đời nay: Đông con nhiều cháu









Kiếp trước: Hay phóng sinh thả cá
Đời nay: Sống lâu sống thọ









Kiếp trước: Khinh thường coi rẻ chồng
Đời nay: thành quả phụ









Kiếp trước: Hiến dầu đốt đèn Phật
Đời nay: Mắt sáng tâm cao




Kiếp trước: Chửi cha mắng mẹ
Đời nay: Câm ngọng. Tại vì sao?




Kiếp trước: Chê cười người lạy Phật
Đời nay: Chống gậy gù lưng








Kiếp trước: Thiếu nợ không trả
Đời nay: Làm kiếp trâu ngựa




Kiếp trước: Cúng dường Tam Bảo góp của phước điền
Đời nay: Không chức cũng giàu sang




Kiếp trước: Hiến thuốc cứu mạng người
Đời nay: Khỏe mạnh tại vì sao




Kiếp trước: Ác tâm hại người
Đời nay: Cô đơn khổ cực




Kiếp trước: Giảng kinh thuyết pháp
Đời nay: Công đức vô lượng




Kiếp trước: Hoa tươi cúng dâng Phật
Đời nay: Thêm đẹp đẽ dung nhan




Kiếp trước: Hiến vải giúp Tăng Ni
Đời nay: Không mặc gấm cũng mặc lụa




Kiếp trước: Cúng gạo cho chùa
Đời nay: Ở nhà cao cửa rộng




Kiếp trước: Cứu giúp người nghèo
Đời nay: Được phú quý hiển vinh




Kiếp trước: Phóng sinh bất sát
Đời nay: Con cháu đầy đàn




Kiếp trước: Xây cầu, đắp đường
Đời nay: Lên xe xuống ngựa




Kiếp trước: Kính lão cúng hiền
Đời nay: Phước huệ thọ toàn





Kiếp trước: Chỉ đường dẫn lối
Đời nay: Mọi người kính nể




Kiếp trước: Cúng dường chư tăng
Đời nay: Được vợ thảo dâu hiền




Kiếp trước: Thù ghét hạn người
Đời nay: Nuôi con không chóng lớn




Kiếp trước: Thông dâm vợ người
Đời nay: Suốt đời cô độc




Kiếp trước: Đời trước xem sách nhảm nhí
Đời nay: Đôi mắt mù lòa




Kiếp trước: Đâm thọc nhiều chuyện
Đời nay: Ói máu lênh láng




Kiếp trước: Phật Pháp không tin
Đời nay: Điếc đặc cả tai




Kiếp trước: Xử tệ, ngược đãi thú vật
Đời nay: Ghẻ mọc đầy người




Kiếp trước: Ganh ghét người tài giỏi
Đời nay: Thân hình hôi thối nực nóng




Kiếp trước: Làm chuyện dèm pha
Đời nay: Mang tật sứt môi miệng mình




Kiếp trước: Đánh cha, đập mẹ
Đời nay: Tay chân bị tật nguyền




Kiếp trước: Phá hoại cầu đường
Đời nay: Què chân, tật nguyền




Kiếp trước: Thản nhiên trước tai nạn kẻ khác
Đời nay: Suốt đời thường mang tật bệnh




Kiếp trước: Gạt người mù
Đời nay: Không làm chó cũng làm heo




Kiếp trước: Thấy nguy không cứu làm ngơ
Đời nay: Suốt đời ngồi tù thui thủi




Kiếp trước: Nói xấu kẻ khác
Đời nay: Lãnh quả bị thuốc chết




Kiếp trước: Khinh bỉ người giúp việc
Đời nay: Thân hình gù lưng xấu xí




Kiếp trước: Dành lợi mình để hại người khác
Đời nay: Lãnh nghiệp chết treo khổ đời




Kiếp trước: Cản người đi chùa, phỉ báng Phật giáo
Đời nay: Không bị sét thiên lôi thì bị lữa đốt

 
Top