Trong lễ cầu siêu cho bà Mộng Điệp, thứ phi của cựu hoàng Bảo Đại ngày 1/7 vừa qua, nhiều người bị thu hút bởi một bà cụ đã luống tuổi, đôi tay run run bưng sớ quỳ trước bàn thờ suốt hơn một giờ với vẻ mặt cung kính.
Nhà nghiên cứu Huế Nguyễn Đắc Xuân cho biết đó là bà Lê Thị Dinh, cháu ngoại của Quận Công Ưng Quyến (em trai ba vua Kiến Phúc, Hàm Nghi, Đồng Khánh) và cũng là người lo hương khói cho 5 vua triều Nguyễn đang được thờ tại phủ Kiên Thái Vương. Không riêng thờ vua, mỗi khi có người trong gia đình vua qua đời, bà Dinh đều tổ chức lễ cầu siêu theo đúng tục lệ cung đình xưa.
Bà Lê Thị Dinh dâng sớ trong lễ cầu siêu cho bà Mộng Điệp, thứ phi của cựu hoàng Bảo Đại hôm 1/7. Ảnh: Văn Nguyễn.
Ở Huế, Kiên Thái Vương là phủ duy nhất đặt áng thờ 5 vị vua triều Nguyễn. Để tiện cho việc nhang khói, bà Dinh cùng con trai dọn về ở hẳn trong phủ, tọa lạc tại số 179 đường Phan Đình Phùng, thành phố Huế. Công việc của bà lặng lẽ như chính những hương án của các vị vua thuộc triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam.
Dù đã bước sang tuổi 91 nhưng bà Dinh vẫn nhớ như in những ngày được vào cung phục vụ bà Thánh Cung Hoàng hậu, vợ vua Đồng Khánh và bà Hoàng Thái hậu Từ Cung, vợ của vua Khải Định, rồi chuyện bà được tận mắt chứng kiến đám tang cung đình…
Là con cháu hoàng tộc, năm lên 8 tuổi, đang học dở lớp 5 trường Đồng Khánh, bà Dinh được bà Thánh Cung gọi vào cung. Do chịu thương chịu khó nên bà Dinh được Thánh Cung yêu quý. Thời đó có hàng trăm cung nữ phục vụ, nhưng Thánh Cung không ưa mà thường sai bà Dinh làm bánh, hay giúp kẻ lông mi mỗi khi trang điểm. Mỗi tháng bà Dinh được triều đình trả 6 đồng tiền lương, quy ra mỗi đồng thời đó mua được 100 lon gạo.
Lên 15 tuổi, lần đầu tiên trong đời bà Dinh được chứng kiến tang lễ trong cung đình, tang lễ bà Thánh Cung. “Đám tang kéo dài trong một tháng theo nghi thức cung đình. Ngày nào Bộ Lễ cũng vào làm lễ. Đến giờ cơm đều có cúng cơm, cúng gạo”, bà Dinh kể.
Sau khi Thánh Cung qua đời, bà Dinh ở lại cung để phục vụ đức Từ Cung, vợ vua Khải Định. Là chân sai vặt nhưng biết ít chữ nghĩa, lại được Từ Cung tin tưởng nên thỉnh thoảng bà Dinh được sai viết thư hỏi thăm vua Bảo Đại mỗi khi vua đi chơi xa hay lần bị tai nạn khi đi săn ở Đà Lạt. Viết xong, bà Dinh đọc lại để bà Từ Cung duyệt rồi mới gửi đi.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, bà Dinh theo đức Từ Cung về ở cung An Định, rồi chuyển về nhà số 79B, nay đổi thành 147 Phan Đình Phùng, và chăm lo cho bà Hoàng Thái hậu này những ngày cuối đời. “Là người tốt nhưng do thời thế, ngày đức Từ Cung qua đời, con cháu đều đang lưu lạc nên không ai đến thắp cho bà nén hương”, giọng bà Dinh buồn buồn khi nhắc lại chuyện cũ.
Bà Dinh trước hương án vua Kiến Phúc. Ảnh: Văn Nguyễn.
Sau đó bà Dinh về ở hẳn phủ Kiên Thái Vương cùng con trai cả và gắn mình với việc lo hương khói cho 4 vua: Đồng Khánh, Kiến Phúc, Hàm Nghi và Khải Định, năm 1997 thì thêm áng thờ vua Bảo Đại.
“Khi qua đời bà Từ Cung không có dặn dò nhưng đã là phận con cháu hoàng tộc thì phải lo hương khói. Với lại con cháu, anh em đàng nội đều đi Tây cả, mình không lo thì để các vua lạnh lẽo sao được”, bà Dinh giải thích về việc hơn 30 năm nay đứng ra lo hương khói cho các vua.
Bà Dinh kể, thời vua Khải Định, con trưởng của vua Đồng Khánh, mỗi lần giỗ các vua hoặc ngày tết ở Thế miếu, Thái miếu, Triệu miếu và Hưng miếu thường tổ chức rất linh đình, việc chuẩn bị đồ cúng lễ kéo dài cả vài ba tháng. Mỗi miếu có 13 áng thờ, mỗi áng thờ phải có một con heo sữa một tháng tuổi và một mâm cúng với 20 phẩm vị.
Riêng ở phủ Kiên Thái Vương, đến ngày giỗ ba vua Đồng Khánh, Kiến Phúc và Hàm Nghi, vua Khải Định cùng các quan thượng thư và quan các bộ trong cung phải đi xe kéo đến phủ làm lễ. Lễ phẩm cúng cũng đầy đủ như cúng tại các miếu trong Hoàng thành. Đến thời vua Bảo Đại thì vua đi xe hơi đến phủ làm lễ. Cúng một vua thì phải đơm đồ cúng đủ phẩm vị cho các áng thờ vua còn lại, quy tắc đó vẫn được bà Dinh giữ đến giờ.
Ngày bà Dinh dọn về ở phủ Kiên Thái Vương, hương án các vua bụi, mạng nhện bám đầy. Bà vội quét dọn, lo lắng bởi thấy mình như có lỗi. Từ đó, mỗi sớm và khi chiều tà, bà đều ra thắp hương cho năm áng thờ, đến ngày giỗ các vua thì làm lễ cúng. “Mình phục vụ vì lòng kính mến nên việc hương khói mỗi ngày tuyệt đối không dám quên”, bà Dinh tâm sự. Nhiều khi đau ốm, bà vẫn gượng dậy ra thắp hương cho các vua rồi mới yên lòng vào trong nhà dưỡng bệnh.
Kêu con trai Nguyễn Như Trị lau bài vị cho các vua, bà Dinh bảo ngày trước còn khỏe thì đây là công việc của bà, nhưng nay lưng đã còng, bàn thờ đều đặt ở trên cao đến hết tầm tay với nên bà phải nhờ con trai giúp. “Nhà được hai đứa con thì con trai thứ sang Pháp lập nghiệp rồi mất luôn bên đó. Giờ tôi ở với con trai cả, được cái con cháu có hiếu lắm”, bà Dinh chia sẻ.
Bà Dinh đang thắp hương cho vua Bảo Đại (ảnh trước) và hoàng tử Bảo Long (ảnh sau). Ảnh: Văn Nguyễn.
Bà Dinh bảo trong 5 vị vua đang thờ tại phủ, bà thương nhất cựu hoàng Bảo Đại. Ông vẫn có tiếng là ham chơi, mê sắc đẹp nhưng cuối đời lại phải sống trong sự cô đơn nơi đất khách. Cũng chính vì thương ông mà bà Dinh đứng ra lo liệu việc hương khói cho vua, hoàng tử Bảo Long và mới đây là thứ phi Mộng Điệp.
Mỗi lần tổ chức lễ giỗ cho các vua, bà đều mời con cháu của dòng họ Nguyễn Phước đến dự, rồi mâm cỗ thịnh soạn. Số tiền để lo công việc chủ yếu nhờ đến con cháu vua Bảo Đại ở bên Pháp gửi về và bốn đứa cháu nội của bà Dinh.
Cuộc đời bà Dinh không mấy suôn sẻ. Lấy chồng cũng là một người phục vụ trong triều đình nhà Nguyễn, khi cách mạng Tháng Tám thành công, chồng bà Dinh theo cách mạng rồi tập kết ra Bắc. 30 năm sau ông đưa hai người con về và nói đó là con với bà vợ hai. Bà Dinh buồn lắm.
Sống ly thân nhưng cái tình vợ chồng như đã ngấm vào máu bà. Nay dù bước chân đã chậm nhưng cứ tuần một lần, bà lại nấu cơm mang sang cho ông ở đàn tế Xã tắc trong kinh thành. Mỗi lần đi qua cửa Ngọ Môn, bà ngước mắt nhìn, khẽ cúi đầu chào như để tưởng nhớ đến triều đại phong kiến cuối cùng của dòng tộc mình.
Đứng bên áng thờ các vua, bà Dinh nói về tâm nguyện của mình: “Ngày nào tui cũng dặn con trai rằng nếu một ngày mẹ về với thế giới của người hiền, con hãy thay mẹ lo hương khói cho các vua, để các ngài khỏi lạnh lẽo!”.
Nhà nghiên cứu Huế Nguyễn Đắc Xuân nhận xét tấm lòng của bà Lê Thị Dinh thật đáng quý. Bà là một trong số ít những người phục vụ trong cung đình, đặc biệt là lo liệu cho bà Từ Cung cho đến những ngày cuối đời. "Nhờ bà mà áng thờ của năm vị vua ở phủ Kiên Thái Vương lúc nào cũng được hương khói đầy đủ”, ông Xuân nói.
Người cung nữ cuối cùng trong lịch sử phong kiến Việt Nam
(Nguoiduatin.vn) - "Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời", câu thành ngữ Việt Nam này càng ngẫm càng thấy đúng khi ứng với trường hợp của bà Lê Thị Dinh (ngụ số 179, Phan Đình Phùng, TP Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế).
Dòng họ từng có 5 người làm vua, làm "thiên tử thay Trời trị dân" nay chỉ còn một mình bà lo hương khói cúng giỗ cho 5 ông vua hàng năm. Cứ sắp đến ngày giỗ bà lại đau đầu với câu hỏi: "Lấy đâu tiền giỗ vua cho đàng hoàng".
"Cuốn sử sống" triều Nguyễn
Trong quần thể di tích cố đô Huế có một phủ thờ rất đặc biệt: Đây là nơi duy nhất bên ngoài Đại nội Huế thờ tự 5 vị vua triều Nguyễn. Đặc biệt hơn khi biết rằng toàn bộ con cháu triều đại phong kiến cuối cùng Việt Nam chỉ còn lại duy nhất một người cháu ngoại chăm lo hương khói cho tổ tiên. Bà là Lê Thị Dinh, sống trong phủ Kiên Thái Vương (179, Phan Đình Phùng), bà là cháu ngoại của Quận công ưng Quyên - con út của Kiên Thái Vương. Tuổi ngoài chín mươi nhưng bà Dinh vẫn lặng lẽ với công việc quét dọn phủ thờ mỗi ngày, nhớ đau đáu ngày kị từng vị vua để thực hiện bổn phận hậu sinh.
Mở cánh cửa sổ nhìn sang cung An Định (nơi vua Bảo Đại, Đức Từ Cung từng sống), bà nhớ lại quá khứ mà theo bà "nếu không kể bây chừ biết khi mô mới kể": "Năm 8 tuổi tui đang học ở trường Đồng Khánh (nay là trường Hai Bà Trưng) thì bố mẹ đưa tôi vào cung theo lệnh vua. Ngày ấy sợ lắm chứ vì biết sống trong cung sung sướng nhưng không được tự do, nếu không may vi phạm phép tắc bị phạt rất nghiêm. Nhưng không đi không được, thế là tui bỏ học vô cung làm cung nữ".
Thấy khách tò mò, bà Dinh nở nụ cười vui vẻ tuổi già mà giải thích: "Cung nữ trong cung có hai loại, một là kẻ thường dân vào cung phục vụ quan lại, làm các việc nặng nhọc; thứ hai là con cháu hoàng tộc chuyên hầu hạ nhà vua, hoàng hậu... Tui may mắn được làm cung nữ loại thứ hai, chuyên hầu hạ Thánh Cung (bà nội vua Bảo Đại) và Đức Từ Cung (mẹ nhà vua). Hồi đó còn nhỏ nhưng mỗi tháng tui cũng được nhận lương 6 đồng, tiêu xài thoải mái còn dư hơn 3 đồng, có thể mua được 100 lon gạo lúc đó".
Cuộc đời cung nữ đồng nghĩa với việc bị đánh mất tuổi thơ. Bà kể mỗi ngày "trăm thứ bà rằn", từ học đi, học ngồi, học làm các loại bánh, mứt chứ không được rong chơi như các thiễu nữ cùng độ tuổi bên ngoài. "Không được nói không biết, việc chi không biết sẽ có người dạy", bà Dinh nhớ lời Đức Từ Cung căn dặn ngày mới nhập cung.
Không chỉ đảm đang nội trợ, bà Dinh còn am hiểu khá rành mạch nghi lễ trong cung. Bà dẫn chứng: "Trong cung có hàng trăm nghi lễ cúng tế nhưng lớn nhất là lễ Vạn thọ tức là lễ sinh nhật vua. Sáng sớm nhà Vua phải thắp nhang làm lễ tất cả các miếu thờ chính trong cung, sau đó mới đến lễ chúc thọ của Thượng thư bộ lại, Tham tri Thị lang, lục bộ ở điện Thái Hòa. Nếu ai muốn dâng hoa quả lên nhà vua phải đưa cho Hoàng Thái Hậu, Hoàng Hậu chứ không được đưa trực tiếp".
Chứng nhân lịch sử hiếm có
Nhắc đến vị hoàng đế cuối cùng ở Việt Nam, bà Dinh có vẻ rất tường tận: "Ông Bảo Đại sang Pháp học mười năm nên khi về ông sống rất kì quặc, ông cho mở trường đua ngựa, sân tennis, mở cả sân gofl dưới Dạ Lê (nay là Thị xã Hương Thủy, Thừa Thiên - Huế). May mà có cụ Lê Như Lâm đi kèm dạy Nho đạo còn không có giời mới biết ông bày thêm trò chi nữa".
Bà Lê Thị Dinh
Mặc dù không được học nhiều nhưng cung nữ Lê Thị Dinh tự nhận mình thông minh, nhanh nhẹn. Quả đúng như vậy, bà lão tuổi 91 đối diện tôi tỏ ra rành mạch chuyện chính trị chốn cung đình: "Đến thời vua Bảo Đại, ông ấy chỉ thích chơi chứ không màng lắm đến chính trị. Thế nên người Tây (thực dân Pháp đô hộ khi đó - PV) không sợ Bảo Đại mà nể và né tránh Thánh Cung vì một mình bà chăm lo triều chính rất chu toàn. Đưa Khải Định, Bảo Đại lên ngôi đều do Thánh Cung sắp xếp cả".
Ít ai biết rằng cung nữ Lê Thị Dinh ngày ấy là một trong những người hiếm hoi chứng kiến lễ thoái vị của vua Bảo Đại ngày 30/8/1945. Bà kể lại: "Trên lầu Ngọ Môn, cụ Phạm Khắc Hòe đứng ra làm lễ, sau đó vua Bảo Đại đọc bản thoái vị và trao ấn kiếm cho đại diện của Chính phủ Cách mạng lâm thời. Trước khi trao ấn kiếm, ngài Bảo Đại có thỉnh cầu chính quyền cách mạng giữ lại nguyên vẹn các lăng tẩm. Cụ Hòe nhận lời và tỏ ra cảm thông cho vua Bảo Đại lắm".
Kể đến đây, gương mặt cụ Dinh rạng rỡ hẳn. Bà nói rất vui khi nghe tin cách mạng đánh thắng Pháp giành lại chủ quyền dân tộc: "Sống phải tự do chứ bị chúng nó (thực dân Pháp thời đó - PV) o ép cực khổ lắm, sống trong cung tui biết chứ, việc chính trị gì của mình chúng đều xen vào, gây sức ép. Có mấy cung nữ thấy người Tây sợ lắm, chạy trốn như ma đuổi. Tôi nói chúng sang đô hộ thì mình phải tìm cách chống lại chứ các cô sao phải sợ".
Tấm lòng cháu ngoại
Kể về việc nhang khói tổ tiên ở phủ Kiên Thái Vương, nơi đặồt án thờ Kiên Thái Vương cùng năm vị hoàng đế Triều Nguyễn: Khải Định, Đồng Khánh, Kiến Phúc, Hàm Nghi, Bảo Đại, cụ Dinh giãi bày: "Con cháu không còn ai hết. Bên nội các vua sang nước ngoài hết rồi; đằng ngoại còn có mình tui thôi, bổn phận tui phải làm, đó cũng là việc nên làm mà".
Vì sao phủ Kiên Thái Vương lại nằm ngoài Đại nội?
Kiên Thái Vương là em vua Tự Đức, trong bốn người con trai của ông có đến 3 người làm vua là: Đồng Khánh, Kiến Phúc, Hàm Nghi. Do Kiên Thái Vương không phải là vua nên không thể thờ tự trong Đại Nội Huế mà phải thờ bên ngoài hoàng cung.
Theo lời cụ, sau khi Đức Từ Cung qua đời năm 1981, bà cùng người con trai duy nhất là ông Nguyễn Như Trị chuyển về sinh sống hẳn trong phủ Kiên Thái Vương nhằm tiện bề chăm nom bàn thờ tổ tiên: "Ngày mẹ con tui mới chuyển về phủ buồn heo hút lắm, nhà rộng thênh thang nhưng chỉ để nhện giăng tơ, bụi bẩn bám khắp nơi, thấy mà chạnh lòng". Kể từ đó, với tâm nguyện của mình, hằng ngày cụ Dinh đều lên quét dọn bàn thờ tổ tiên mỗi sáng sớm.
Dẫn khách tham tham quan phủ Kiên Thái Vương, cụ Dinh chậm rãi giới thiệu về cuộc đời, tính cách từng vị vua một chẳng khác nào một hướng dẫn viên du lịch chuyên nghiệp. Dừng chân trước bài vị vua Hàm Nghi, cụ Dinh rưng rưng: "Ông Hàm Nghi vậy mà đáng thương. Muốn chống Pháp nhưng lực không có nên phải chịu khổ. Ngày ông ấy bị giặc Pháp đưa đi đày, mọi người đứng nhìn theo ông rưng rưng nước mắt".
Ở tuổi 91 nhưng bà Dinh vẫn có một trí nhớ siêu phàm, thuộc nằm lòng ngày kị từng vị vua một, nhớ những ngày lễ trọng đại trong hoàng cung xưa kia. Bà bộc bạch cảm thấy có lỗi với tổ tiên khi không thể chu toàn việc cúng kị dù bà đã cố gắng hết sức. "Tuổi già rồi không buôn bán được nên làm chi có tiền làm cúng giỗ các vua cho đầy đủ, thịnh soạn. Nhờ khuôn viên rộng nên tui cho người ta thuê vườn đằng sau nhà, lấy tiền lo việc cúng kị đạm bạc hằng năm".
Bà Dinh kể, thời vua Khải Định (con trưởng của vua Đồng Khánh), mỗi lần giỗ các vua, người ta buộc phải tổ chức rất linh đình. "Việc chuẩn bị đồ cúng lễ kéo dài cả vài ba tháng. Mỗi miếu có 13 bàn thờ, mỗi bàn thờ phải có một con heo sữa một tháng tuổi và một mâm cúng với 20 phẩm vị". Nhớ lại quá khứ "hoành tráng", giọng bà trầm buồn, có lẽ vì nuối tiếc, chạnh lòng khi so sánh với những mâm cơm cúng vua ngày nay.