ALnML
Super Moderator
Những mối tình không thể chia ly
Người trong cuộc của những mối tình ấy, khi chúng tôi thực hiện loạt bài này, một số đã tìm được lại nhau và chung hưởng hạnh phúc, nhưng cũng có người đang phải sống cảnh cô đơn – theo đúng nghĩa đen của từ này. Người tình của họ, vì nhiều lý do, đã không thể cùng họ “vầy cuộc trăm năm” nhưng dẫu chỉ còn lại một mình thì trong tim họ, tình yêu và người yêu mà họ đã có luôn là tình yêu lớn, lớn đến mức họ có thể sống chỉ một mình với kỷ niệm của tình yêu ấy suốt những tháng năm dài đằng đẵng. Với những mối tình tưởng chỉ có trong cổ tích mà chúng tôi may mắn được biết, người trong cuộc, với cuộc sống của chính họ, đã chứng minh thật rõ ràng sức mạnh của tình yêu có thể khiến con người ta trở nên mạnh mẽ và cao thượng đến không ngờ...
Bài 1: “Dù em chỉ còn da bọc xương cũng ráng sống để trở về với anh”
Đó là câu nhắn nhủ của anh, người yêu, người chồng chưa một lần chung chăn gối, mà chị ghi khắc trong tim xuyên suốt những năm tháng đen tối, nghiệt ngã của chiến tranh và lao tù cho tới tận bây giờ, khi đã tóc bạc, da mồi. Đó cũng là động lực mãnh liệt để chị sống, cống hiến và một mình đi tiếp đoạn đường còn lại của cuộc đời mà không có anh bên cạnh.
15 năm trước, tôi đến tìm chị vào một ngày cuối năm lạnh buốt. Tiếp tôi trong căn phòng khách của ngôi nhà nhỏ tại Đà Lạt, chị Cao Thị Quế Hương – một chiến sĩ cách mạng, vợ của liệt sĩ Nguyễn Ngọc Phương – nguyên uỷ viên thường vụ Thành Đoàn Sài Gòn thời chống Mỹ – siết nhẹ chiếc khăn choàng trên cổ, đôi mắt u buồn nhìn xa bên ngoài cửa sổ. Dưới tầm mắt nhìn của chị là một thung lũng mộng mơ xen lẫn sương mù, những mái nhà lô xô, những sắc hoa… Chị cúi xuống bên quyển album đã cũ. Từng bức ảnh được lật qua. Đôi mắt chị dừng lại rất lâu nơi bức chân dung thời thiếu nữ ở trường Đồng Khánh (Huế). Ngày ấy, chị mặc chiếc áo dài trắng thắt eo, gương mặt trẻ trung thanh khiết dưới vành nón lá. Rồi những bức ảnh chị tham gia múa hát, hội thảo cùng các bạn ở Sài Gòn… Chị Quế Hương kể về những ngày sôi động ấy…
Chị chưa bao giờ nghĩ mình sẽ bước vào con đường hoạt động chính trị cho tới khi xảy ra biến cố năm 1963 khiến chính quyền Diệm bị đảo chính. Âm thanh vang dội của đoàn biểu tình giới Phật tử đi qua cầu Tràng Tiền vọng đến tai chị. Chị tham gia hội thảo ở chùa Từ Đàm do sinh viên tổ chức với nội dung chống lại chế độ độc tài Ngô Đình Diệm, chống đàn áp Phật giáo và đến với những hoạt động sinh viên. Hết mùa hè năm 1963, chị theo khoa triết của đại học Sư phạm Đà Lạt vào Sài Gòn, vừa tham gia hoạt động phong trào sinh viên Phật tử. Trong khoảng thời gian này, chị đã gặp rất nhiều sinh viên nồng nhiệt cách mạng và được gặp anh, Nguyễn Ngọc Phương, người mà chị sẽ yêu suốt cả cuộc đời.
Anh Nguyễn Ngọc Phương là một sinh viên y khoa, hoạt động phong trào học sinh sinh viên. Sát cánh cùng anh Phương, chị tham gia phong trào đòi tự trị đại học, hội thảo, những buổi biểu diễn văn nghệ mang đậm màu sắc dân tộc, phong trào bảo vệ nhân phẩm phụ nữ. Cuộc hội thảo tại đại học Y khoa với nội dung chống Mỹ, đòi hoà bình, đòi tự trị đại học, đòi được dạy bằng tiếng Việt và cuộc tranh cử giữa ban đại diện trường đại học Văn khoa và ban đại diện phe liên trường phục hưng miền Nam chống cộng đã diễn ra gay gắt, quyết liệt. Cuộc hội thảo này đã bị đàn áp mãnh liệt.
Chị là nhân chứng của vụ đàn áp ấy: “Hơn 100 sinh viên bị bắt trong hội trường đầy khói bụi, lựu đạn cay. Sau đó, hơn mười người tiếp tục bị giữ lại, số khác được thả ra”. Chị về Cần Thơ dạy học. Tháng 5.1968, tổ chức gọi chị về Sài Gòn, giao nhiệm vụ mới. Chị gặp lại anh Nguyễn Ngọc Phương. Và tình yêu ập đến với hai người, như định mệnh…
***
Ngày cuối năm buốt lạnh tôi gặp chị ở Đà Lạt, những ký ức về anh vẫn còn nguyên vẹn trong chị. Chị như nhìn thấy anh công bố liên minh Hoà bình – dân tộc – dân chủ của sinh viên học sinh Sài Gòn – Gia Định. Anh phân công chị viết bài cho hoạt động báo chí của sinh viên. Rồi lần chị cùng anh về căn cứ ở Bến Tre đụng trận càn của giặc. Mọi người đều phải xuống hầm bí mật. Nắp hầm hư, anh là người xuống hầm cuối cùng…
Cùng hoạt động trong phong trào học sinh sinh viên, anh Nguyễn Ngọc Phương (Ba Triết) và chị Quế Hương đã có những năm tháng đối mặt với hiểm nguy, những tình huống ngặt nghèo, sống chết trong gang tấc. Vẻ đẹp mong manh, bí ẩn, sức mạnh từ bên trong của chị có sức lôi cuốn anh mãnh liệt.
Năm 1970, chị bị bắt. Hầu hết các anh chị hoạt động trong phong trào cũng bị sa lưới mật vụ như Dương Văn Đầy, Huỳnh Tấn Mẫm, Nguyễn Ngọc Phương… Chị bị đưa về cảnh sát quận 1 khai thác rồi đưa đến nhà tù Thủ Đức. Bị đánh đập tàn nhẫn, lúc ra toà, chị không tự đi được mà phải có người khiêng đi. Hình ảnh cô gái bị đoạ đày, hành hạ ấy là nhân chứng sống động, khiến nhiều người tham dự phiên toà xử những người yêu nước hôm ấy xúc động mãnh liệt. Trước sức ép của công luận, chị được tạm tha.
Với anh Phương và chị Hương, có lẽ bao nhiêu năm yêu nhau là bấy nhiêu năm anh chị đối mặt với xa cách, với lao tù. Nhưng thật kỳ lạ là trước những trở ngại ấy, chị và anh như càng hiểu rõ nhau hơn, càng thấy không thể sống thiếu nhau nên sau khi ra tù, chị và anh quyết định báo cáo với tổ chức và gia đình về tình yêu của mình. Chưa kịp làm đám cưới, ngày 5.3.1970, anh chị bị bắt trở lại. Cho đến giờ, những âm thanh xót lòng vang ra từ căn phòng tra tấn anh ngày đó vẫn thường dội về, rõ mồn một bên tai chị… Anh chị quyết định làm đám cưới trong tù. Họ trao nhẫn cho nhau, lễ cưới đơn sơ chốn lao tù vẫn có bánh, có hoa nhưng không có đêm động phòng... Năm 1973, anh Phương hy sinh. Còn chị, từ trại giam ở nha cảnh sát Đô Thành chuyển qua Thủ Đức rồi từ nhà lao Thủ Đức đến nhà lao Tân Hiệp…
Người phụ nữ ấy, sau hoà bình, tiếp tục làm việc ở các nông trường với không ít thử thách khắc nghiệt của cuộc sống những ngày đầu đất nước được giải phóng. Cũng chính trong những ngày ấy, chị càng hay nhớ về quá khứ, nhớ bạn bè, đồng đội. Năm 1978, chị trở về Đà Lạt, lặng lẽ sống với mẹ và ký ức. Trong căn phòng nhỏ của chị, những kỷ vật một thời được chị trân quý giữ gìn: những bức ảnh bạn bè cũ kỹ, ố vàng, những chiếc áo lạnh, khăn len… chị đan những ngày còn trong tù.
***
Sau 15 năm, tôi lại tìm đến ngôi nhà nhỏ của chị. Lần này là để tìm người cho buổi giao lưu “Những mối tình không thể chia ly” do bảo tàng Phụ nữ Nam bộ tổ chức. Vẫn ngôi nhà ấy, vẫn khung cửa sổ năm nào, chỉ có chị là như bé nhỏ, mong manh hơn. Lần này, ngoài những kỷ vật liên quan đến anh – vốn còn nguyên vẹn bất chấp thời gian do chị giữ gìn hết sức cẩn thận, ngoài những lá thư của anh được chị nâng niu, sắp xếp theo ngày tháng, còn có thêm quyển tiểu thuyết Thuyền của nhà văn Quỳnh Dao, do anh Phương dịch. Ôm quyển tiểu thuyết trong lòng, chị nghẹn giọng: “Cả hai cùng bị bắt, cùng bị tra tấn, thấy tôi ốm yếu, anh cứ nói hoài: “Dù em chỉ còn có da bọc xương cũng ráng sống mà trở về với anh”, vậy mà người không trở về lại không phải là tôi…”
Với chị, thời gian dường như đã ngừng lại, vĩnh viễn, vào ngày 5.1.1973 – ngày anh Phương hy sinh. Chị nói tình yêu của anh lớn đến nỗi chị hạnh phúc khi sống cùng anh trong tâm tưởng, với những kỷ niệm một thời hoa lửa sôi động và đẹp đẽ. Chị chấp nhận sống một mình và hạnh phúc với nỗi nhớ anh, vì như chị nói, chỉ cần nhớ anh, nghĩ về anh là chị lại thấy mình còn sức để sống đàng hoàng giữa cuộc sống bộn bề này.
Trầm Hương
http://sgtt.vn/Thoi-su/152459/Bai-1-“Du-em-chi-con-da-boc-xuong-cung-rang-song-de-tro-ve-voi-anh”.html