Những mối tình không thể chia ly

10,253
30
48

ALnML

Super Moderator
Những mối tình không thể chia ly


Người trong cuộc của những mối tình ấy, khi chúng tôi thực hiện loạt bài này, một số đã tìm được lại nhau và chung hưởng hạnh phúc, nhưng cũng có người đang phải sống cảnh cô đơn – theo đúng nghĩa đen của từ này. Người tình của họ, vì nhiều lý do, đã không thể cùng họ “vầy cuộc trăm năm” nhưng dẫu chỉ còn lại một mình thì trong tim họ, tình yêu và người yêu mà họ đã có luôn là tình yêu lớn, lớn đến mức họ có thể sống chỉ một mình với kỷ niệm của tình yêu ấy suốt những tháng năm dài đằng đẵng. Với những mối tình tưởng chỉ có trong cổ tích mà chúng tôi may mắn được biết, người trong cuộc, với cuộc sống của chính họ, đã chứng minh thật rõ ràng sức mạnh của tình yêu có thể khiến con người ta trở nên mạnh mẽ và cao thượng đến không ngờ...


Bài 1: “Dù em chỉ còn da bọc xương cũng ráng sống để trở về với anh”


Đó là câu nhắn nhủ của anh, người yêu, người chồng chưa một lần chung chăn gối, mà chị ghi khắc trong tim xuyên suốt những năm tháng đen tối, nghiệt ngã của chiến tranh và lao tù cho tới tận bây giờ, khi đã tóc bạc, da mồi. Đó cũng là động lực mãnh liệt để chị sống, cống hiến và một mình đi tiếp đoạn đường còn lại của cuộc đời mà không có anh bên cạnh.


Chị Cao Thị Quế Hương thời là nữ sinh Đồng Khánh. Ảnh: TL
15 năm trước, tôi đến tìm chị vào một ngày cuối năm lạnh buốt. Tiếp tôi trong căn phòng khách của ngôi nhà nhỏ tại Đà Lạt, chị Cao Thị Quế Hương – một chiến sĩ cách mạng, vợ của liệt sĩ Nguyễn Ngọc Phương – nguyên uỷ viên thường vụ Thành Đoàn Sài Gòn thời chống Mỹ – siết nhẹ chiếc khăn choàng trên cổ, đôi mắt u buồn nhìn xa bên ngoài cửa sổ. Dưới tầm mắt nhìn của chị là một thung lũng mộng mơ xen lẫn sương mù, những mái nhà lô xô, những sắc hoa… Chị cúi xuống bên quyển album đã cũ. Từng bức ảnh được lật qua. Đôi mắt chị dừng lại rất lâu nơi bức chân dung thời thiếu nữ ở trường Đồng Khánh (Huế). Ngày ấy, chị mặc chiếc áo dài trắng thắt eo, gương mặt trẻ trung thanh khiết dưới vành nón lá. Rồi những bức ảnh chị tham gia múa hát, hội thảo cùng các bạn ở Sài Gòn… Chị Quế Hương kể về những ngày sôi động ấy…

Chị chưa bao giờ nghĩ mình sẽ bước vào con đường hoạt động chính trị cho tới khi xảy ra biến cố năm 1963 khiến chính quyền Diệm bị đảo chính. Âm thanh vang dội của đoàn biểu tình giới Phật tử đi qua cầu Tràng Tiền vọng đến tai chị. Chị tham gia hội thảo ở chùa Từ Đàm do sinh viên tổ chức với nội dung chống lại chế độ độc tài Ngô Đình Diệm, chống đàn áp Phật giáo và đến với những hoạt động sinh viên. Hết mùa hè năm 1963, chị theo khoa triết của đại học Sư phạm Đà Lạt vào Sài Gòn, vừa tham gia hoạt động phong trào sinh viên Phật tử. Trong khoảng thời gian này, chị đã gặp rất nhiều sinh viên nồng nhiệt cách mạng và được gặp anh, Nguyễn Ngọc Phương, người mà chị sẽ yêu suốt cả cuộc đời.
Anh Nguyễn Ngọc Phương là một sinh viên y khoa, hoạt động phong trào học sinh sinh viên. Sát cánh cùng anh Phương, chị tham gia phong trào đòi tự trị đại học, hội thảo, những buổi biểu diễn văn nghệ mang đậm màu sắc dân tộc, phong trào bảo vệ nhân phẩm phụ nữ. Cuộc hội thảo tại đại học Y khoa với nội dung chống Mỹ, đòi hoà bình, đòi tự trị đại học, đòi được dạy bằng tiếng Việt và cuộc tranh cử giữa ban đại diện trường đại học Văn khoa và ban đại diện phe liên trường phục hưng miền Nam chống cộng đã diễn ra gay gắt, quyết liệt. Cuộc hội thảo này đã bị đàn áp mãnh liệt.

Chị là nhân chứng của vụ đàn áp ấy: “Hơn 100 sinh viên bị bắt trong hội trường đầy khói bụi, lựu đạn cay. Sau đó, hơn mười người tiếp tục bị giữ lại, số khác được thả ra”. Chị về Cần Thơ dạy học. Tháng 5.1968, tổ chức gọi chị về Sài Gòn, giao nhiệm vụ mới. Chị gặp lại anh Nguyễn Ngọc Phương. Và tình yêu ập đến với hai người, như định mệnh…

***

Ngày cuối năm buốt lạnh tôi gặp chị ở Đà Lạt, những ký ức về anh vẫn còn nguyên vẹn trong chị. Chị như nhìn thấy anh công bố liên minh Hoà bình – dân tộc – dân chủ của sinh viên học sinh Sài Gòn – Gia Định. Anh phân công chị viết bài cho hoạt động báo chí của sinh viên. Rồi lần chị cùng anh về căn cứ ở Bến Tre đụng trận càn của giặc. Mọi người đều phải xuống hầm bí mật. Nắp hầm hư, anh là người xuống hầm cuối cùng…

Cùng hoạt động trong phong trào học sinh sinh viên, anh Nguyễn Ngọc Phương (Ba Triết) và chị Quế Hương đã có những năm tháng đối mặt với hiểm nguy, những tình huống ngặt nghèo, sống chết trong gang tấc. Vẻ đẹp mong manh, bí ẩn, sức mạnh từ bên trong của chị có sức lôi cuốn anh mãnh liệt.



Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Phương. Ảnh: TL


Năm 1970, chị bị bắt. Hầu hết các anh chị hoạt động trong phong trào cũng bị sa lưới mật vụ như Dương Văn Đầy, Huỳnh Tấn Mẫm, Nguyễn Ngọc Phương… Chị bị đưa về cảnh sát quận 1 khai thác rồi đưa đến nhà tù Thủ Đức. Bị đánh đập tàn nhẫn, lúc ra toà, chị không tự đi được mà phải có người khiêng đi. Hình ảnh cô gái bị đoạ đày, hành hạ ấy là nhân chứng sống động, khiến nhiều người tham dự phiên toà xử những người yêu nước hôm ấy xúc động mãnh liệt. Trước sức ép của công luận, chị được tạm tha.


Với anh Phương và chị Hương, có lẽ bao nhiêu năm yêu nhau là bấy nhiêu năm anh chị đối mặt với xa cách, với lao tù. Nhưng thật kỳ lạ là trước những trở ngại ấy, chị và anh như càng hiểu rõ nhau hơn, càng thấy không thể sống thiếu nhau nên sau khi ra tù, chị và anh quyết định báo cáo với tổ chức và gia đình về tình yêu của mình. Chưa kịp làm đám cưới, ngày 5.3.1970, anh chị bị bắt trở lại. Cho đến giờ, những âm thanh xót lòng vang ra từ căn phòng tra tấn anh ngày đó vẫn thường dội về, rõ mồn một bên tai chị… Anh chị quyết định làm đám cưới trong tù. Họ trao nhẫn cho nhau, lễ cưới đơn sơ chốn lao tù vẫn có bánh, có hoa nhưng không có đêm động phòng... Năm 1973, anh Phương hy sinh. Còn chị, từ trại giam ở nha cảnh sát Đô Thành chuyển qua Thủ Đức rồi từ nhà lao Thủ Đức đến nhà lao Tân Hiệp…


Người phụ nữ ấy, sau hoà bình, tiếp tục làm việc ở các nông trường với không ít thử thách khắc nghiệt của cuộc sống những ngày đầu đất nước được giải phóng. Cũng chính trong những ngày ấy, chị càng hay nhớ về quá khứ, nhớ bạn bè, đồng đội. Năm 1978, chị trở về Đà Lạt, lặng lẽ sống với mẹ và ký ức. Trong căn phòng nhỏ của chị, những kỷ vật một thời được chị trân quý giữ gìn: những bức ảnh bạn bè cũ kỹ, ố vàng, những chiếc áo lạnh, khăn len… chị đan những ngày còn trong tù.

***

Sau 15 năm, tôi lại tìm đến ngôi nhà nhỏ của chị. Lần này là để tìm người cho buổi giao lưu “Những mối tình không thể chia ly” do bảo tàng Phụ nữ Nam bộ tổ chức. Vẫn ngôi nhà ấy, vẫn khung cửa sổ năm nào, chỉ có chị là như bé nhỏ, mong manh hơn. Lần này, ngoài những kỷ vật liên quan đến anh – vốn còn nguyên vẹn bất chấp thời gian do chị giữ gìn hết sức cẩn thận, ngoài những lá thư của anh được chị nâng niu, sắp xếp theo ngày tháng, còn có thêm quyển tiểu thuyết Thuyền của nhà văn Quỳnh Dao, do anh Phương dịch. Ôm quyển tiểu thuyết trong lòng, chị nghẹn giọng: “Cả hai cùng bị bắt, cùng bị tra tấn, thấy tôi ốm yếu, anh cứ nói hoài: “Dù em chỉ còn có da bọc xương cũng ráng sống mà trở về với anh”, vậy mà người không trở về lại không phải là tôi…”

Với chị, thời gian dường như đã ngừng lại, vĩnh viễn, vào ngày 5.1.1973 – ngày anh Phương hy sinh. Chị nói tình yêu của anh lớn đến nỗi chị hạnh phúc khi sống cùng anh trong tâm tưởng, với những kỷ niệm một thời hoa lửa sôi động và đẹp đẽ. Chị chấp nhận sống một mình và hạnh phúc với nỗi nhớ anh, vì như chị nói, chỉ cần nhớ anh, nghĩ về anh là chị lại thấy mình còn sức để sống đàng hoàng giữa cuộc sống bộn bề này.

Trầm Hương

http://sgtt.vn/Thoi-su/152459/Bai-1-“Du-em-chi-con-da-boc-xuong-cung-rang-song-de-tro-ve-voi-anh”.html
 
10,253
30
48

ALnML

Super Moderator
Ðề: Những mối tình không thể chia ly

Bài 2: Vẫn đợi chờ nhau trong tuyệt vọng

SGTT.VN - Chỉ có ông mới biết trái tim ông đã thuộc về một người. Bặt tin nhau suốt 12 năm nhưng chưa khi nào ông quên hình ảnh cô gái nhỏ nhắn có làn tóc mây dài óng mượt cùng đôi mắt to đen ngấn nước. Ngày chia tay, hai người chỉ nhìn nhau, không một lời hứa hẹn nhưng đôi mắt như chứa đựng bao lời của cô cứ ám ảnh ông. Đôi mắt ấy đã không ít lần giúp ông vững vàng, tỉnh táo trước nhiều thử thách...

Sống mực thước đến nỗi bị nghi ngờ


Ông bà Trịnh Hoài Châu – Đỗ Thị Nga (năm 2011). Ảnh: TH

Nhờ vỏ bọc gia đình một tư sản, có người mẹ kết thân với nhiều tướng lĩnh chính quyền Sài Gòn, cha là chủ hiệu thuốc đông y nổi tiếng, bản thân đã qua trường đào tạo sĩ quan, chiến sĩ tình báo cách mạng Trịnh Hoài Châu (Út Mười Một) có một chỗ đứng khá vững trong phủ tổng thống chính quyền Sài Gòn.

Trịnh Hoài Châu khôn khéo tiếp cận, làm thân nhiều tướng lĩnh. Nhờ vậy, ông khai thác được nhiều nguồn tin có giá trị. Đó cũng là những ngày hoạt động tình báo dường như quá sức chịu đựng của ông, khi nhìn thấy đồng chí mình đi vào chỗ chết mà không sao cứu được. Sau này, ông tâm sự: “Làm công tác nghiệp vụ trong lòng địch, dưới triều đại nhà Ngô, quả khó khăn gian khổ, phức tạp vô vàn. Ngay cả những người cúc cung tận tuỵ mà chỉ cần một câu nói vô ý, làm phật lòng một thành viên nhà Ngô cũng sẽ khó yên thân. Nhưng nhất nhất theo lệnh của nhà Ngô cũng chưa hẳn là liệu pháp an toàn”.

Trung uý Trịnh Hoài Châu cũng đã từng bị nghi ngờ là cộng sản, vì lối sống quá mực thước của ông. Việc một sĩ quan trẻ tuổi, đẹp trai lại không có bên mình những cô gái đẹp, không trăng hoa khiến nhiều người nghi vấn. Rất may, ông tìm ra được cách giải thích có vẻ khá hợp lý: “Nói thiệt, đàn ông nào không mê gái. Nhưng gia đình tôi không cho phép tôi lăng nhăng. Con cái lăng nhăng thì ra ngoài sống, không được sống chung với gia đình. Má tôi già rồi, tôi không muốn làm má buồn!” Từ hôm đó, chuyện mực thước của ông đã bớt bất bình thường trong mắt nhiều người, nhất là những người luôn nghi ngờ ông. Song, chỉ có ông mới biết trái tim ông đã thuộc về một người, Đỗ Thị Nga, một nữ sinh mảnh mai, duyên dáng. Tham gia phong trào nội đô, khi tổ chức bị vỡ, cô vào chiến khu. Cũng từ đó, hai người bặt tin nhau. Cuộc chiến đấu sinh tử buộc hai người yêu nhau và cùng chung lý tưởng phải ở hai đầu “chiến tuyến”. Hình ảnh cô gái có làn tóc mây dài óng mượt đổ xuống bờ vai, đôi mắt to đen láy luôn trong tâm tưởng ông. Nhớ buổi chia tay, hai người chỉ nhìn nhau, không một lời hứa hẹn nhưng đôi mắt chứa đựng bao lời của cô cứ ám ảnh ông. Đôi mắt ấy đã không ít lần giúp ông vững vàng, tỉnh táo trước nhiều thử thách, khó khăn.

Tham gia trong chính quyền Ngô Đình Diệm, ông sớm biết kế hoạch “thay ngựa giữa dòng” của người Mỹ. Khi chính quyền Diệm đổ, ông Châu cung cấp cho cách mạng nhiều tin tức có giá trị về nội các chính quyền mới, những mâu thuẫn phe phái trong nội các mới, những điểm yếu của đối thủ mà cách mạng có thể lợi dụng. Cũng bằng sự nhạy bén và tầm nhìn chiến lược, ông Châu đánh giá chính xác các kế hoạch mới của đối thủ trong thời gian sắp tới để báo về cho tổ chức có kế hoạch phản công. Khi thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ xí phần “quản lý chương trình bình định”, Nguyễn Văn Thiệu nhanh chân hình thành “Hội đồng bình định và phát triển” thì trong phủ tổng thống, Trịnh Hoài Châu được chọn làm chuyên viên phụ trách soạn thảo “Kế hoạch bình định cấp tốc”...

Sức mạnh của niềm tin

Và rồi bất ngờ họ gặp lại nhau. Cả hai đều không tin nổi vào mắt mình. Giây phút đó là khoảnh khắc không thể nào quên trong cuộc đời của ông Trịnh Hoài Châu và bà Đỗ Thị Nga. Mười mấy năm họ đã chờ đợi nhau trong tuyệt vọng, vượt qua cả nhà tù, cái chết và dù không một lời hứa hẹn, họ vẫn giữ tình yêu của mình bền chặt với tháng năm...

Sau Mậu Thân, ông Châu tìm cách chuyển tài liệu tuyệt mật “Kế hoạch bình định của chính quyền Sài Gòn” về chiến khu. Rất tiếc, người nữ giao liên bị bắt đã khai ra ông. Nguyễn Cao Kỳ, trước đó vốn tin tưởng Trịnh Hoài Châu, đã gầm lên: “Tên cộng sản đó sẽ bị đưa ra pháp trường cát, không cần xét xử”. Trong tù chờ ngày ra pháp trường, ông Châu phải chịu những trận đòn tra tấn khốc liệt. Không lâu sau đó, tại chiến khu, trong cơ quan dân y, bà Nga bàng hoàng khi nghe tin người yêu bị chính quyền Sài Gòn đưa ra “pháp trường cát” thủ tiêu. Đau đớn, tuyệt vọng trước tin dữ nhưng trong tim bà, tình yêu lại không thể chấp nhận nỗi mất mát lớn lao đó. Bà không thể chấp nhận chuyện ông đã chết, rằng 12 năm đằng đẵng chưa được gặp lại nhau kể từ ngày hai người chia tay sắp tới sẽ là những năm tháng mãi mãi không còn nhìn thấy nhau. Bà kể: “Tận đáy lòng, tôi không muốn tin anh Châu đã chết. Tôi luôn hy vọng đó chỉ là tin đồn. Mọi người bảo tôi còn quá trẻ và không thể sống với một niềm hy vọng mơ hồ. Cũng có nhiều người theo đuổi nhưng tôi đã quyết, chỉ khi nào tận mắt nhìn thấy anh ấy chết, tôi mới tin!”

Mà ông không chết thật. Sau hiệp định Paris, ông được trao trả và được đưa về chiến khu ở Củ Chi. Thấy ông chưa lấy vợ, nhiều đồng đội mai mối nhưng ông đều từ chối. Ông kể: “Đó là những phụ nữ đẹp, tài giỏi. Tôi rất trân trọng họ nhưng trong sâu thẳm, tôi vẫn có ý chờ Nga. Không hiểu sao tôi luôn nghĩ Nga còn sống ở đâu đó, rất gần tôi. Tôi đã không thể lập gia đình với ai dù lúc đó, thật lòng tôi rất khao khát có được một mái ấm gia đình…”

Và rồi bất ngờ họ gặp lại nhau. Cả hai đều không tin nổi vào mắt mình. Giây phút đó là khoảnh khắc không thể nào quên trong cuộc đời của ông Trịnh Hoài Châu và bà Đỗ Thị Nga. Mười mấy năm họ đã chờ đợi nhau trong tuyệt vọng, vượt qua cả nhà tù, cái chết và dù không một lời hứa hẹn, họ vẫn giữ tình yêu của mình bền chặt với tháng năm...

Sau ngày đất nước thống nhất, đối diện với đời sống khó khăn, thắt ngặt thời bao cấp, ông lại là người chồng thầm lặng hy sinh, tạo điều kiện cho bà tiếp tục học y khoa và trở thành bác sĩ giỏi. Gặp ông bà trong ngôi nhà nhỏ xinh hiện nay, dẫu di chứng của những ngày tù ngục vẫn thường xuyên hành hạ ông đau đớn, dẫu những uẩn khúc khó tránh của người hoạt động tình báo đang khiến ông bà phải chịu thiệt thòi thì cảm giác về hơi ấm hạnh phúc đang lan toả trong từng centimet không gian nơi ông bà sống vẫn cứ hiện diện trong tôi. Bà Nga hiện nay là phó chủ tịch quỹ Bảo trợ bệnh nhân nghèo. Ông bà có hai người con gái đã thành đạt, giỏi giang.

Trong ánh mắt và trên khuôn mặt ông bà, hạnh phúc lấp lánh, đẹp như chính tình yêu của họ.

TRẦM HƯƠNG

Nguồn : http://sgtt.vn/Loi-song/152548/Bai-2...uyet-vong.html
 
10,253
30
48

ALnML

Super Moderator
Ðề: Những mối tình không thể chia ly

Bài 3: Có một tình yêu vĩ đại

Chắc hẳn phải có một tình yêu vĩ đại, người phụ nữ ấy mới dám vượt lên “cái tôi” đầy lớn lao, kiêu hãnh để “cùng anh đi suốt cuộc đời”. Bà đã tiếp nối, thực thi những hoài bão của ông, ngay khi người mình yêu thương không còn trên thế gian này nữa. Đằng đẵng 40 năm, bà sống kiếp goá bụa, vượt lên nỗi cô đơn, những ngày đầy sóng gió, tàn khốc của hai cuộc chiến tranh, nuôi đàn con thơ năm đứa cho đến ngày trưởng thành...


Liệt sĩ, nhà cách mạng Nguyễn An Ninh. Ảnh: TL

Nhưng cuộc đời người phụ nữ ấy không chỉ có thế… Bà còn để lại cho hậu thế tập hồi ký ngoài giá trị tư liệu lịch sử còn có sức truyền cảm của một tác phẩm văn học. Tên thật của người phụ nữ nổi tiếng tài sắc một thời ấy là Trương Thị Sáu, phu nhân của chí sĩ Nguyễn An Ninh, một nhà yêu nước vĩ đại.

Bà Sáu sinh năm 1899 tại xã Phước Lại, huyện Cần Giuộc, Long An. Cha bà là một người Hoa nghèo gốc Phúc Kiến, mẹ là con gái một điền chủ. Tuổi thơ của bà đã trải qua những tháng năm cơ cực khi cha mất quá sớm. Năm 15 tuổi, với ý chí quyết tâm làm giàu, cô bé Sa (tên bà Sáu lúc nhỏ) lên Sài Gòn lập nghiệp. Nhờ siêng năng, biết làm ăn, nhạy bén tình hình thời cuộc, năm 20 tuổi, bà đã trở thành một chủ tiệm may nổi tiếng. Tiếng đồn cô Sáu cầu Ông Lãnh trẻ đẹp, giỏi giang, giàu có lan truyền, nhiều quan chức, trí thức, thương gia tìm đến làm quen, nhưng bà chẳng ưng ai.

Phải lòng “tiếng chuông rè”

Vậy mà cô Sáu đã xiêu đổ trước một người đàn ông yêu nước, đã từng một lần kết hôn. Năm 1924, những bài báo chống Pháp nảy lửa trên tờ Tiếng chuông rè (La Cloche Fêlée) của Nguyễn An Ninh đã khiến bà khâm phục. Tốt nghiệp ngành luật ở Pháp vừa về nước, ông Ninh từ chối vinh hoa phú quý, cả sự đe doạ của Pháp để làm “quốc sự”. Tờ báo La Cloche Fêlée của ông gây tiếng vang rộng lớn trong công chúng. Được những người bạn đầy thiện ý vun đắp, ông Ninh đến thăm cửa tiệm may của “cô Sáu cầu Ông Lãnh”. Cuộc gặp gỡ ấy đã dẫn đến mối lương duyên đầy hạnh phúc dù không ít chông gai, trắc trở. Bà tâm sự: “Trước khi về nhà chồng tôi bán hết cửa tiệm và hàng hoá được khoảng 10.000 đồng, một số vàng và hột xoàn. Nhờ đó tôi cũng giúp được ít nhiều tiền bạc cho anh Ninh và anh em khác hoạt động cách mạng…”

Phải rất yêu ông Ninh, bà mới từ bỏ khát vọng làm giàu luôn nung nấu trong lòng để gánh lấy “giang sơn nhà chồng”. Có lẽ, tình yêu và trí tuệ của ông Ninh giúp bà nhận thức rằng, còn có một điều lớn lao hơn mà toàn dân tộc phải vươn tới. Đó là khát vọng độc lập tự do. Vì khát vọng ấy, ông Ninh sẵn sàng hy sinh cả tính mạng. “Giang sơn nhà chồng” kể từ ấy trĩu nặng trên đôi vai bé nhỏ của bà. Bà trở thành người đồng hành, cộng sự của ông Ninh. Để ông yên tâm hoạt động, bà lo vận động tiền bạc, chuẩn bị cơ sở vật chất rước cụ Phan Chu Trinh từ Pháp về nước, chăm sóc cho cụ mạnh khoẻ để cụ tiếp xúc với đồng bào. Bà sẵn lòng giúp đỡ vật chất, tiền bạc cho anh em đồng chí của Nguyễn An Ninh, nhất là giúp ông tiếp tục ra và duy trì các tờ báo La Cloche Fêlée, L’Annam. Từ một cô chủ sang giàu, vì yêu chồng, bà Ninh nhanh chóng nhập cuộc với đời sống nông dân lam lũ. Bà kể: “Tôi muốn dành sự ngạc nhiên cho anh Ninh lúc đi Tây về, nên tôi xếp đặt nhà cửa trong ngoài chu đáo, trồng cây ăn trái trên cả tám mẫu vườn. Tôi nuôi gà có lúc tới 500 con, nuôi bò, nuôi ngựa đua, lại còn trồng trầu, cau, ổi, mít đủ thứ, làm suốt ngày ngoài vườn người tôi đen sạm, hai bàn tay chai cứng…”

Trên con đường làm “quốc sự” đầy gian nguy, bất trắc của chồng, bà là người bạn đồng hành đầy dũng cảm. Năm 1926, bà sinh người con trai đầu lòng Nguyễn An Định khi ông Ninh đang ngồi tù vì tội diễn thuyết đòi quyền tự do dân chủ. Phong trào đòi thả Nguyễn An Ninh lan rộng cùng với các cuộc bãi công, bãi khoá. Nhằm gieo hoang mang trong quần chúng, thống đốc Nam kỳ công bố lá thư xin thả của ông Ninh mà không công bố bức thư ông Ninh kêu gọi đồng bào đừng quá lo lắng cho ông mà sinh bạo loạn. Bà bồng đứa con trai đầu lòng hơn tám tháng vào khám gặp ông với sự quyết liệt chưa từng có: “Tại sao anh phải viết đơn xin nó thả ra. Có phải anh muốn bỏ phong trào hay không? Nếu anh bỏ phong trào, bỏ anh em, thì tôi trả con lại cho anh!” Và bà chỉ nhẹ lòng khi biết ông không phải là một con người dễ lung lạc.

Bà quen dần với việc sinh con một mình khi chồng ngồi tù hay bôn ba trên con đường tranh đấu. Năm 1929, kẻ thù tuyên án ông Ninh ba năm tù, phạt 1.000 quan tiền, năm năm mất quyền công dân về tội lập hội kín. Những ngày chồng chịu cảnh ngục tù, bà cùng ông Châu Văn Liêm từ Cần Thơ lên để vận động tổ chức anh em thành lập Đảng. Ngôi nhà bà trở thành trạm liên lạc, vừa là thư viện đọc sách, vừa là chỗ nghỉ ngơi của anh em, trong số đó có đồng chí Võ Văn Tần.

Tiếp bước của chồng


Phu nhân Nguyễn An Ninh và con trai Nguyễn An Định. Ảnh: TL

Năm 1930 – 1931, phong trào đấu tranh của quần chúng sôi sục ở Nam bộ. Dù bận hai con nhỏ nhưng bà vẫn đi vận động, xuống cơ sở diễn thuyết, kêu gọi bà con biểu tình. Bà lại ôm đứa con nhỏ, trốn dưới hầm tàu tìm chồng bị địch đày xuống Hà Tiên dù đã mãn hạn tù, nhằm cách ly ông Ninh ra khỏi phong trào quần chúng. Tháng 9.1939, ông Ninh nhận án tù biệt xứ. Bà đưa gia đình về Mỹ Tho mở hiệu thuốc sinh sống. Năm 1941, ông Ninh lại vào tù. Bà lập gánh hát Kim Chung kiếm tiền mưu sinh vừa ủng hộ tổ chức. Khi ông Ninh bị giam, người Nhật nhiều lần mua chuộc bà thuyết phục ông Ninh cộng tác với chúng. Chính phủ Nhật mời bà ra Côn Đảo thăm ông Ninh và mời ông Ninh về lập chính phủ nhưng bà kiên quyết chối từ. Bà thay ông thực hiện những công việc ông làm còn dang dở: xuất bản sách, giữ gìn từng quyển sách, trang viết của ông Ninh, nuôi đàn con năm đứa còn thơ dại… Gần cuối năm 1943, một người bạn tù từ Côn Đảo về cho bà biết tin ông Ninh đã hy sinh ngoài Côn Đảo. Bà không muốn tin vào điều khủng khiếp ấy, chạy đến bót Catinat hỏi, lúc ấy bọn mật thám mới chịu nhận là ông Ninh đã chết…

Sau nỗi đau quá lớn, bà Ninh trỗi dậy với một sức mạnh phi thường. Bà tiếp tục đi vận động kinh phí để tờ báo Đảng ra đời. Sau hiệp định sơ bộ, bà nhận làm chủ nhiệm tờ báo Phụ Nữ – một công việc đầy nguy hiểm lúc ấy. Bà nhận trách nhiệm vận động thành lập hội Phụ nữ Việt Nam, hội Công thương gia, hội Liên – Việt thành phố Sài Gòn – Chợ Lớn. Bà trở thành hội trưởng hội Phụ nữ và uỷ viên thường vụ hội Liên Việt cho đến lúc bị lộ, phải thoát ly ra chiến khu.

Những ngày ở chiến khu, bà được bầu vào ban chấp hành Phụ nữ tỉnh Rạch Giá – phụ nữ Nam bộ – phó chủ tịch Mặt trận Liên Việt Nam bộ. Nhờ tháo vát, linh động, bà làm rất tốt công tác cứu tế xã hội, vận động thành lập nhà bảo sanh, uỷ lạo bộ đội, tiếp nhận trao trả tù binh và đón tình nguyện quân ở chiến khu cho đến ngày tập kết ra Bắc. Bà được phân công làm giám đốc trại nhi đồng miền Nam tại Hà Nội và đã hoàn thành rất tốt sứ mệnh này. Năm 1966, bà đã đưa 5.000 cháu từ 3 – 15 tuổi sang Trung Quốc sơ tán. Bà tham gia Quốc hội suốt khoá II và khoá III, là uỷ viên trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Mãi 30 năm sau ngày ông Ninh đi vào cõi vĩnh hằng, bà mới có dịp “gặp” lại ông, lặng lẽ để rơi những giọt nước mắt “trùng phùng”. Với bà, ông Ninh không mất đi mà hiện hữu ngay trong cuộc sống của bà, trong những việc bà làm, những điều bà nghĩ. Bà tâm sự: “Tôi đã được các anh lãnh đạo TP.HCM mời cùng ra Côn Đảo thăm mộ anh Ninh. Đó là niềm mong ước nung nấu lòng tôi suốt từ lúc anh mất đến nay. Ngày anh ra đi vĩnh viễn, tôi không được cùng anh chia tay, vậy mà thấm thoát đã hơn 30 năm rồi”. Ngày 3.12.1983, trái tim bé nhỏ mang chứa một tình yêu vĩ đại của bà Nguyễn An Ninh đã vĩnh viễn ngừng đập…

Tình yêu có phép màu biến một người phụ nữ bình thường trở thành phi thường. Tình yêu của bà vượt qua những bức tường xám lạnh của nhà tù, vượt qua cái chết, bao điều cám dỗ... Và bà đã đi suốt cuộc đời cùng nhà yêu nước Nguyễn An Ninh như thế đó…

TRẦM HƯƠNG

http://sgtt.vn/Loi-song/152634/Bai-3...eu-vi-dai.html
 
Top