Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò - Đỗ Hồng Ngọc

5,642
9
38

metyruoi

Active Member
Lời tác giả

"Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò”
là cuốn sách đầu tay của tôi trong loại y học phổ cập. Sách do tác giả tự xuất bản (La Ngà), năm 1972 tại Saigon (Nguyễn Hiến Lê đề tựa, in tại nhà in Trí Đăng, Lá Bối phát hành) được sự đón nhận nồng nhiệt của sinh viên học sinh và các bậc phụ huynh thời bấy giờ.

Tôi viết những dòng này cho em. Trong khi viết, tôi không nghĩ là tôi đang viết mà là đang được nói chuyện cùng em. Và em ngồi đó, trước mặt tôi, thoáng một chút âu lo trên vầng trán, một chút bẽn lẽn trong đôi mắt và rất nhiều băn khoăn thắc mắc trong tâm hồn, cũng như tôi, cách đây không lâu trong lứa tuổi của em bây giờ.

Những băn khoăn thắc mắc đó của em- mà “người lớn” không sao hiểu nổi, cho là ngớ ngẩn, buốn cười- đôi khi là cả những ”vấn đề “ đối với em, trong đó có những thành kiến, những sai lầm ít nhiều tai hại cho chính sức khỏe em và ngay cả sự học hành của em nữa. Có nhiều thắc mắc vượt khỏi phạm vi thuần túy của y học mà tôi có dịp nghe trong thời gian tôi còn dạy ở một vài tư thục, rất khó trả lời, chẳng hạn có thứ thuốc nào uống cho nhớ lâu, có thứ thuốc nào uống cho khỏi làm biếng, bớt chán nản viêc học… bên cạnh những thắc mắc thông thường như về mụn trứng cá, bón, trĩ, nhức đầu… Cho nên trong quyển sách nhỏ này nhiều khi tôi đã vượt ra ngoài phạm vi “chuyên môn” của một y sĩ (*), để nói với em về những điều khác nữa, từ những kinh nghiệm cá nhân và những hiểu biết mà tôi có được.


Tựa của Nguyễn Hiến Lê:

Tập này là tác phẩm đầu tay của ông. Ông dùng kinh nghiệm bản thân khi đi học và dạy học (vì như một số sinh viên khác, ông phải tự túc), cùng những sở đắc trong ngành y khoa để hướng dẫn các bạn học sinh trong việc giữ gìn sức khỏe, ngừa trước những bệnh thông thường và khi bệnh đã phát thì nên làm gì. Yêu nghề và có lương tâm, ông không mách thuốc bừa bãi như thỉnh thoảng chúng ta thấy trên một số báo, ông phản đối thái độ “vô trách nhiệm” đó.

Tôi không biết gì về y học, nhưng tôi thấy nhiều điều ông khuyên trong chương I (bênh cận thị…), chương VIII (bệnh nhức đầu), chương XI (bệnh bón)… rất có lương tri, giá được biết từ hồi thiếu niên thì có lợi cho tôi lắm.

Một điểm đáng khen nữa là ông không có thành kiến, cái gì không biết thì nhận là không biết, lại có công tam, như khi ông nhận xét về phương pháp dưỡng sinh của Ohsawa…


Chương tôi thích nhất, và theo tôi, cũng ích lợi nhất, là chương cuối: “Đi khám bác sĩ”. Từ lâu tôi vẫn mong có ai chỉ dẫn cho tôi hiểu tâm lí, trọng trách cùng nhiệm vụ của y sĩ, bệnh nhân nên có thái độ ra sao, khi đi y sĩ, nên “hợp tác” với y sĩ cách nào để cho bệnh mau hết, nên dùng thuốc ra sao v.v…và bây giờ tôi mới thấy Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trình bày rành mạch sơ lược những kiến thức thông thường cần thiết cho mọi người đó. Tôi mong rằng sau này ông sẽ đào sâu vấn đề mà viết thành một tập riêng.

Văn ông lưu loát, sáng sủa, giọng ông thân mật, nhiều chỗ dí dỏm:
“Trừ một số rất ít được uống nước sâm trong những ngày học thi (và thường thì thi rớt) còn phần lớn các em phải đi làm thêm một buổi để có chút đỉnh tiền” (chương 18).

Có chỗ mỉa mai chua chát một cách nhẹ nhàng:“Vì nếu thi rớt, ở thời đại chúng ta không phải em chỉ bị ăn ớt (thi không ăn ớt thế mà cay – Tú Xương) mà có khi còn bị ăn đạn!” (chương 22).

Có chỗ lại nên thơ: “Tới một tuổi nào đó, ta quan tâm rất nhiều đến thân thể mình. Ta lắng nghe thân thể mình phát triển như chú dế mèn lắng nghe tiếng cỏ mọc trong đêm khuya…” (chương 17).
 
5,642
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò - Đỗ Hồng Ngọc


Chương I: CẬN THỊ – VIỄN THỊ – LOẠN THỊ


Đôi mắt, em biết đó, là “ cửa sổ của tâm hồn” như các nhà văn thường nói. Qua đôi mắt, ta có thể nhìn thấy, đọc được tâm hồn người khác . Ta có thể đoán biết người đó hiền lành hay xảo trá, quỷ quyệt, người đó nhu mì hay ngỗ nghịch, tinh ranh… Đôi mắt còn được các nhà thơ ca tụng hết lời . Chắc em nhớ câu thơ này của một thi sĩ : “ Mắt em là một dòng sông, hồn anh bơi lặn trong lòng mắt em” ?

Ở tuổi học trò , đôi mắt đóng vai trò tối quan trọng . Nhờ nó ta nhìn, ta ngắm, ta đọc… Những hình thể, màu sắc, ánh sáng … ta cảm nhận qua mắt, rồi nhờ những dây thần kinh dẫn vào trung khu óc não, ở đó là một phòng thí nghiệm vô cùng tinh vi cho ta biết cái mà ta thấy . Nhiều em học kém vì mắt yếu, nhiều em khác nhức đầu luôn đến nỗi bỏ học một phần cũng do những bệnh tật của mắt . Có một đôi mắt trong sáng, lành mạnh, đôi khi em không thấy là quý, cũng như ta thở mỗi phút giây mà chẳng nhận thấy không khí là cần . Em phải chăm sóc đôi mắt của em nhiều hơn.

Tôi sẽ nói ở đây với em về một vài tật bệnh thông thường của mắt, những thành kiến sai lầm liên quan đến tật bệnh này và chỉ dẫn một vài phương pháp vệ sinh cần thiết cho mắt, còn thì là việc của các bác sĩ chuyên khoa . Tôi cũng nói ngay ở đây là ở tuổi học trò các em không nên trang điểm diêm dúa như các diễn viên, ca sĩ . Họ vì nghề nghiệp mà phải làm như thế . Cạo lông mày, tô chì đen, mang lông mi giả, nhỏ thuốc cho mắt long lanh… Những điều đó không thích hợp cho tuổi học trò. Hãy để cho đôi mắt em tự nhiên. Một vật lạ nào vào mắt cũng gây tổn thương ít nhiều cho mắt .

Tôi còn nhớ những ngày mới rời tỉnh lên Saigon “du học”, tôi được nhét vào một lớp học “cá hộp” gần 120 người và dù cố gắng giành chỗ cũng bị ngồi bàn áp chót! Ở đó, tôi phải nhíu mắt hết sức mới thấy được những công thức toán, hóa học thầy viết trên bảng xanh . Tôi cũng phải cố nhíu mắt để nhận mặt thầy vì tôi chỉ thấy ông thầy thấp thoáng qua lại mà không nhìn rõ nét . Đôi khi gặp thầy hoặc bạn bè ngoài đường tôi chưa kịp chào thì đã trễ và vì thế mang tiếng “bất kính” hoặc “ khinh người ”! Tôi đành đi khám mắt, kết quả cận thị 2,5 độ! Thực là tai hại ! Giá tôi đi Saigon học sớm hơn, có lẽ không cận đến độ đó! Ở tỉnh lớp ít người, tôi luôn được ngồi bàn đầu nên không thấy mắt mình kém, nhưng nguyên nhân thúc đẩy tôi đi khám mắt chính là vì tôi thấy nhức đầu trong lúc học. Từ ngày biết mình bị cận thị, tôi lo lắng và xấu hổ ghê lắm ! Tôi mua một cái kính cận, giấu thật kỹ trong cặp, đến lớp thì để kính dưới hộc bàn, chỉ lúc nào cần nhìn bảng thì vội vàng mang lên, nhìn một cái rồi lại vội vàng giấu đi. Tôi sợ bạn bè cười, chế nhạo. Mà thực, họ thêm vào tên tôi một tiếng “cận” : Ngọc cận, cũng như các em bây giờ bị gọi là Hồng cận, Văn cận,Thuận cận v.v..

Chưa đầy một năm sau, trong tình trạng che giấu, mặc cảm nầy, mắt tôi bị tăng lên 3,5 độ. Ông bác sĩ đo mắt tôi không hề cho tôi biết nên mang kính như thế nào, cũng không hề giải thích cho tôi biết cận thị là một cái tật của mắt, không có gì đáng xấu hổ cả! Có lẽ ông coi đó là chuyện hiển nhiên, ai cũng biết như thế. May mắn cho tôi, lần này, khi đi đổi kính, tôi gặp một người chủ tiệm cận thị nặng, ông ta nói với tôi là ông đeo kính 6, 7 năm mới tăng một độ ! Lý do là ông không bỏ kính ra khỏi mắt, trừ khi ngủ và tắm. Tôi cũng khám phá sau đó rằng có nhiều người “văn minh” ( ? ) mang kính cận thị giả ( O độ) để tỏ ra đạo mạo, “trí thức” ! Từ đó tôi không còn mặc cảm vì cận thị nữa và trong hơn 12 năm nay, tôi mang kính thường xuyên, nên chỉ tăng lên nửa độ mà thôi !



* Cận thị
không xấu, nó là một cái tật mà nguyên nhân một phần là do di truyền, phần lớn lại là do không biết giữ gìn vệ sinh mắt, như do tư thế ngồi, do bàn ghế học tập không phù hợp, do lớp học ánh sáng không đầy đủ, nói khác đi, ta có thể phòng tránh cận thị… không khó! Cận thị vì thế cũng chẳng có gì đáng hãnh diện để những em không cận cũng bày đặt mua kính không độ mang làm dáng .

* Những tật thông thường của mắt là cận thị, viễn thị, loạn thị gọi chung là tật khúc xạ. Cận là gần. Thị là thấy. Mắt cận thị là mắt chỉ nhìn thấy những vật ở gần. Vật ở xa thấy lờ mờ, không rõ nét. Người bị cận thị một độ chỉ đọc rõ trong khoảng cách một thước, cận hai độ chỉ còn nửa thước, và một người cận bốn độ chỉ còn đọc rõ trong khoảng cách 25cm .

* Mắt bình thường thì ảnh của một vật ở vô cực sẽ hội tụ ở võng mô (không phải điều tiết), trong khi ở người cận thị, hoặc vì nhãn cầu lớn hoặc vì thủy tinh thể quá hội tụ, ảnh của vật đó sẽ nằm trước võng mô . Nguyên nhân một phần do di truyền như đã nói. Có em sinh ra đã bị cận rồi . Tôi đã thấy có những gia đình cả nhà đều bị cận mà những em bé mới 10 tuổi đã cãn trên 10 độ. Tuy nhiên, những người đọc sách quá nhiều trong điều kiện thiếu vệ sinh ( những con mọt sách) dễ bị cận thị hơn. Thực tế cho thấy những người gọi là “trí thức” … thường mắc tật cận thị, có lẽ vì quen nhìn một khoảng quá gần, đọc và viết nơi thiếu ánh sáng, tư thế và khoảng cách không đúng, mắt không được nghỉ ngơi, dễ mệt, yếu đi . Những người ở thôn quê, sống cảnh thiên nhiên ít bị cận thị, vì tầm mắt họ là chân trời xa thẳm, là đồng xanh bát ngát…

* Viễn thị không phải là mắt nhìn thấy được một vật ở xa hơn mắt bình thường đâu . Viễn thị, trái lại, chỉ nhìn được trong một khoảng giới hạn nào đó thôi, nhưng cận điểm ( điểm gần nhất mà mắt còn có thể thấy rõ ) xa ra hơn mắt thường .

Một mắt viễn thị muốn nhìn gần (vừa phải) và nhìn xa đều phải điều tiết . Sự điều tiết thường xuyên này làm cho mắt mỏi mệt nhiều. Mắt viễn thị do nhãn cầu nhỏ hơn bình thường hoặc thủy tinh thể hội tụ quá yếu, khiến cho ảnh của một vật nằm đàng sau võng mô. Muốn nhìn rõ phải ráng sức điều tiết nên rất mệt cho mắt ( trường hợp mắt già – cận điểm cũng xa dần ra, vì thủy tinh thể yếu, không đủ sức hội tụ, người già vì thế muốn đọc phải để xa mắt, hoặc phải mang kính già, có khi phải dùng đến kính lúp).

* Loạn thị là mắt nhìn không đều . Thí dụ trên mặt đồng hồ có 12 số họp thành vòng tròn, thì người loạn thị đọc rõ số 12 và số 6 , còn số 3 và số 9 thì không rõ hoặc ngược lại, đọc rõ số 3 và số 9 ,còn số 12 và số 6 thì không rõ. Loạn thị là do độ cong của giác mạc không đều khiến cho sự khúc xạ ánh sáng phát xuất từ vật sai lệch đi .

Muốn chữa cận thị, viễn thị, loạn thị (gọi chung là tật khúc xạ), người ta dùng các loại kính: kính phân kỳ cho cận thị, kính hội tụ cho viễn thị và kính lăng trụ cho loạn thị.

Khi thấy có những triệu chứng khó chịu về mắt, như nhìn xa không rõ, nhìn gần mỏi mắt, nhìn chỗ rõ chỗ không , nhức đầu dai dẳng, chóng mặt, học kém (đang học giỏi tự nhiên dở ẹt!) v.v… thì phải đi khám mắt ngay . Bác sĩ chuyên khoa sẽ khám mắt cho em và sau đó em đến một tiệm bán kính đáng tin cậy mua một cặp kính “độ”, nghĩa là đúng tình trạng mắt em. Tại các tiệm kính lớn đều có dụng cụ đo mắt, tuy nhiên không thể chính xác như việc làm của một bác sĩ chuyên khoa, vì ngoài cách đo bằng bảng chữ, còn phải kiểm soát lại bằng cách soi đáy mắt, và đo khoảng cách 2 mắt để chọn gọng cho đúng nữa.

Không có thứ thuốc nào để chữa tật cận thị, viễn thị và loạn thị vừa nói trên, mà chỉ có thể điều chỉnh lại bằng cách dùng những kính đeo mắt thích hợp. Có một phương pháp “tập thể dục” cho mắt bằng cách liếc mắt theo vòng tròn rồi ngược lại . Phương pháp này chẳng mang lại kết quả nào trừ trường hợp mắt cận thị “giả”. Nghĩa là một mắt mỏi mệt quá vì đọc nhiều trong những điều kiện kém vệ sinh, vì khoảng cách quá gần, vì thiếu ánh sáng, vì tư thế không đúng v.v.. Giống như sau thời gian nghỉ hè ở đồng quê, ở bãi biển, ta thấy mắt sáng hơn, khỏe hơn, thế thôi .



Tóm lại :


- Nếu em bị một trong ba tật kể trên thì phải mang kính thích hợp để điều chỉnh lại .

- Phải mang kính thường xuyên trừ lúc tắm, ngủ, rửa mặt… để giúp cho mắt đỡ mỏi mệt, do đó lâu tăng độ . Không có chuyện mang kính thường sẽ làm tăng độ mau hơn . Lúc lái xe, lúc đi đường cần phải có kính để tránh gây tai nạn.

- Cận thị, viễn thị, loạn thị là những tật của mắt, chẳng có gì đáng xấu hổ cả!

- Nên giữ gìn cho kính được sạch sẽ, lau chùi thường xuyên để mặt kính luôn trong suốt. Có vài loại “phụ tùng” gắn thêm vào kính để giữ cho kính khỏi rơi vỡ trong lúc chơi thể thao (đá banh, bóng rổ ).

- Contact-lens (kính sát tròng) hiện nay đã khá phổ biến, nhưng ở tuổi học trò, các em không cần dùng loại này để tránh những trường hợp phản ứng của mắt đối với những vật lạ. Những người vì nghề nghiệp bắt buộc ( ca sĩ, diễn viên, vận động viên thể thao…) có thể mang.

- Mổ cận thị hiện nay cũng đã khá phổ biến. Điều kiện để mổ là phải ở độ tuổi thích hợp, có độ cận vừa, ổn định (không thay đổi nhiều do tuổi còn đang lớn, nhãn cầu đang còn phát triển) và có thể điều chỉnh thị lực tốt . Người được mổ phải không bị các bệnh về mắt khác. Mọi việc tùy bác sĩ chuyên khoa Mắt quyết định. Ở tuổi học trò, còn đang lớn, độ cận thay đồi nhanh thì mang kính cận để điều chỉnh là tốt hơn cả!

- Giữ vệ sinh mắt, giúp mắt làm việc trong những điều kiện tốt là biện pháp phòng tránh tật khúc xạ của mắt hiệu quả nhất.

* Những thứ bệnh thường gặp của mắt ở tuổi học trò là mắt hột, viêm kết mạc, mụt lẹo, quáng gà ….

- Bệnh mắt hột: Xốn, ngứa, chảy nước mắt sống, rất hay lây, do một loại siêu vi trùng gây ra, có thể sinh biến chứng nguy hiểm ( lông quặm, loét giác mạc…). Chữa trị vừa dùng thuốc nhỏ mắt, vừa nạo hột trong mí mắt . Muốn tránh, không nên dùng khăn chung với người có bệnh.

- Mụt lẹo: (Orgelet) là một mụt nhỏ do vi trùng gây ra, phát xuất từ một tuyến nhờn ở gốc lông nheo. Không chữa cũng có thể khỏi nếu mụt nhỏ. Có thể dùng kháng sinh theo hướng dẫn của bác sĩ. Mụt lớn, đau, phải đến bác sĩ rạch lấy mủ ra .

- Viêm kết mạc: Mắt đỏ, nổi gân máu . Có nhiều nguyên nhân . Không nên coi thường . Giụi mắt sẽ làm cho bệnh nặng thêm . Có thể nhỏ các loại thuốc sát trùng thông thường. Cần khám chuyên khoa Mắt. Bệnh thường gây dịch gọi là dịch Viêm mắt đỏ.

- Bướu mi mắt (chalazion): tuyến Meibomius ở mí mắt bị sưng tạo thành một cái bướu nhỏ, không đau, nhưng cộm khó chịu, phải mổ, thường khó lấy được hết cả bọc, nên dễ bị tái phát, lại phải mổ. Điều trị ở chuyên khoa mắt.

- Quáng gà: sức nhìn kém đi lúc mặt trời lặn (hoàng hôn) giống như… gà nên gọi quáng gà! Nguyên nhân do thiếu vitamin A. Thường thấy ở trẻ em hoặc vì ăn uống không đầy đủ, thiếu thức ăn tươi (rau cải có màu vàng hay màu xanh đậm… như đu đủ, cà- rốt , bí đỏ, trái gấc, rau dền, rau muống, rau bồ ngót …) hoặc vì bệnh hoạn nên cha mẹ bắt kiêng cữ thái quá đến nỗi mắt khô đi, có khi loét giác mạc và hỏng mắt luôn . Ngược lại , nhiều người lầm tưởng vitamin A “ bổ mắt”, dùng nhiều quá hóa thừa, lại sinh bệnh. Nhiều em ăn cà-rốt thật nhiều cho sáng mắt, nhưng ăn nhiều quá da tay hóa vàng, lại tưởng đau gan v.v..

Tôi đã trình bày một số tật và bệnh thông thường ở mắt. Mục đích là để giải đáp những thắc mắc của em, những thắc mắc mà chính tôi đã mắc phải lúc còn nhỏ, còn đi học. Bây giờ, tôi sẽ nói thêm về vệ sinh mắt . Đây chính là phần quan trọng vì nó có thể giúp em tránh được tật của mắt hay ít ra cũng giúp cho mắt những điều kiện tốt để hoạt động bình thường và nhờ đó khả năng học tập của em có thể tiến bộ hơn lên .

1. Ở góc học tập :

  • Góc học tập cần có ánh sáng vừa đủ, đặt gần nơi cửa sổ hoặc có một bàn đèn rọi sáng nơi bàn học.
  • Đèn bàn đặt cao hơn đầu và ở về phía bên trái ( để tránh bỏng tay cầm viết, trừ trường hợp thuận tay trái, dĩ nhiên).
  • Sách đặt cách mắt khoảng 40 cm và đặt thẳng góc với mắt, nghĩa là sách làm với mặt bàn một góc khoảng 30 độ . Người đọc ngồi ngay ngắn trên ghế vừa tầm, phù hợp lứa tuổi, không để còng lưng.
  • Tránh bóng che khuất vì bóng che cũng làm mắt phải điều tiết nhiều, đồng tử phải mở lớn mau mệt mắt .
  • Tránh ánh sáng quá chói vì ánh sáng càng chói, mắt càng dễ mệt và thị lực kém đi .
2. Ở ngoài trời :

  • Ngoài ánh sáng mặt trời, nếu có vành nón che càng tốt, nếu mang kính mát thì nên chọn thứ kính tốt, hấp thụ hết sức chói và lọc được các tia hồng ngoại có hại cho mắt .
3.Vệ sinh chung về mắt :

  • Tốt nhất không đọc sách bào khi nằm, khi ngồi xe đang chạy, khi đang ăn uống…
  • Không đọc chữ, chơi trên vi tính quá 2 giờ liền. Nên để mắt nghỉ ngơi 5-10 phút mỗi khi làm việc khoảng 45 phút (sau mỗi tiết học thường “ra chơi” là vậy!).
  • Cho mắt nghỉ ngơi lúc mỏi bằng cách thỉnh thoảng nhìn vào một khoảng tối ở xa xa , hoặc nhắm mắt lại một lúc .
  • Tivi có thể làm mỏi mắt. Nên coi TV vừa phải . Nên đặt màn hình ngang tầm mắt, xa khoảng 3-4m, trong phòng không nên để tối hẳn .
  • Khám mắt trước khi đi học và ngay khi có những triệu chứng bất thường về mắt như nhức đầu dai dẳng, chóng mặt , học tự nhiên sút kém đi… Một em đang học giỏi bỗng học sút kém đi thì thường do có vần đề về mắt nên nhìn sai chữ, sai số, mà phụ huynh và cả thầy cô không để ý!
  • Tránh nhiễm trùng mắt: mỗi người nên dùng khăn riêng của mình, không giụi mắt bằng tay dơ (bẩn) .
 
5,642
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò - Đỗ Hồng Ngọc

Chương II: VIÊM MŨI DỊ ỨNG

Có khi nào em nghe bà hàng xóm nhảy mũi (hắt hơi) từng loạt hàng chục cái liên tiếp, sau mỗi cái nhảy mũi là một tiếng “dạ” liền không ?



Có khi nào em thấy một người lúc nào cũng sẵn cái khăn tay để chặm ngay những giọt nước mũi nước mắt chảy liên miên sau những tràng nhảy mũi trong lớp học, ngoài đường phố ?

Có khi nào em thấy một anh bạn lâu lâu lại ngước mắt lên nhìn trời như tìm vần thơ, rồi cho tay vào túi lấy nhanh một chai thuốc nhỏ mũi bơm xịt vào mũi vài giọt, rồi mới có thể tiếp tục làm bài, học bài hoặc đi lại không?

Em đừng cười bà hàng xóm dạ rân sau hắng loạt nhảy mũi như vậy ( bà tin có ai đó “ nhắc” bà ), đừng cười người bạn luôn có chiếc khăn trên tay, cũng đừng cười anh bạn lúc nào cũng phải có chai thuốc nhỏ mũi, ống xịt trong mình . Bởi đó không phải là một tật xấu, mà lại là một thứ bệnh khó chịu, bực mình, và rất khó chữa : bệnh viêm mũi dị ứng, một thứ bệnh thường gặp ở tuổi học trò!

Tôi sẽ không nói ở đây về thứ viêm mũi bẩm sinh, hoặc rủi ro đụng chạm làm cong vẹo vách ngăn- phải dùng phẫu thuật để chữa trị ở các bệnh viện chuyên khoa Tai Mũi Họng- cũng không nói về thứ viêm mũi do vi trùng (có thể chữa bằng kháng sinh), siêu vi trùng (80% các trường hợp viêm mũi nhiễm trùng) thường gặp trong mùa có dịch cảm cúm; cũng không nói về bệnh viêm mũi do thay đổi thời tiết đột ngột làm co giãn mạch máu ở mũi và các loại viêm mũi liên quan đến những rối loạn kích thích tố…



Tôi muốn nói với em ở đây về bệnh viêm mũi do dị ứng và do dùng thuốc sai lầm có thể phòng tránh được. Hai bệnh nầy rất thường gặp ở lứa tuổi học trò, lại rất khó chữa và nhất là gây nhiều khó chịu cho những em mắc phải, có thể làm cho sự học kém đi, hoặc làm cho em có mặc cảm với bạn bè rất tai hại.

Thực khó mà giải thích rõ căn nguyên của loại bệnh này, vì nó thuộc loại dị ứng (phản ứng kỳ dị, khác thường) hay mẫn cảm mà ngày nay các nhà chuyên môn vẫn không ngớt nghiên cứu vì ngày càng có nhiều người mắc phải do yếu tố di truyền và yếu tố môi trường gây ra. Đại khái em có thể hiểu thế này : có em ăn cua, tôm bao nhiêu cũng không sao, nhưng có em ăn cua, tôm thì bị nổi mề đay ngứa ngáy hoặc lên cơn suyễn. Có em ngữi mùi rơm rạ không sao , có em thì nhảy mũi tưng bừng nếu ngữi phải mùi rơm rạ, phấn hoa các thứ … Cũng có em không “chịu” sữa bò, trứng gà, trứng vịt; có em không chịu thịt gà, cá biển, chocolat… Tại sao có sự “không chịu” đó? Người ta giải thích là do cái “tạng” của mỗi người . Hiện tượng “chịu” vật nầy, “không chịu” vật khác một phần do yếu tố di truyền, một phần do bản chất của vật, do cường độ tiếp xúc, một phần khác do sự rối loạn của bộ máy tiêu hóa khiến cho sự hấp thụ sai lạc và cuối cùng phải nói đến yếu tố tâm lý nữa. Có em “chịu không nổi” mùi hoa sứ, nhưng lâu dần lại quen, hóa ghiền… Có người không ưa đồ biển ( tôm, cua, sò ốc) hễ ăn vào là bị phản ứng ngay, nhưng nếu cứ ăn riết rồi quen đi, thế là hết rắc rối.



Chất mà ta không “ưa”, không “chịu” đó gọi là chất kháng nguyên, một khi vào trong cơ thể ta sẽ kích thich cơ thể sinh ra một chất để “chống” (kháng) lại gọi là kháng thể. Cuộc chiến giữa kháng nguyên và kháng thể đó sinh ra một số chất độc gây nhiều hậu quả tai hại, trong đó có hậu quả… viêm mũi dị ứng nói trên. Giải thích một cách sơ lược thế thôi, bời đây là một hiện tượng rất phức tạp không thể dễ dàng lãnh hội bằng một vài dòng chữ.

Triệu chứng của bệnh trái lại rất dễ nhận ra. Như đã nói ở trên, người bị viêm mũi dị ứng thường nhảy mũi từng tràng dài, chảy nước mũi, nước mắt, nghẹt mũi quanh năm hoặc theo từng mùa… Khi có triệu chứng này em nên đi khám chuyên khoa Tai Mũi Họng sớm để định bệnh và chữa trị cho chính xác. Bác sĩ với dụng cụ khám mũi sẽ thấy màng mũi phồng lên , trắng bóng, màu tai tái. Chữa trễ, màng mũi có thể bị phồng to lên, lấp kín các “cửa sổ” thông hơi giữa xoang mũi với lỗ mũi, các chất nhày trong khoang không thoát được, lâu ngày gây thêm bệnh viêm xoang, một thứ bệnh khó khăn hơn nhiều, mà hậu quả có thể làm em phải bỏ học hoặc học kém đi.

Bác sĩ Tai Mũi Họng sẽ chỉ dẫn thuốc men cho em đúng cách, dựa trên bệnh tình của em, trên tuổi tác, cân nặng và trạng thái tâm lý của em nữa, thì mới có hiệu quả tốt, còn tự ý mua thuốc linh tinh uống hoặc nhỏ mũi, tự ý nghe bày vẻ này nọ mua thuốc xông mũi, xịt mũi có khi còn gây nhiều tai biến trầm trọng hơn.



Tuy vậy, tôi cũng ghi một cách đại khái nguyên tắc chữa trị ở đây để em có một ý niệm mà hợp tác tốt với thầy thuốc.

  • Nếu biết rõ chất kháng nguyên nào đã gây ra chứng bệnh này của em, em tránh nó đi là cách tốt nhất. Thực tế, không dễ biết. Thường là các thứ phấn hoa, bụi khói, lông thú (chó mèo), nấm mốc, hóa chất, xăng dầu, vải vóc, thời tiết…
  • Có thể xác định chất kháng nguyên bằng cách thử nghiệm trên da, thực hiện ở các bệnh viện chuyên khoa. Phức tạp và tốn kém.
  • Dùng thuốc giải mẫn cảm không chuyên biệt.
  • Dùng thuốc chống viêm, chống dị ứng theo toa bác sĩ.
  • Dùng thuốc kháng histamin, nhỏ mũi, rửa mũi… theo hướng dẫn của bác sĩ.
Loại viêm mũi đáng được nói ở đây với các em vì có thể phòng tránh được là loại viêm mũi do dùng thuốc bừa bãi, sai lầm. Khi em bị cảm cúm, em mua một chai thuốc nhỏ mũi để nhỏ cho đỡ nghẹt, bớt chảy nước mũi . Người bán thuốc lấy cho em một thứ thuốc nào đó mang về dùng và thấy công hiệu lắm! Nhỏ vào mũi vài giọt thì một lúc sau đã thấy bớt nghẹt, dễ thở ngay. Nhưng một lúc nữa lại nghẹt mũi lại, lại khó thở. phải tiếp tục nhỏ vài giọt nữa và cứ như thế, dần dần em bị lệ thuộc vào thuốc rồi sinh chuyện!

Cũng có trường hợp em đi khám bác sĩ đàng hoàng, bác sĩ cho em loại thuốc có tính co mạch để em đỡ nghẹt mũi, đỡ khó chịu tạm thời, nhưng vì em không để ý lời chỉ dẫn của bác sĩ, thấy thuốc hay, em tự ý mua thêm, dùng đi dùng lại mãi và trở thành ghiền, đi đâu cũng phải có chai thuốc đó bên mình và rồi mới sinh chuyện.

Nên nhớ màng mũi ta rất nhạy cảm với các loại thuốc làm co mạch đó . Mạch máu ở màng mũi bị viêm, trương to lên (làm nghẹt mũi) đột nhiên bị co lại dưới ảnh hưởng của thuốc, nhưng một lúc sau, thuốc hết hiệu nghiệm, mạch máu lại trương nở to lên, và to hơn trước, em lại phải nhỏ thuốc cho đến khi em bị viêm mũi… vì thuốc.

Muốn chữa “bệnh” này, em phải can đảm và có nhiều nghị lực, nghĩa là em ráng hả miệng ra thở ít lắm là đôi ba ngày, ráng không dùng thuốc nhỏ mũi cho đỡ nghẹt nữa! Tưởng dễ mà không dễ đâu !



Nếu vượt qua được, em sẽ không cần phải dùng đến thuốc nhỏ mũi nữa và khỏi bệnh. Cũng có thể bác sĩ Tai Mũi Họng sẽ can thiệp, cắt bỏ một phần “sừng” mũi bằng điện, hoặc bằng hóa chất để dọn đường cho không khí ra vào. Sau đó, em lại phải chữa nguyên nhân đã gây ra chứng viêm mũi của em ( do dị ứng hay do siêu vi v.v… chẳng hạn) khi đã thoát nợ giai đoạn đầu là viêm mũi do thuốc nhỏ mũi!

Tôi đã nói với em về hai loại bệnh viêm mũi thường gặp ở tuổi học trò là bệnh viêm mũi dị ứng và viêm mũi do dùng thuốc sai lầm, bửa bãi. Bệnh viêm mũi dị ứng rất phức tạp, khó chữa . Em phải chịu khó điều trị một thời gian lâu dài và chữa đúng phương pháp, tuyệt đối không nên tự ý mua thuốc chữa vì những phản tác dụng nguy hiểm. Loại viêm mũi do dùng thuốc sai lầm thì đòi hỏi em phải có nghị lực nếu muốn chữa cái bệnh “ghiền” kỳ cục đó ! Một điều nữa có lẽ cũng nên nói là không bao giờ được dùng thuốc nhỏ mũi của người lớn nhỏ cho em bé trong nhà, dù là giảm liều thuốc đi . Đã có nhiều trường hợp bé chết ngất vì phản ứng thuốc nhỏ mũi rồi đó !
 
Top