"Tình dục, Xưa và Nay”

10,253
30
48

ALnML

Super Moderator
"Tình dục, Xưa và Nay”

Thứ Sáu, 17.2.2012 | 14:23 (GMT + 7)
Đấy là đề tài mà một chương trình mới ra mắt chưa được bao lâu của Đài Truyền hình Trung ương - “Chuyện đêm cuối tuần”- mời tham dự. Giật mình hỏi bạn phụ trách chương trình, một nữ MC gạo cội đã từng làm nhiều chương trình chuyên khai thác những vấn đề đời sống xã hội: “Nghĩ sao bạn lại mời tôi?”.

Câu trả lời, vì anh làm tạp chí “Xưa & Nay ” mà! Xưa & Nay vốn là tên của tờ báo chuyên quảng bá kiến thức theo cách nhìn của người làm sử mà tôi phụ trách. “Xưa và Nay” có thể coi là một thành ngữ tương đương với “lịch sử” để nhấn mạnh vào mối quan hệ vận động của thời gian tựa như một dòng chảy mãi mãi, vì ngày xưa chính là quá khứ của hôm nay. “Xưa Nay” cũng tựa như “Xuân Thu” nói lên sự chuyển vận của thời gian làm nên lịch sử vậy. Với lịch sử thì cái gì cũng phải và có thể bàn đến. Vì thế cái chủ đề được đặt hàng là lịch sử của cái chuyện, lẽ thường đáng đem vào nơi kín đáo để bàn, chuyện phòng the, chứ đâu phải để trưng lên báo. Nhưng dường như chính ý đồ của những người làm chương trình này muốn mọi cái cần thiết thì nên được công khai cho mọi người cùng chia sẻ. Thế là suốt tuần, trong đầu chỉ luẩn quẩn nghĩ về nó để chuẩn bị cho ngày lên sàn... quay. Lại nhân có chuyến công tác tại Huế, hỏi han bạn đồng nghiệp xem chuyện này ngày xưa ở chốn Thần Kinh thế nào. Vì vậy viết ra trong lần “Nghỉ ngơi cuối tuần” này để trao đổi với bạn đọc. Cứ phải tẩn mẩn bắt đầu từ chữ nghĩa xem trong sách vở, khái niệm “tình dục” được hiểu thế nào? Các cụ biên soạn “Từ điển Việt Nam” là các vị học giả danh giá thuộc lớp nho sĩ cuối mùa bắt đầu nhuốm màu tân học trong Hội Khai trí Tiến Đức lập hồi sau Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, thì định nghĩa “tình dục là lòng ham muốn” kéo theo một lời bình “nên hạn chế lòng ham muốn”(!?). Học giả Đào Duy Anh, từ giữa thế kỷ trước, giải thích từ Hán Việt này một cách trung tính hơn kèm theo một từ Pháp tương đương “tình dục là nỗi ham muốn trong lòng người (désire)”. Nhưng đến nhà giáo lão thành Nguyễn Lân trong cuốn từ điển tiếng Việt xuất bản ở thập kỷ đầu tiên thế kỷ XXI này (2007) khi tác giả đã bước vào tuổi U100 thì định nghĩa có phần khắt khe: “Tình dục là lòng ham muốn sắc dục” rồi kèm theo một câu ví dụ “Anh ta bị thoái hoá vì không hạn chế được tình dục”. Cũng tương tự, “Tự đển Hán-Việt” của Lại Cao Nguyên (2007) định nghĩa: “Tình dục là thú vui xác thịt giữa nam và nữ”. Như thế về căn bản cái quan niệm tạm gọi là “kinh viện” của người Việt Nam ta (qua các cuốn từ điển) có phần rất đơn giản, nó chỉ là “lòng ham muốn” của con người về một lĩnh vực của đời sống vừa là sinh học vừa là tinh thần, vừa dung tục vừ thiêng liêng được gắn với quan hệ “nhục dục”, “xác thịt” có liên quan đến sự khác biệt về giới tính... Còn nếu mở trên mạng thì thấy đây là cả một vấn đề “đại hải”. Không biết bao nhiêu cách tiếp cận, giải thích đọc thấy mụ cả người, lại thêm những dẫn chứng từ lịch sử, từ những quan niệm tôn giáo, tín ngưỡng, chủng tộc... rồi cả những thành tựu tiến bộ đến những biến thái thành tệ nạn ở mỗi nơi, mỗi thời...
Hoàng đế Minh Mạng, một trong những vị vua có nhiều thê thiếp nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Ảnh: TL

Thế nhưng, trong số nhiều cuốn từ điển đem ra tra cứu, bỗng đọc được một pho sách rất đồ sộ, tới 4000 trang của một vị bác sĩ gốc người Huế nay đang sống và làm việc ở hải ngoại. Đó là cuốn “Từ điển tiếng Huế” xuất bản sau cuốn của cụ Nguyễn Lân một năm (2008). Trong mục từ “tình dục” ông không duy danh định nghĩa mà nêu lên quan niệm về lĩnh vực này trong người dân Huế (thuộc lớp người được xem là cổ điển của một xứ cũng được coi là cổ điển nhất hạng). Sách viết (trích nguyên văn nhưng chỉ xin được viết tắt một chữ mà trong sách viết không tắt): “Tình dục xưa: các cụ Huế hồi xưa có câu nói về tình dục đem bàn rất quan trọng khi tìm vợ cho con: “Hồng diện đa dâm thuỷ - Thanh mi hậu hồ mao - Tế yêu am huyệt đại - Trường túc bất tri lao”, văn sĩ Tchya dịch ra tiếng Việt là: “Những người má đỏ hồng hồng / Nước L. tát mấy gầu sòng không vơi / Những người mắt phượng mày ngài / Lông L. đốt được một vài thùng tro / Những người lưng nhỏ nhò nho / Lông L. đưa được con đò sang sông / Những người chân sếu, chân giang / Ươn mình suốt mấy cả làng đều kinh”. (Tập II, tr.1770). Như thế, trong quan niệm truyền thống của dân ta trước kia có phần kém rụt rè hơn bây giờ và nó nói đến được cái cốt lõi của vấn đề. Đó chính là vấn đề liên quan đến sự sinh sản, đến nòi giống về mặt sinh học; đến sự nối dõi, kế thừa, kế vị trong đời sống kinh tế, xã hội và chính trị. Đành rằng, suồng sã như dân gian thì coi chuyện tình dục chỉ là một trong “tứ khoái”, một nhu cầu vừa hoàn toàn là bản năng sinh lý nhưng nó cũng lại mệnh hệ đến đời sống không chỉ một cá thể mà cả xã hội. Chế độ phụ quyền nối tiếp thời mẫu quyền như một chu trình của sự tiến hoá xã hội, rồi với nước ta lại thêm Lễ nghĩa theo đạo Khổng khiến cho “tình dục” phải lui vào chốn phòng the mà thân phận người phụ nữ luôn được mô tả chỉ còn là chất liệu và số lượng làm phong phú thêm cho đời sống và vai trò của người đàn ông. Với người đàn ông, nhất là những người có quyền lực, từ vua quan cho đến người giàu có luôn dễ bị gắn với những kẻ muốn thể hiện quyền lực trong việc chiếm đoạt và “sở hữu” những người phụ nữ. Chế độ đa thê kéo dài và việc các ông vua không chỉ có năm thê bảy thiếp như những tầng lớp trên mà có hẳn “tam cung, lục viện” với cả một số lượng đồ sộ cung tần mỹ nữ... Và ở nước cuộc đấu tranh giành quyền của người phụ nữ cũng đồng nghĩa với việc thủ tiêu chế độ đa thê, thực sự cũng chỉ được xác lập bằng Luật Hôn nhân và Gia đình đến nay mới tròn một “hoa hội” (60 năm kể từ khi ban hành luật 1960) mà thôi. Vào Huế, gặp anh em đồng nghiệp hỏi xem đời sống tình dục của các ông vua thuộc triều đại gần nhất và cũng là cuối cùng trong lịch sử nước ta thế nào. Các bạn đồng nghiệp cho biết “cũng thường thôi” vì rất ít tài liệu được ghi chép lại. Khác với Trung Hoa - một mẫu mực mà các triều đại Việt Nam chịu ảnh hưởng và học hỏi nhiều lĩnh vực, nhưng trong những văn bản chính thống của triều đình từ chính sử đến các bộ hội điển đều không thấy đề cập tới. Trung Hoa tồn tại nhiều sách vở viết về tình dục mà tiêu biểu và được coi là xưa nhất (từ sát đầu công nguyên) chính là việc ghi chép lại những tri thức về nghệ thuật tình dục của một thiếu nữ (được chép là Tố nữ) cho vị hoàng đế. Nói cách khác là đàn bà dạy đàn ông và dân dạy cho hoàng đế về kinh nghiệm trong đời sống tình dục. Ở ta ngoài những câu chuyện tiếu lâm lưu truyền trong dân gian để thoả mãn phần nào những nhu cầu của đời sống và đến thơ Nôm của nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã được coi là đỉnh điểm (nhưng vẫn phải theo cách “đố tục giảng thanh”) thì có chăng chỉ là những câu chuyện tâm tình của người mẹ dạy con gái của mình khi đã bước vào tuổi “cập kê” chuẩn bị làm nghĩa vụ để trở thành người vợ, hoặc là kiến thức để cha mẹ kén vợ cho con trai mình nhằm mục tiêu hàng đầu là “giữ gìn được dòng giống tông tộc”. Đồng nghiệp lâu năm trong bảo tàng ở cố đô Huế khẳng định với tôi rằng, cho đến nay hầu như không có thư tịch nào ghi chép lại, chỉ có những câu chuyện sang miệng nhau trong dân gian, một phần từ các vị thái giám, sau ngày triều Nguyễn suy vong mới nói về đời sống phía sau tử cấm thành... Mà chuyện được nói nhiều hơn lại là sự bất lực của một vài vị vua trong việc không làm được cái sứ mệnh tối quan trọng là sinh được người nối dõi chứ không phải là sự phê phán thói hư tật xấu trong đời sống tình dục của người đứng đầu quốc gia. Trong kho của bảo tàng cũng chẳng thấy có một vật dụng nào liên quan đến đời sống tình dục của vua ngoài một cái... sừng tê (thứ dược liệu quý chữa bách bệnh không chỉ có chuyện chăn gối). Theo anh, sự truyền tụng về “thang thuốc Minh Mạng” có thể chỉ vì ông ấy có rất nhiều con nên đồ Ngài uống được nâng lên thành thần dược chứ chưa chắc vì uống thức ấy mà ông đủ sức sinh ra đến 143 người con. Đương nhiên để có ngần ấy người con thì Hoàng đề Minh Mạng phải có cả trăm người sinh ra những người con ấy và số phụ nữ mà Ngài có quyền “sử dụng” sẽ rất nhiều (vì sử có ghi rằng vào một năm có nhiều thiên tai, theo lệ tục, Ngài lệnh cho giảm bớt rất nhiều đàn bà trong cung cấm như một sự sám hối để tạ lỗi với Trời, trước khi qua đời).
Sừng tê là một bài thuốc tăng cường sinh lực trong dân gian. Ảnh: TL
Về năng lực tình dục của Hoàng đế Minh Mạng, có một bài thơ mà ngài ngự bút nhân sinh được người con thứ 100 vào năm Nhâm Thìn 1832. Thơ có đoạn (dịch) là: “Năm nay ta có đứa con trai thứ 59 và con gái thứ 41, gộp thành 100”. Rồi vị hoàng đế Đại Nam tỏ ý hãnh diện vì sánh được với “nhà họ Cơ” bên Trung Hoa, nhưng vẫn nhận rằng mình chưa theo kịp bậc tiền nhân của mình là Hoàng tổ triều Nguyễn (Chúa) Nguyễn Phúc Chu (1675-1725) 50 tuổi đã có tới 146 người con. Tám năm sau ngày viết bào thơ này Vua Minh Mạng băng hà (1841), Ngài đã có số con chỉ kém Chúa Nguyễn Phúc Chu vài người mà thôi. Nhưng cũng trong bài thơ, Hoàng đế Minh Mạng nói rất rõ trách nhiệm của người đứng đầu triều đại “để có thể đạt được cái dày dặn (phúc ấm) của tổ võ, nối mãi cái đẹp của tiền nhân, người kế tự chỉ biết có hiền từ, các con đều phải tốt”. Việc giáo dục con cái để tìm người kế nghiệp luôn là một việc tối hệ trọng đối với quốc gia. Sử chép, nói đúng hơn là Vua Minh Mang yêu cầu sử quan phải chép vào bộ Thực lục (biên niên sử của triều đình) câu chuyện một trong số những con trai (hoàng tử) của mình một lần theo bạn đi chơi trong kinh thành, bạn phóng ngựa xô vào một bà già bị chết. Vì liên quan đến hoàng tử, Hoàng đế thân xét xử, người gây án trực tiếp phải điều sang Ai Lao làm việc (đi hiệu lực), còn hoàng tử tuy không gây án nhưng vì a tòng nên phải cấm cung 3 năm đèn sách không được ra ngoài và rút bớt bổng lộc... Và ngược lại, sự bất hạnh nhất được coi là “đại tội” ngay cả với một người đứng đầu quốc gia là... tuyệt tự. Khải Định cũng là người được đồn đại là không có khả năng có người kế vị nhưng triều đình cũng phải tạo ra được người kế vị cho dù phải chấp nhận những điều thêu dệt về gốc tích của hoàng thái tử - thế tử Vĩnh Thuỵ (sau này là Hoàng đế Bảo Đại). Riêng có Tự Đức, vị hoàng đế khởi đầu cho một thử thách khó khăn nhất của triều Nguyễn là sức ép xâm lăng của thực dân Pháp, lại là một người không sinh con được đã chấp nhận việc phải xây lăng tẩm cho mình khi còn sống vì thường việc này phải do người con kế vị xây cho người cha, vị hoàng đế của tiền triều. Tự nhận lỗi của mình đã không gìn giữ được toàn vẹn chủ quyền và thân thể bạc nhược, yếu đuối khiến tự mình phải lo việc xây lăng cũng nhằm nói đến cái bi kịch lớn nhất là không có người nối dõi, Tự Đức đặt tên cho nơi mình ở cuối đời là Khiêm Cung hay Khiêm Lăng, lấy đức “Khiêm” (nhường) như một lời tạ lỗi.... Câu chuyện tình dục nơi cung cấm của vua chúa nước ta, cũng như quan niệm của xã hội Việt Nam truyền thống dường như phản ảnh một trách nhiệm, một nghĩa vụ nhiều hơn là một hưởng thụ thuần tuý... Đấy mới chỉ sơ bàn đến chuyện xưa, còn chuyện nay khó quá... Chỉ có điều “no cơm ấm cật, dậm giật chân tay” là cái lẽ thường tình, do vậy việc này rồi đây xã hội cũng phải bàn tới nơi tới chốn...
Dương Trung Quốc
 
Top