metyruoi
Active Member
(Eva.vn) - Giáo dục giới tính cứ quẩn quanh trong những lời răn dạy đạo đức hay chuyện vệ sinh 'vùng kín' là hoàn toàn sai.
Chuyện trẻ con quan hệ tình dục sớm, không an toàn dẫn đến có thai hoặc mắc các bệnh xã hội đang là một vấn đề khiến cả gia đình, nhà trường và xã hội đau đầu. Nhìn lại mới thấy, ở Việt Nam, chuyện giáo dục giới tính còn quá khác xa so với nhiều nước trên thế giới…
Theo số liệu thống kê, hiện Việt Nam là một trong 3 nước dẫn đầu thế giới về tỷ lệ nạo phá thai với khoảng từ 1,2 đến 1,6 triệu ca nạo phá thai mỗi năm. Trong số đó độ tuổi vị thành niên chiếm 20%.
Trong phạm vi nhà trường, có rất nhiều quan điểm trái ngược nhau về vấn đề giáo dục giới tính và sức khoẻ sinh sản cho trẻ vị thành niên. Có những người cho rằng: đưa vấn đề giáo dục giới tính vào nhà trường là “ vẽ đường cho hươu chạy”. Vì thế họ cho rằng không cần phải giáo dục trong nhà trường mà để trẻ tự phát triển tự nhiên, đến lúc nào đó tự trẻ sẽ hiểu được.
Giáo dục giới tính không phải là vẽ đường cho hươu chạy. (Ảnh minh họa).
Ngược lại, có những quan điểm cho rằng nhất thiết cần phải giáo dục giới tính và sức khoẻ sinh sản cho thanh niên hiện nay, đặc biệt là lứa tuổi vị thành niên nhằm nâng cao năng lực, giảm thiểu những tác hại do thiếu hiểu biết gây ra. Nhưng cho tới nay nhà nước chưa đưa chương trình giáo dục giới tính vào nhà trường giảng dạy và chưa coi đây là một môn học thực sự mà chỉ mới thể hiện lướt qua trong chương trình sinh học với những thông tin hết sức cơ bản. Trong khi đó ở các nước phương Tây giáo dục giới tính lại được coi như là một môn học thực sự với số lượng các tiết học đáng kể. Pháp là một ví dụ điển hình khi cung cấp 30 đến 40h học về giáo dục giới tính cho các em học sinh.
Giáo dục giới tính ở độ tuổi phù hợp cũng là vấn đề cần được lưu tâm. Các em học sinh hiện nay được tiếp cận với giáo dục giới tính lần đầu tại bài giới thiệu về cơ thể người môn Sinh vật lớp 9 (chương trình cũ), lớp 8 (chương trình mới), tức là các em khoảng 15 - 16 tuổi. Thế nhưng ngày nay hiện tượng dạy thì sớm ở các em học sinh tiểu học 9-10 tuổi không còn là trường hợp hiếm gặp. Vậy liệu chương trình giáo dục giới tính 5 năm sau liệu có quá muộn không? Có khi lúc đó, các em đã biết hết các thông tin cần biết hoặc đã phải đối mặt với những rủi ro hoặc hậu quả đáng tiếc do thiếu kiến thức cơ bản về giới tính. Những bài học như thế liệu còn có hiệu quả?
Ở những nước phát triển như Mỹ, Hà Lan, Pháp... giáo dục giới tính được đưa vào giảng dạy từ rất sớm. Ngay từ cấp 1, các em học sinh đã quen thuộc với môn giáo dục giới tính như một môn học chính thức, quan trọng chẳng kém gì học toán hay học văn. Những bài học đầu tiên các em được giới thiệu về cấu tạo, chức năng các “cơ quan giới tính” của nam và nữ, tiếp đến là những biến đổi của cơ thể khi lớn lên, khi bước vào tuổi dậy thì. Nguyệt san, vỡ giọng, “rừng rậm” xuất hiện, những “giấc mộng ẩm ướt”... đều được lý giải một cách tường tận từ nguyên nhân, đến những trục trặc có thể xảy ra. Trường hợp “núi” phát triển, hay nguyệt san xuất hiện mà nghĩ bị… khối u, bị bệnh… sắp chết không bao giờ có ở thế giới của teens Mỹ. Đơn giản là vì các em đã hiểu rõ về cơ thể mình, về những biến đổi ngay cả khi nó chưa đến!
Thêm vào đó chương trình giáo dục giới tính còn được lồng ghép nội dung giáo dục đạo đức nhân nghĩa để trẻ biết quý trọng mạng sống và yêu quý người khác giới. Vào lớp 6, lớp 7, các bạn ấy đã hiểu thế nào là “XXX an toàn” và các biện pháp “né baby” hiệu quả với giáo trình riêng có minh hoạ và chú thích rõ ràng.
Tại Việt Nam, thi thoảng các em học sinh cũng được nhà trường cung cấp các chương trình giáo dục giới tính đặc biệt. Tuy nhiên chỉ trong một tiết học ít ỏi cùng với quyển cẩm nang dày chưa tới 10 trang thì những kiến thức về giáo dục giới tính mà chúng ta cung cấp cho các em còn khá hạn chế. Hơn nữa không phải bất cứ trường học nào cũng có những chương trình bổ ích như thế này. Ngoài ra hầu như các chương trình này chỉ dành cho học sinh nữ, còn học sinh nam lại bị bỏ qua một cách vô lý. Vậy các em học sinh nam sẽ trang bị kiến thức giới tính cho mình như thế nào. Đây có phải là lý do các em học sinh nam thường tìm đến các “web đen”, “ phim con lợn”, và các văn hoá phẩm đồi truỵ khác?
Việc tìm hiểu trên internet những băn khoăn thắc mắc về giới tính của các em không phải là một điều xấu nhưng trên thế giới mạng, với hàng loạt luồng thông tin đa chiều điều gì có thể khẳng định rằng các em sẽ không có những suy nghĩ lệch lạc để rồi dẫn đến những hậu quả đáng tiếc.
Bố mẹ không thể đứng ngoài cuộc
Trong bất kỳ một vấn đề nào liên quan đến giáo dục ngoài nhà trường thì vai trò của gia đình cũng hết sức quan trọng. Ở các nước phương Tây, việc nói chuyện xung quanh những chủ đề về giới tính, về “XXX” không có gì phải “lăn tăn”. Các em học sinh không hề thấy ngại ngần khi chia sẻ với bố mẹ. Không giống như văn hoá phương Tây cởi mở và phóng khoáng, văn hoá phương Đông có xu hướng khép kín hơn nhất là vấn đề giới tính và tình dục. Có lẽ bởi vậy mà vấn đề này không phải là câu chuyện dễ chia sẻ giữa cha mẹ và con cái. Giáo dục giới tính trong gia đình chỉ hạn chế trong những lời răn dạy về đạo đức và chỉ dừng lại ở góc độ dạy vệ sinh thân thể ở tuổi dậy thì. Còn lại giáo dục tình dục hầu như chưa bao giờ được đặt ra.
Bàn luận một cách thẳng thắn về giới tính vốn được coi là biện pháp hữu hiệu giúp làm giảm số trường hợp mang thai ở tuổi vị thành niên và lây nhiễm các bệnh truyền qua đường tình dục (STD), nhưng rất nhiều phụ huynh không thật sự tự tin để nói về chuyện này. Giấu giếm, lảng tránh không cung cấp thông tin về giới tính cho con cái mà lại cấm đoán con những chuyện yêu đương, quan hệ với bạn khác giới, tiếp xúc với các văn hoá phẩm đồi truỵ là cách mà các gia đình Việt chọn để giáo dục giới tính cho con mình. Liệu các ông bố bà mẹ có thể ngày nào cũng ở bên cạnh giám sát con em mình 24/24 không?
Một điều đáng chú ý khác là bản thân cha mẹ cũng thiếu thông tin về giáo dục giới tính, nên dù có muốn, có hiểu vấn đề thì họ cũng gặp nhiều khó khăn trong việc giáo dục con cái. Do đó, trẻ không được chỉ bảo, hướng dẫn những kiến thức tối thiểu về giới tính dẫn đến hệ luỵ khó lường.
Cha mẹ là những người bạn đồng hành cùng con cái. Nếu cha mẹ biết cách chia sẻ những thắc mắc của con cái trong quá trình phát triển thì sẽ giúp trẻ nâng cao năng lực và sức mạnh bản thân, có thái độ và hành vi đúng mực, đặc biệt là khả năng tự chịu trách nhiệm trước hành vi tình dục của bản thân. Đồng thời giúp cho trẻ đứng vững bằng những kiến thức và hiểu biết của chính mình trước khi lập gia đình. Quá trình giáo dục giới tính được thực hiện đồng bộ từ gia đình đến nhà trường chắc chắn sẽ giảm thiểu những nguy cơ về an toàn tình dục, tai biến sinh sản và đặc biệt là nguy cơ lây nhiễm các bệnh qua đường tình dục, đặc biệt là đại dịch HIV – AIDS sẽ giảm đi đáng kể, tạo nên một xã hội ổn định và phồn thịnh.
Chuyện trẻ con quan hệ tình dục sớm, không an toàn dẫn đến có thai hoặc mắc các bệnh xã hội đang là một vấn đề khiến cả gia đình, nhà trường và xã hội đau đầu. Nhìn lại mới thấy, ở Việt Nam, chuyện giáo dục giới tính còn quá khác xa so với nhiều nước trên thế giới…
Theo số liệu thống kê, hiện Việt Nam là một trong 3 nước dẫn đầu thế giới về tỷ lệ nạo phá thai với khoảng từ 1,2 đến 1,6 triệu ca nạo phá thai mỗi năm. Trong số đó độ tuổi vị thành niên chiếm 20%.
Trong phạm vi nhà trường, có rất nhiều quan điểm trái ngược nhau về vấn đề giáo dục giới tính và sức khoẻ sinh sản cho trẻ vị thành niên. Có những người cho rằng: đưa vấn đề giáo dục giới tính vào nhà trường là “ vẽ đường cho hươu chạy”. Vì thế họ cho rằng không cần phải giáo dục trong nhà trường mà để trẻ tự phát triển tự nhiên, đến lúc nào đó tự trẻ sẽ hiểu được.
Giáo dục giới tính không phải là vẽ đường cho hươu chạy. (Ảnh minh họa).
Giáo dục giới tính ở độ tuổi phù hợp cũng là vấn đề cần được lưu tâm. Các em học sinh hiện nay được tiếp cận với giáo dục giới tính lần đầu tại bài giới thiệu về cơ thể người môn Sinh vật lớp 9 (chương trình cũ), lớp 8 (chương trình mới), tức là các em khoảng 15 - 16 tuổi. Thế nhưng ngày nay hiện tượng dạy thì sớm ở các em học sinh tiểu học 9-10 tuổi không còn là trường hợp hiếm gặp. Vậy liệu chương trình giáo dục giới tính 5 năm sau liệu có quá muộn không? Có khi lúc đó, các em đã biết hết các thông tin cần biết hoặc đã phải đối mặt với những rủi ro hoặc hậu quả đáng tiếc do thiếu kiến thức cơ bản về giới tính. Những bài học như thế liệu còn có hiệu quả?
Ở những nước phát triển như Mỹ, Hà Lan, Pháp... giáo dục giới tính được đưa vào giảng dạy từ rất sớm. Ngay từ cấp 1, các em học sinh đã quen thuộc với môn giáo dục giới tính như một môn học chính thức, quan trọng chẳng kém gì học toán hay học văn. Những bài học đầu tiên các em được giới thiệu về cấu tạo, chức năng các “cơ quan giới tính” của nam và nữ, tiếp đến là những biến đổi của cơ thể khi lớn lên, khi bước vào tuổi dậy thì. Nguyệt san, vỡ giọng, “rừng rậm” xuất hiện, những “giấc mộng ẩm ướt”... đều được lý giải một cách tường tận từ nguyên nhân, đến những trục trặc có thể xảy ra. Trường hợp “núi” phát triển, hay nguyệt san xuất hiện mà nghĩ bị… khối u, bị bệnh… sắp chết không bao giờ có ở thế giới của teens Mỹ. Đơn giản là vì các em đã hiểu rõ về cơ thể mình, về những biến đổi ngay cả khi nó chưa đến!
Thêm vào đó chương trình giáo dục giới tính còn được lồng ghép nội dung giáo dục đạo đức nhân nghĩa để trẻ biết quý trọng mạng sống và yêu quý người khác giới. Vào lớp 6, lớp 7, các bạn ấy đã hiểu thế nào là “XXX an toàn” và các biện pháp “né baby” hiệu quả với giáo trình riêng có minh hoạ và chú thích rõ ràng.
Tại Việt Nam, thi thoảng các em học sinh cũng được nhà trường cung cấp các chương trình giáo dục giới tính đặc biệt. Tuy nhiên chỉ trong một tiết học ít ỏi cùng với quyển cẩm nang dày chưa tới 10 trang thì những kiến thức về giáo dục giới tính mà chúng ta cung cấp cho các em còn khá hạn chế. Hơn nữa không phải bất cứ trường học nào cũng có những chương trình bổ ích như thế này. Ngoài ra hầu như các chương trình này chỉ dành cho học sinh nữ, còn học sinh nam lại bị bỏ qua một cách vô lý. Vậy các em học sinh nam sẽ trang bị kiến thức giới tính cho mình như thế nào. Đây có phải là lý do các em học sinh nam thường tìm đến các “web đen”, “ phim con lợn”, và các văn hoá phẩm đồi truỵ khác?
Việc tìm hiểu trên internet những băn khoăn thắc mắc về giới tính của các em không phải là một điều xấu nhưng trên thế giới mạng, với hàng loạt luồng thông tin đa chiều điều gì có thể khẳng định rằng các em sẽ không có những suy nghĩ lệch lạc để rồi dẫn đến những hậu quả đáng tiếc.
Bố mẹ không thể đứng ngoài cuộc
Trong bất kỳ một vấn đề nào liên quan đến giáo dục ngoài nhà trường thì vai trò của gia đình cũng hết sức quan trọng. Ở các nước phương Tây, việc nói chuyện xung quanh những chủ đề về giới tính, về “XXX” không có gì phải “lăn tăn”. Các em học sinh không hề thấy ngại ngần khi chia sẻ với bố mẹ. Không giống như văn hoá phương Tây cởi mở và phóng khoáng, văn hoá phương Đông có xu hướng khép kín hơn nhất là vấn đề giới tính và tình dục. Có lẽ bởi vậy mà vấn đề này không phải là câu chuyện dễ chia sẻ giữa cha mẹ và con cái. Giáo dục giới tính trong gia đình chỉ hạn chế trong những lời răn dạy về đạo đức và chỉ dừng lại ở góc độ dạy vệ sinh thân thể ở tuổi dậy thì. Còn lại giáo dục tình dục hầu như chưa bao giờ được đặt ra.
Bàn luận một cách thẳng thắn về giới tính vốn được coi là biện pháp hữu hiệu giúp làm giảm số trường hợp mang thai ở tuổi vị thành niên và lây nhiễm các bệnh truyền qua đường tình dục (STD), nhưng rất nhiều phụ huynh không thật sự tự tin để nói về chuyện này. Giấu giếm, lảng tránh không cung cấp thông tin về giới tính cho con cái mà lại cấm đoán con những chuyện yêu đương, quan hệ với bạn khác giới, tiếp xúc với các văn hoá phẩm đồi truỵ là cách mà các gia đình Việt chọn để giáo dục giới tính cho con mình. Liệu các ông bố bà mẹ có thể ngày nào cũng ở bên cạnh giám sát con em mình 24/24 không?
Một điều đáng chú ý khác là bản thân cha mẹ cũng thiếu thông tin về giáo dục giới tính, nên dù có muốn, có hiểu vấn đề thì họ cũng gặp nhiều khó khăn trong việc giáo dục con cái. Do đó, trẻ không được chỉ bảo, hướng dẫn những kiến thức tối thiểu về giới tính dẫn đến hệ luỵ khó lường.
Cha mẹ là những người bạn đồng hành cùng con cái. Nếu cha mẹ biết cách chia sẻ những thắc mắc của con cái trong quá trình phát triển thì sẽ giúp trẻ nâng cao năng lực và sức mạnh bản thân, có thái độ và hành vi đúng mực, đặc biệt là khả năng tự chịu trách nhiệm trước hành vi tình dục của bản thân. Đồng thời giúp cho trẻ đứng vững bằng những kiến thức và hiểu biết của chính mình trước khi lập gia đình. Quá trình giáo dục giới tính được thực hiện đồng bộ từ gia đình đến nhà trường chắc chắn sẽ giảm thiểu những nguy cơ về an toàn tình dục, tai biến sinh sản và đặc biệt là nguy cơ lây nhiễm các bệnh qua đường tình dục, đặc biệt là đại dịch HIV – AIDS sẽ giảm đi đáng kể, tạo nên một xã hội ổn định và phồn thịnh.