Kazan (Ca-dăng) - James Oliver Curwood

5,621
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Kazan (Ca-dăng) - James Oliver Curwood

Chương XXI. CUỘC DI CƯ CỦA GIA ĐÌNH RĂNG SỨT



Cảnh đẹp của thời tiết vào lúc xuân tàn hạ tới tác động đến Kazan thế nào thì cũng tác động đến Sói Xám như vậy. Cả hai đều khao khát lên, lang thang dưới bầu trời rộng. Niềm say sưa được đi tha thẩn ám ảnh các dã thú lông dày và các dã thú có nanh của vùng Sơn Lâm, ngay sau khi lũ con vừa đẻ trong mùa xuân đã bỏ chúng để đi riêng lẻ một mình.

Vào một đêm trời đẹp, ngập ánh trăng sao, Kazan và Sói Xám cùng bỏ hốc cây rỗng và quyết định đi về phía rừng núi miền Tây, ngược theo cái thung lũng dẫn đến đầm lầy.

Hết ngày lại đêm chúng săn đuổi, bỏ lại trên đường đi phía sau không biết bao nhiêu là xác thỏ và đa đa ăn dở. Quả thật đây là mùa của thú vui săn, giết chứ không phải mùa của thiếu đói.

Cách mười dặm về phía tây, chúng giết được một con nai con. Chỉ ăn một bữa rồi chúng bỏ. Chúng phơi mình rất lâu ngoài nắng và mỗi ngày một béo nhẫy.

Với các loại thú khác, chúng không gặp trở ngại gì lắm. Vùng này không đủ rậm rạp, nên không có mèo rừng, cũng không có sói. Mèo cá, chồn nâu và chồnhôi rất nhiều dọc theo dòng nước, nhưng không nguy hiểm. Một hôm, chúng gặp một con rái cá già. Trong họ nhà rái, đây là một con thuộc loại khổng lồ. Sắp tới mùa hè nên nó đang thay lông, chuyển sang màu xám đất.

Kazan no nê, lười biếng, lơ đãng nhìn nó đi qua. Sói Xám hít hít trong không khí cái mùi cá thanh lợm từ con vật toát lên. Chúng chẳng quan tâm gì đến cái giống sống ở nước này vì nó chẳng hơn gì một khúc gỗ trôi vật vờ trên mặt nước. Chúng tiếp tục đi, không ngờ rằng, con vật to lớn kia, bề ngoài ngờ nghệch và có cái đuôi đen như than, rồi đây sẽ trở thành người bạn đồng minh của chúng trong một cuộc chiến đấu vì hằn thù, không đội trời chung, như thường xảy ra giữa các người chủ Sơn Lâm. Những cuộc chiến đấu bi thảm, kết thúc bằng sự sống còn duy nhất của kẻ mạnh, và nhân chứng chỉ có bầu trời lạnh lùng câm lặng, trong đó hình ảnh của chúng tan hoà với gió muôn phương.

Từ nhiều năm nay, không một người nào đến tại vùng cao của vùng thung lũng này, nên một đoàn hải ly cứ bình yên sinh đẻ ở đó.

Con đầu đàn là một tộc trưởng đáng tôn kính, mà một người da đỏ trong ngọn ngữ hình ảnh của mình sẽ không ngần ngại gọi nó là Răng Sứt. Vì trong bốn chiếc răng cửa dài mà giống hải ly vẫn dùng vào việc hạ cây cối để xây những con đê của chúng, thì bố giả bị mẻ mất một.

Đã sáu năm, Răng Sứt đếnđịa điểm này cùng với mấy con hải ly khác cùng tuổi; chúng đã cùng nhau xây đắp cái đập và hang ổ đầu tiên.

Tháng tư tiếp đó, dân số của đoàn đã tăng thêm được nhiều thành viên káhc.

Nếu thế hệ đầu tiên này cứ theo đúng quy luật thông thường của nòi giống, thì sau bốn năm, nó đã phải rời bỏ đàn để đi thành lập một đàn khác. Nhưng thấy chỗ ở vẫn tốt, nó cứ ở lại đây. Nó sinh con đẻ cháu tại chỗ. Đến nỗi bây giờ cứ như một đám dân cư quá đông đang chen chúc trong một thành phố bị bao vây.

Sang năm thứ sáu này tính ra đoàn có mười lăm hang ổ và hơn một trăm khẩu lại còn thêm những chú hải ly con, vừa đẻ vào dịp tháng ba tháng tư. Con đê chắn ngang dòng nước kéo dài đến hai trăm mét. Cả một vùng đất bị nước chắn tràn ngập, trở thành ao; từ đó ngoi lên đủ các thứ bạch dương, phong, trăn, liễu vỏ mềm và mầm xanh mơn mởn.

Diện tích bị ngập nước có rộng mấy đi nữa nhưng lượng thức ăn bình thường đó của đám hải ly cũng không thể nào đủ để nuôi sống số vật quá đông đúc kia. Khắp nơi chỉ thấy toàn những cây non, cây già bị gặm đến tận lõi.

Cũng như con người, vì lòng yêu mến nơi chôn nhau cắt rốn, lũ hải ly bịn rịn chưa thể quyết định di cư được. Hang của Răng Sứt lòng rộng gần ba mét đường kính, và trong cái khoảng chật chội đó, sống chung vừa con vừa cháu tất cả hai mươi bảy con.

Vì vậy lão tộc trường định bỏ bộ tộc của mình, để đi kiếm ăn nơi khác. Trong khi Kazan và Sói Xám lơ đãng hít hít những mùi khăm khẳm bốc lên từ cái thành phố hải ly đó, thì Răng Sứt cũng đang tập hợp gia đình lại xung quanh, nghĩa là vợ, hai trong số các con, và lũ lau nhau của chúng, để lên đường di tản.

Răng Sứt luôn luôn được công nhận là thủ lĩnh của toàn đoàn. Không một con hải ly nào khác trong đoàn to khoẻ như nó. Cái thân hình lực lưỡng của nó dài đến một mét có dư và nặng trên dưới ba mươi cân. Cái đuôi bèn bẹt của nó rộng hơn mười phân, dài ba mươi nhăm phân; khi nó quật nước giữa một đêm thanh vắng, thì cách xa đến một dặm người ta vẫn nghe rõ tiếng đập vào nước. Hai chân sau của nó có màng da rộng, to gấp đôi chân vợ nó, không một tay bơi lội nào có thể thi tài với nó.

Đêm hôm sau, giữa lúc Kazan và Sói Xám tiếp tục lần mò dọc theo dòng nước, Răng Sứt ra khỏi nước, trèo lên đê, vẫy mình, nhìn xem bầu đoàn thê tử đã chỉnh tề đội ngũ chưa.

Dưới ánh trăng trong, nước ao lấp lánh ngàn sao, khẽ gợn lên sau lưng nó vì có những thân hình đang bơi đến với nó trên đê. Vài con hải ly khác đến thêm với gia đình. Khi tất cả đã tập hợp đông đủ, lão trượng tôn kính liền chúc đầu xuống dòng nước, phía đối diện với ao, thế là các thân hình mượt mà bóng nhẫy của đám di cư bắt đầu xuôi theo dòng nước. Lũ hải ly bé mới ba tháng cũng bơi như bố mẹ và vấtvả lắm mới không bị cách quãng. Răng Sứt rẽ nước, dẫn đầu, rất tư thế. Sau nó đến lớp hải ly lớn. Đàn mẹ con đi chặn hậu. Tất cả bốn chục đầu.

Suốt đêm, cuộc hành trình vẫn tiếp tục không sự cố. Con rái cá to nấp trong một rặng liễu dày, để mặc cho đoàn lữ hành đi qua, không tấn công vào nó.

Do một sự sắp đặt kỳ lạ của thiên nhiên, thường thường vượt ra ngoài hiểu biết của con người, rái cá là kẻ thù không đội trời chung của giống hải ly và còn đáng sợ cho hải ly hơn cả con người. Là giống ăn cá, đồng thời nó lại giữ gìn cho giống này khỏi bị tiêu diệt. Một bản năng bí mật hẳn đã dạy cho nó biết là những con đê do hải ly đắp, chắn ngang dòng nước tự nhiên của sông ngòi, ngăn cản sự di chuyển của cá trong dịp sinh đẻ. Một mình không thể chọi được với những bộ tộc đông đúc của kẻ thù, nó ra công ngấm ngầm phá hoại công trình của chúng. Nó tiến hành như thế nào, đó là điều chúng ta sẽ thấy.

Suốt đêm, nhiều lần, Răng Sứt ngừng bơi để quan sát bờ nước, xem có nhiều cây có vỏ mềm không, và quyết định có nên nghỉ chân hay không.

Nhưng ở đây loại vỏ mềm đó không nhiều lắm. Chỗ kia lại không tiện cho việc đắp một con đê, vì người ta biết bản năng kỹ sư của hải ly thường thắng cả sự cám dỗ của thức ăn. Về mặt này, toàn đoàn đều tin tưởng vào sự nhận định của Răng Sứt, không tranh cãi, và không mặt nào nghĩ đến chuyện ở lại sau, khi Răng Sứt tiếp tục đi nữa.

Bình minh vừa hắt những ánh lửa đầu tiên thì cả đoàn đến chỗ đầm lầy mà Kazan và Sói Xám trước đã chọn làm chỗ trú ngụ. Theo quyền của kẻ chiếm trước, thì phạm vi đảo con và mảnh đất xung quanh thuộc về Kazan và Sói Xám không phải bàn cãi. Khắp nơi chúng đều có để lại dấu vết về quyền hạn của chúng.

Nhưng Răng Sứt là giống ở nước, và khứu giác của nó vốn không nhạy lắm nên không bận tâm đến các con vật trên đất liền. Có dừng lại ngay trước cái cây rỗng đã dùng làm ổ cho Kazan và Sói Xám, rồi trèo lên bờ. Ở đây, nó đứng thẳng trên hai chân sau, và tì lên cái đuôi to nặng bắt đầu lắc la lắc lư ra vẻ hài lòng.

Địa điểm thật là lý tưởng để xây dựng khu định cư. Làm một con đê chắn ngang dòng nước, phía dưối hòn đảo con một tí, đảo sẽ dễ dàng bị ngập, cùng với số thức ăn dự trữ là các cây dương, cây liễu sẵn có của nó. Hàng cây dày đặc kia là một tấm màn che chắn gió phía bắc, và hứa hẹn một nhiệt độ ôn hoà trong mùa đông giá.

Răng Sứt lập tức ra hiệu cho đoàn hiểu đây là nơi định cư thích hợp. Thế là mạnh con nào con nấy trèo lên đảo vào bờ trước mặt. Lũ hải ly tí nhau vớ được lớp vỏ nào là bắt đầu không chút nể nang thi nhau gặm nhấm bằng thích. Cánh hải ly lớn, ăn vài ba miếng rồi bắt tay ngay vào việc. Ngay ngày hôm ấy, dưới sự hướng dẫn của Răng Sứt, chúng khởi công xây dựng.

Răng Sứt chọn ngay cho mình một cây bạch dương to mọc sát mép dòng nước, và dự định cắt ngang gốc. Tuy gãy mất một răng, nó biết khéo léo sử dụng ba răng còn lại mà tuổi tác chưa hề làm suy suyển.

Răng hải ly sắc như đục thép. Một lớp men cứng, không bao giờ bị tróc, bọc ngoài răng. Lớp bên trong, cấu tạo bằng một thứ ngà mềm hơn, hàng năm mòn đến đâu lại tái sinh đến đấy.

Ngồi bệt xuống, hai chân trước bám vào thân cây, và tì thật vững lên cái đuôi. Răng Sứt cong lưng xuống gặm như cưa quanh thân cây một vòng, vòng này cứ nhỏ dần, nhỏ dần. Nó làm liên tục mấy giờ liềnvà cuối cùng, lúc nó dừng răng để nghỉ thì một chú thợ khác lại đến thay phiên làm tiếp.

Những chú hải ly lớn khác, trong thời gian ấy, lo cắt những cây nhỏ hơn. Cây đầu tiên ầm ầm đổ xuống nước là một cây phong non.

Cây dương to, gốc bị khoét rỗng nom như một cái đồng hồ cát, lâu đổ nhất. Phải mất hai mươi tiếng đồng hồ mớix ong. Cuối cùng nó đổ nằm ngang dòng nước, đúng chỗ dự định.

Suốt tuần lễ đó, bộ lạc nghỉ ngơi rất ít. Theo nguyên tắc, hải ly thích làm đêm hơn, nhưng nếu cần, nó cũng biết thích nghi hoàn cảnh làm cả ban ngày.

Với một đầu óc thông minh gần như người, mấy chú kỹ sư nhỏ rất chịu khó trong công việc. Nhiều cây non bị hạ và cắt thành khúc dài độ hơn một thước. Sau đó lũ hải ly dùng đầu và chân đẩy lăn những khúc cây này đến tận dòng nước, sát vào cây dương to, bao nhiêu cành con và lá um tùm đều dùng để chèn lót.

Hoàn thành xong cái sườn đê thì bắt đầu công việc củng cố. Về phương diện này, hải ly là thầy của con người, những gì chúng xây đắp chỉ có mìn mới có thể phá vỡ.

Vừa nghiền vừa mang đến, mỗi lần từ vài ba lạng đến nửa cân, một thứ hỗn hợp bùn với cành con ngậm trong mồm phía dưới cằm gấp lại thành hình túi. Bằng thứ vữa đó chúng học nhau trát kín tất cả các kẽ hở còn lại trên sườn đập, giữa thân cây và lớp cành con.

Có vẻ đây là một khối lượng công việc vô cùng to lớn. Nhưng trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ, đội quân xây dựng của Răng Sứt có thể vận chuyển được một tấn chất xi măng kia. Hết ngày thứ ba, đập bắt đầu hoạt động, nước bắt đầu dâng, và dòng nước bắt đầu tràn sang phải sang trái.

Từ nay, công việc nhờ vậy mà dễ hơn, vật liệu xây dựng cũng được vận chuyển thoải mái hơn vì đàn hải ly đẩy trôi chúng trên mặt nước. Đống gỗ được chất cao dần, khúc nọ tiếp khúc kia, chẳng mấy lúc con đê vươn dài trên một quãng đến hơn ba mươi mét.

Đoàn hải ly vừa làm đến đấy thì một buổi sáng đẹp trời, Kazan và Sói Xám trở về chỗ trú ngụ cũ.
 
5,621
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Kazan (Ca-dăng) - James Oliver Curwood

Chương XXII. CHIẾN ĐẤU CHỐNG QUÂN XÂM LĂNG



Còn cách nơi ở chừng nửa dặm thì một ngọn gió nhẹ từ phía nam đưa đến mũi Sói Xám cái mùi của lũ không mời mà đến.

Để báo hiệu, nó khẽ chạm vào vai Kazan. Đến lượt mình, Kazan cũng nhận thấy cái mùi káhc lạ, mỗi lúc mỗi tăng khi chúng cần đến gần đó.

Còn cách bọn hải ly hai trăm mét, chúng bỗng nghe tiếng cây đổ răng rắc và tiếng nước bắn khi cây đổ. Chúng đứng sững lại và, mất đến một phút, chúng lắng nghe, thần kinh căng thẳng. Rồi lại tiếp tiếng nước tung toé, kèm tiếng chí choé liên tục.

Sói Xám ngoảnh đôi mắt mù nhìn Kazan. Hơn hẳn bạn, nó biết rõ là chuyện gì và chỉ ước ao có thể nói cho bạn rõ.

Cả hai lại thong thả bước. Lúc chúng đến chỗ trước kia là một hòn đảo nhỏ, có nước bao quanh, với gốc cây rỗng đã từng bao lâu che chở chúng. Kazan hết sức hoảng hốt trước sự đổi thay kỳ diệu đã xảy ra trong thời gian chúng đi vắng. Nước phủ khắp mặt đất thành một cái ao, làm ngập hết cả cây cối và bụi rậm.

Kazan và Sói Xám lẳng lặng bước tới, cánh thợ thuyền của Răng Sứt vẫn không hay biết gì cả. Bản thân Răng Sứt cũng đang rất bận hạ cây. Cạnh nó, bốn năm chú hải ly tí nhau đang đùa nghịch đắp một con đê bé tí, với bùn và những cành cây con. Trên đê to, một số hải ly bé khác, tuổi có hơn đôi tí, nhưng chưa lớn, trèo leo, đùa nghịch như chơi cầu trượt, để cuối cùng lộn phộc xuống nước. Chính trò nhào lặn và những tiếng reo vui của chúng đã đến tận tai Kazan và Sói Xám.

Bọn hải ly lớn đang bận làm ở chỗ này chỗ nọ. Những cảnh tương tự thế, hồi ở phía trên thung lũng, Kazan cũng đã thấy khi đi gần đoàn hải ly thứ nhất. Hồi ấy nó không chú ý đến việc đó.

Hôm nay không phải thế nữa. Bọn hải ly đối với nó không còn là những con vật ở nước đơn thuần, thịt dai ngoét, không ăn được và xông mùi khó ngửi. Đây là những kẻ xâm chiếm đất đai của nó, tức là những kẻ thù, cho nên bao nhiêu nanh của nó đều lẳng lặng nhe ra. Lông lưng nó dựng đứng như bàn chải, cơ bắp ở chân trước và ở vai căng thẳng như dây đàn và, không một tiếng rống sủa, nó lao bổ vào Răng Sứt.

Lão trượng không hay biết gì đến mối nguy cơ đang đe doạ. Nó chỉ trông thấy Kazan vài giây trước khi bị tấn công. Nó dừng việc cưa cây; nhưng cử động trên đất liền thì chậm chạp, nó hình như do dự một lát. Kazan đã đè lên người nó lúc nó lăn tùm xuống dòng nước.

Một trận giáp lá cà nhanh như chớp giữa lão hải ly và kẻ gâychiến. Nhưng Răng Sứt trượt như dầu dưới bụng Kazan và chỉ thoắt một cái đã nằm an toàn trong công sự, với hai vết cắn sâu trên cái đuôi nung núc thịt.

Kazan hết sức kinh ngạc trước thất bại của mình và trước việc chuồn mất của kẻ thù không tóm được. Náo động và sợ hãi vì cảnh tượng vừa trông thấy, lũ hải ly tí nhau ở trên bờ đứng đực ra tại chỗ. Mãi lúc Kazan lao vào, chúng mới tỉnh người ra.

Ba trong số năm con kịp thời nhảy xuống nước. Còn hai con kia, muộn quá. Chỉ táp một cái, Kazan đã cắn gãy đôi lưng một chú. Còn chú nữa, Kazan đớp ngay vào cuống họng, lắc lắc trên không như một con chó săn lắc một con chuột đồng.

Sói Xám nghe được tiếng trận chiến ngắn ngủi, đến ngay vớibạn. Nó ngửi ngửi hai cái xác nhỏ đã chết và khe khẽ rên rỉ. Chắc hẳn hai con vật bé bỏng kia đang gợi lại cho nó hình ảnh mấy đứa con bị mèo rừng cắn chết trên Núi Mặt Trời, và Baree đã ra đi, vì trong tiếng rên rỉ của nó, như có niềm đau xót của người mẹ.

Nhưng nếu Sói Xám có những hình ảnh nặng tình cảm kiểu đó, thì Kazan lại không thế. Trước hai con vật bé bỏng đã dám xâm chiếm đất đai, nó tỏ ra lạnh lùng không thương xót, cũng như con mèo rừng trước đây đã xử sự với lứa con đầu tiên của Sói Xám. Chiến thắng đối với kẻ thù càng kích thích lòng khát máu của nó. Nó giận run lên, men theo bờ ao, gầm gừ với làn nước đục dưới đó Răng Sứt đã trốn mất.

Cả đoàn hải ly cũng đều lẩn trốn trong nước như thế, mỗi khi chúng bơi ngầm ở dưới, mặt nước lại khẽ gợn lên.

Kazan đi đến một đầu đập. Nó thấy mớilạ quá. Nhưng bản năng báo cho nó biết đây là công trình của Răng Sứt và bè lũ. Nó điên cuồng cào phá một lúc lâu những khúc gỗ và các cành con chằng chịt. Bất chợt, cách bờ độ mười lăm mét, ở quãng giữa đê, nước xáo động rồi cái đầu to tròn của Răng Sứt nổi lên.

Trong nửa phút, cả con hải ly, cả Kazan đều căng thẳng nhìn nhau thách thức. Rồi, rất bình thản, Răng Sứt nhô khỏi mặt nước cái thân hình ướt đẫm và bóng nhẫy, đoạn trèo lên đỉnh đê, nằm dài, nhìn thẳng vào Kazan.

Nhà kỹ sư già có mỗi một mình. Không một con hải ly nào khác dám ló ra nữa. Mặt ao lúc này không có chút gợn.

Kazan cố tìm mà không được một lối nào để tiếp cận tên địch cứ như thách thức nó. Nhưng iữa bức tường chắc chắn của con đê chính với bờ nước, chỉ có một cái sườn mắt cáo, nước cuồn cuộn chảy như qua những cửa cống mở nhỏ.

Ba lần Kazan cố lách lấy một lối đi qua mớ cành cây chằng chịt ấy, ba lần nó ngã tòm xuống ao.

Lão trượng trong thời gian đó vẫn không nhúc nhích. Cuối cùng, thấy Kazan thất vọng, thôi không tấn công nữa, Răng Sứt mới trườn lên mép đê và biến xuống dòng nước. Con hải ly ranh mãnh biết rằng Kazan, cũng chẳng hơn gì mèo rừng, không thể nào chiến đấu trong nước, liền đi loan báo cái tin lành đó cho các thành viên khác trong bột tộc biết.

Kazan trở về với Sói Xám. Nó nằm bên cạnh bạn, ngoài nắng và lại để ý quan sát.

Nửa giờ sau, nó thấy trên bờ đối diện Răng Sứt lại nhô ra khỏi mặt nước. Bọn hải ly khác đi theo nó và tất cả lại cùng nhau bắt tay vào công việc, như không có gì xảy ra. Tốp này lại bắt đầu cưa cây, tốp kia làm lưới ao, vận chuyển, sắp xếp vữa và cành con. Giữa ao là vạch tử địa của chúng. Không một con nào vượt qua vạch ấy.

Đến mươi mười hai lần, một trong số những hải ly bơiđến tận chỗ vạch đó, dừng lại nhìn những thân hình bé tí mà Kazan đã cắn chết và vẫn nằm trên bờ. Chắc hẳn đấy là con mẹ, muốnđến với những nạn nhân vô tội mà không dám.

Kazan đã hơi nguôi nguôi, nằm suy nghĩ về những con vật kỳ dị trước mắt, đi được cả trên đất, cả dưới nước. Chúng không giỏi về chiến đấu; đánh với một mình nó, chúng tuy đông mà vẫn lẩn chạy như thỏ khi nó sắp chộp được chúng. Trong trận giáp lá cà, Răng Sứt cũng không dùng răng để chống lại nó.

Nó kết luận được rằng với lũ xâm lăng này phải dùng lối săn nấp, như đối với thỏ và đa đa. Thế là chiều hôm đó, nó lên đường cùng với Sói Xám.

Theo một mưu mẹo quen thuộc với sói, nó bắt đầu lảng xa con mồi muốn bắt và thoạt tiên đi ngược dòng đập của bọn hải ly, bao nhiêu chỗ lội nó thường qua lại đều không dùng được nữa.

Đi được một dặm, nó đành quyết định bơi qua; Sói Xám sợ nước, bị bỏ rơi trên bờ. Sang đến bên kia, nó lại lẳng lặng đi xuôi, cách xa dòng nước độ một trăm mét.

Phía bên này con đê, liễu mọc thành lùm dày chi chít. Kazan lợi dụng điểm đó. Nó có thể lần tới mà không bị phát hiện, và nằm bẹp xuống, sẵn sàng phóng ra khi cơ hội đến.

Lúc này phần đông thành viên trong bộ tộc hải ly đang làm việc dướinước. Chỉ có bốn năm con trên bờ. Kazan sắp nhảy vào chúng nhưng, đến phút cuối, nó lại quyết định tiến tới ít nữa về phía con đê. Nó được lùm cây che rất kín, chiều gió lại có lợi cho nó. Tiếng nước lách tách bắn qua mắt cáo đập, làm tắt hẳn tiếng chân bước của nó.

Ở bờ bên này công việc xây đập còn dở dang và, chỉ cách mép nước có mấy bước, Răng Sứt đang cùng với cánh thợ tấp nập làm việc. Lão hải ly đang loay hoay đặt một khúc gỗ to bằng cánh tay vào vị trí, bận rộn đến mức không trông thấy cái đầu và vai của Kazan nhô lên khỏi bụi rậm.

Chính một con hải ly khác vừa báo động vừa lập tức chúi đầu nhảy tùm xuống nước. Răng Sứt vừa ngẩng đầu lên đã gặp ngay hàng nanh trắng nhởn của Kazan. Muộn quá rồi, Kazan men theo một cây dương nhỏ nằm ngang, đã phi thẳng lên mình nó.

Nhưng lão già vốn có nhiều mưu lắm ngón, ngửa người ra đằng sau, bằng một động tác gấp, lão làm cho Kazan mất thăng bằng. Đồng thời răng lão sắc như đục thép tóm chắc được vào cuống họng con chó sói. Quấn chặt vào nhau, hai con thú cùng lăn tùm xuống nước.

Như ta đã biết Răng Sứt nặng đến ba mươi cân. Ngay khi lăn xuống ao, nó được trở về với môi trường thích hợp của mình và, bám riết lấy cuống họng Kazan, nó tự để chìm xuống đáy như một tảng chì, kéo luôn theo cả địch thủ.

Nước ập vào mõm, vào tai, vào mắt, vào mũi Kazan. Nó không nhìn thấy gì nữa. Nó tắc thở. Tất cả mọi giác quan đều hỗn loạn. Nhưng đáng lý phải vùng vẫy thoát ra cho nhanh, thì nó lại khăng khăng không chịu nhả Răng Sứt, cố nhịn và càng nghiến chặt nanh thêm.

Chỉ chớp nhoáng nó đã chạm đến đáy ao mềm nhũn lầy lụa và bắt đầu lún sâu trong bùn.

Thế là nó hoảng hốt, hiểu ngay đang ở trong thế một sống một chết. Nó buông vội Răng Sứt ra, chỉ nghĩ đến việc ngậm chặt mõm lại, để khỏi bị nước làm tắc thở. Bằng tất cả sức mạnh của tứ chi lực lưỡng, nó chống đỡ để thoát khỏi địch thủ, để ngoi lên mặt nước, trở về với không khí trong lành, với cuộc sống.

Dự định đó, trên đất liền thì dễ, ở đây khó khăn kinh khủng. Dưới nước con hải ly già bám chặt còn đáng sợ hơn cả mèo rừng trên đất. Tai hoạ dồn dập! Một con hải ly thứ hai, lớn khoẻ, đang theo sóng nước bơi tới. Nó mà hợp lực với Răng Sứt thì hết đời Kazan. Nhưng số phận lại quyết định một cách khác.

Lão trượng không có tính thù dai. Nó không khát máu, cũng không thích cắn giết. Giờ đây thoát khỏi kẻ thù quái đản đã hai lần nhảy vào nó, và lúc này không thể nào làm hại nó được nữa, nó không còn lý do gì để giữ Kazan dưới nước. Nó há cái mõm nhỏ ra.

Đối với bố của Baree, đã ba phần tư chết đuối đến nơi, điều đó không phải là quá sớm. Tuy vậy nó cũng ngoi được lên mặt nước, và bám hai chân trước vào một khúc cây con trên đập, nó cố giữ cái đầu khỏi ngập nước suốt mười phút, mãi cho đến lúc hít đủ không khí và lấy đủ sức lực vào tới bờ.

Nó mệt nhoài. Chưa bao giờ ướt sũng như thế, nó run bần bật cả bốn chân. Hàm dưới sệ ra. Nó đã bị đánh bại, đánh bại “không còn manh giáp”. Mà kẻ chiến thắng nó lại là một con thú thuộc nòi giống thấp kém hơn nó. Nó thấm thía hết tất cả nỗi nhục nhã. Thảm hại, gần như không lết nổi, nó đi ngược dòng nước, và phải bơi qua đê trở về với Sói Xám vẫn đang chờ nó.
 
5,621
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Kazan (Ca-dăng) - James Oliver Curwood

Chương XXIII. CON RÁI CÁ KHOÉT MỘT LỖ THỦNG


Vài hôm sau, Kazan đã lấy lại đủ sức khoẻ và hoàn toàn bình phục. Nhưng lòng căm thù đối với lũ hải ly đáng nguyền rủa chỉ càng thêm sâu sắc. Đối với nó, tiêu diệt kẻ thù đã trở thành một ý nghĩ ám ảnh ngày đêm làm đảo lộn đầu óc.

Kích thước đạp mỗi ngày một to kinh khủng. Công cuộc hàn gắn con đê triển khai sâu thêm dưới nước nhờ công sức liên tục khẩn trương của các kỹ sư bốn chân. Có ba cái hang đã nhô cao lên. Mỗi một ngày qua, nước lại dâng lên cao hơn, mặt ao cứ đều đặn lan rộng mãi, nhận chìm tất cả.

Hễ không bận săn bắt miếng ăn cho bản thân và Sói Xám, Kazan lại nằm rình. Lúc nào nó cũng lần mò quanh ao, tìm cơ hội thuận lợi để giết một thành viên dại dột nào đó của bộ tộc Răng Sứt.

Chính bằng cách đó Kazan đã chộp được và cắn chết một con hải ly to đi quá xa bờ. Ba hôm sau. lại đến lượt ba chú hải ly con, đang vùng vẫy trong bùn cách bờ độ vài bước. Kazan điên tiết đã thực sự xé nát chúng ra từng mảnh.

Răng Sứt bèn quyết định hchỉ làm ban đêm, còn ban ngày toàn thể bộ tộc cứ ở trong hang. Kazan không vì thế mà chịu thua. Vối tài săn đêm nên hai đêm liền, nó lại giết được hai con hải ly. Vậy là trong bảng thành tích nó đã ghi được bảy tên, khi con rái cá nhảy vào sân khấu.

Chưa bao giờ Răng Sứt lại đứng giữa hai kẻ địch quyết liệt và dữ tợn hơn cái bọn đang bám riết lấy nó lúc này. Trên đất liền, Kazan là bực thầy của nòi giống nó nhờ nhanh nhẹn, thính hơn, và mưu mẹo trong chiến đấu hơn. Dưới nước thì rái cá là mối đe doạ tệ hại nhất.

Ở nước, rái cá còn nhanh hơn cá, là thức ăn chính của nó. Răng rái cá nhọn như những mũi kim thép. Da rái cá lại nhẵn bóng, trơn tuột, đến mức bọn hải ly dù đông đến mấy cũng không thể cản đựợc nó tuột khỏi qua chân.

Không hơn gì hải ly, rái cá cũng không khát máu. Ấy thế mà, trong toàn cõi bắc địa, nó là giống tiêu diệt hải ly ghê gớm nhất. Đối với chúng, nó là kẻ thù quái ác, nguy hại nhất.

Chính trong những đợt rét dữ dội trong mùa đông, rái cá thực hiện công việc khủng khiếp nhất của nó. Nó không tấn công bọn hải ly ngay trong hang ổ ấm áp của chúng. Nhưng cũng như con người sử dụng mình nổ, nó khoét một lỗ thủng trong thân đê, dưới mặt băng. Thế là mức nước lập tức hạ xuống, băng đá rã ào ào, và hang ổ nhô ra trơ trụi. Lũ hải ly chẳng mấy clúc chết rét trong hang. Vì mặc dù có bộ lông dày, giống thú này rất sợ nhiệt độ thấp thường hạ xuống đến bốn năm mươi độ âm trong trong mùa đông ở Canada. Đối với chúng, nước và băng để chống đỡ lại cái rét ngoài trời cũng cần như lửa đối với con người.

Hai ngày ròng rã, con rái cá cứ ngược xuôi xung quanh con đê và dòng nước ao sâu. Kazan, tưởng nó là một con hải ly, cố rình bắt nó nhưng không được. Về phía mình, con rái cá rất dè dặt nhìn Kazan và lúc nào cũng đứng ngoài tầm của Kazan. Không con nào nhìn nhận con nào làm đồng minh cả.

Lũ hải ly vẫn tiếp tục công việc, dè dặt gấp bội, nhưng không một phút nào bỏ việc. Mực nước vẫn dâng.

Ngày thứ ba, bản năng phá hoại của con rái cá quyếtđịnh phải hoạt động. Nó nhảy xuống nước, dùng cái đầu nhỏ sục sạo khắp nơi, và ra công xem xét phía dưới móng đê. Chẳng mấy lúc, khám phá ra một điểm yếu, nơi gỗ, xi măng hợp thành một khối kém đồng nhất và, với những cái răng nhỏ nhọn, nó bắt đầu công việc đào khoét.

Từng phân từng phân một, cứ đào cứ gặm tới mãi, nó lách được một lối đi trong con đê. Cái lỗ nhỏ tròn do nó khoét rộng gần hai mươi phân đường kính. Sau sáu giờ làm việc, con đê hoàn toàn bị xuyên thủng.

Thế là, qua lối thoát đó, nước ùa sang, như nước trong thùng tô nô ồng ộc chảy qua lỗ lù. Kazan trông thấy con rái cá, thoả mãn về công trình, ngoi ra khỏi nước, trèo lên đê, ngồi vầy nước. Chỉ trong nửa tiếng, mức nước ao hạ xuống trông thất và do áp lực của nước, cái lỗ thoát tự nó cứ rộng mãi ra.

Lại nửa giờ nữa, ba cái hang cũng khô và lớp bùn dưới hang hiện ra.

Mãi đến lúc ấy Răng Sứt mới bắt đầu lo sợ. Hốt hoảng, nó tập hợp đoàn lại quanh nó. Lũ hải ly chạy ngược chạy xuôi, điên cuồng bơi lội lung tung, không để ý gì đến Kazan và Sói Xám nữa. Một con hải ly to vừa đến gần, lập tức Kazan, có Sói Xám theo sau, chỉ hai nhảy đã ở trên mình nó. Cuộc chiến diễn ra nhanh gọn và tàn nhẫn; thoáng một tí bầy hải ly đã trông thấy người anh em của chúng bị cắn gãy cổ. Chúng liền đổ xô cà về phía bờ bên kia.

Trong khi ấy, Răng Sứt, cùng với số thợ giỏi nhất, đã lăn xuống dòng nước còn lại, phía dưới đê, cố tìm cái lỗ rò để bịt lại thật nhanh. Lúc này con rái cá đã rút lui.

Công việc phải làm rất khó khăn và, lũ hải ly, sau khi gặm cho vừa kích thướcm phải lôi qua lớp bùn một số cành cây. Ngoài ra, trong cuộc chiến đấu để giành giật lấy cuộc sống này còn phải phơi mình ra chống chọi với nanh vuốt Kazan và Sói Xám. Đôi bạn cứ bì bõm trong bùn, cố lần ra thật xa bờ và hăm hở trong việc lùng giết. Trong buổi chiều, năm con hải ly lớn khác và một chú hải ly tí nhau lại gục xuống và bị xé xác.

Cuối cùng, Răng Sứt bịt được lỗ rò, nước lại bắt đầu lên và cuộc tàn sát chấm dứt.

Con rái cá to, đi ngược dòng nước, đã nằm cách đó độ nửa dặm để nghỉ ngơi. Ruỗi dài trên một gốc cây, nó sưởi mình dưới những tia nắng cuối cùng của chiều tà. Ý đồ của nó là ngay ngày mai sẽ lại đi xuống chỗ ngọn đê, tái diễn cái trò đục khoét. Đây là phương pháp quen thuộc và trò vui riêng của nó.

Nhưng người trọng tài kỳ dị và không ai trông thấy được, người mà dân da đỏ gọi là Ô-xơ-ki hay “Thần linh”, cuối cùng cũng chiếu cố đến Răng Sứt và bộ tộc khốn khổ của nó.

Thấy ao lại đầy, Kazan và Sói Xám cũng quyết định đi ngược dòng nước, tìm những con hải ly khác để giết, nếu vô phúc có con nào lạc về phía ấy.

Như ta đã nói con rái cá này to, màu xám và đã già rồi. Trong mười năm nó đã sống để chứng tỏ cho con người biết là nó tinh quai láu lỉnh hơn họ. Biết bao thợ săn đã đặt bẫy để bắt nó mà không kết quả. Trong các lòng suối, lòng khe, những thợ bẫy mưu mẹo đã không khéo dùng gỗ khúc và đá to xếp thành những hành lang rồi đặt ở cuối đường những cái hàm thép. Lúc nào nó cũng làm cho mấy ngài bẫy thú bị tưng hửng.

Rất ít thợ săn trông thấy nó. Nhưng dấu chân nó để lại trên bùn hoặc trên lớp cuội cũng đủ nói lên tầm vóc nó. Nếu nó không biết tự bảo vệ như thế, thì tấm da mùa đông mịn màng tuyệt vời của nó từ lâu đã lên đường về với những cửa hàng lộng lẫy của châu Âu! Vì bộ lông của nó quả thật xứng đáng với một quận công hoặc một nữ công tước, với một đức vua, hay một hoàng đế. Mười năm ròng nó đã biết sống và thoát khỏi sự thèm khát của bọn nhà giàu.

Nhưng vào buổi chiều hè đó, nó lại mất cảnh giác. Làm gì có người thợ săn nào để giết nó vì về mùa này bộ da của nó không có chút giá trị nào cả. Điều đó, bản năng và thiên nhiên bảo cho nó biết. Vì thế phần vì mệt mỏi và phần vì ngây ngất ánh nắng ấm áp, dã dày lại căng đầy cá mà nó đang bận tiêu hóa, nó ngủ một cách say sưa, thanh thản, chườn ườn trên gốc cây ở đầu dòng nước.

Bước nhẹ như ru, Kazan cùng với Sói Xám đi đến. Gió rất thuận không phản bội chúng và chẳng mấy lúc đưa đến cho chúng mùi tanh của con rái cá.

Chúng thấy đó là mùi của một con thú ở nướcm một mùi tanh hôi của cá, và chúng yên trí sẽ gặp một trong số kẻ thù đuôi to. Chúng càng phải khôn ngoan dè dặt và đến được trước mặt con rái cá, không một tiếng động. Kazan chợt đứng sững lại và, để báo hiệu, đưa vai khẽ chạm vào sói mù.

Tia nắng cuối cùng xuyên qua cành lá đã tắt và hoàng hôn bắt đầu xuống. Trong cánh rừng đang tối dần, một con cú cất tiếng khàn khàn đầu tiên chào đón bóng đêm. Trên gốc cây con rái cá cựa mình. Nó có cảm giác khó chịu và nheo cái mõm tua tủa râu lại. Nó sắp tỉnh dậy thì Kazan đã nhảy bổ vào nó.

Diện đối diện, trong một đọ sức đàng hoàng, con rái cá còn có thể tự vệ và tỏ rõ tài sức của mình. Nhưng Sơn Lâm lần này đã quyết định là nó phải chết. Ô-xơ-ki, vị Thần linh tối cao và phép tắc vô cùng, đang đè nặng lên nó. Ngài còn đáng sợ hơn cả con người nên nó không có cách nào thoát khỏi ngài.

Bao nhiêu nanh Kazan đều cắm sâu vào mạch máu cổ con rái cá. Nó chết ngay tức khắc, không kịp biết ai đã nhảy vào nó. Còn Kazan và sói cái thì lại tiếp tục công việc tìm kiếm hải ly để cắn cổ, không ngờ rằng giết con rái cá, chúng đã bỏ mất người bạn đồng minh duy nhất, lẽ ra người bạn đó dần dà sẽ buộc kẻ thù chung cuối cùng phải rời khỏi đầm lầy.

Đối với chúng cảnh ngộ từ đó chỉ càng xấu thêm. Răng Sứt và bộ tộc nó, giờ đây không còn rái cá nữa, tha hồ theo đuổi công cuộc xây dựng. Chúng không bỏ lỡ thời cơ và, sang tháng bảy, hầuhết khu vực trũng mà đầm lầy chiếm cứ đều nằm sâu dưới mặt nước.

Kazan và Sói Xám hãi hùng trước cái quyền năng bất khả khuất phục đó, nó khiến chúng nhớ lại quyền năng của con người. Vào một đêm trăng tròn, to, trắng, chúng đành bỏ chốn cư trú cũ, ngược dòng sông, đi suốt đêm không dừng lại, mãi cho đến chỗ đóng đô của đoàn hải ly đầu tiên. Chúng vội vã đi vòng xa và tiếp tục hướng về phía Bắc.
 
5,621
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Kazan (Ca-dăng) - James Oliver Curwood

Chương XXIV. BỊ BẮT



Trận hoả hoạn mà Kazan và Sói Xám thoát được một cách kỳ diệu không phải là trận duy nhất tàn phá miền bắc năm ấy. Có những vụ cháy khác, do người da trắng hoặc da đỏ bất cẩn gây nên, đã góp thêm tai hoạ vào trận băng rét khủng khiếp mùa đông, vào trận đói, vào trận dịch đỏ tháng bảy, tháng tám, tiêu huỷ hoàn toàn một số vùng.

Chẳng mấy lúc Kazan và Sói Xám đi đến những khu riừng bị tàn phá bởi ngọn lửa mà gió đông từ vịnh Hơt-xân thổi đến đã làm mạnh thêm; nơi đây mọi dấu vết của cuộc sống, mọi tàn tích màu xanh đã biến hết. Những bàn chân êm như đệm bông của chúng chỉ còn giẫm lên những gốc cây cháy sém, những khúc gỗ thành thanh và mặt đất đen sạm. Sói mù không trông thấy cái thế giới màu đen nơi chúng đang dấn bước, nhưng mũi nó ngửi được.

Trước cảnh tiêu điều vô tận đó, Kazan dường như do dự, chưa biết đi đường nào. mặc dầu căm thù con người, nó vẫn thích đi xuôi về hướng nam. Vì ở phía nam là cuộc sống văn minh, bản năng chó luôn luôn lôi kéo nó về hướng đó. Ngược lại, bản năng sói luôn luôn đẩy nó về hướng bắc, mà Sói Xám cũng chỉ muốn đi về hướng bắc.

Cuối cùng Sói Xám thắng. Đôi bạn tiếp tục hướng về phía ấy, về phía hồ A-ta-ba-xca và các đầu nguồn của sông Mắc Phác-lan.

Về cuối thu trước, một người tìm vàng đã đến Pho-Xmit, trên Đại Hồ Nô Lệ với một bình đồ hộp đầy một loại vàng vụn có thứ như bụi cát, có thứ như hạt cườm. Y đã thu thập được của quí ấy ở sông Mắc Phác-lan. Tin đó đã nhanh chóng truyền đến cái thế giới văn minh và đến giữa mùa đông thì đoàn tiền trạm của một nhóm tìm vàng đã kéo đến, hối hả, bằng gậy trượt và bằng xe trượt tuyết có chó kéo.

Càng ngày càng nhiều người tìm thấy vàng. Sông Mắc Phác-lan rất giàu về vàng mảnh to, nhỏ lẫn vào cát, sỏi, chỉ cần đãi nhặt là được. Cánh khảo sát, vừa đặt chân đến, là vội vã phân chia, suốt dọc sông, khu vực khai thác và lập tức bắt tay vào công việc. Những kẻ đến chậm đi xa hơn một tí. Tiếng đồn lan rộng, trong khắp cả vùng Bắc Địa, rằng thứ kim loại màu vàng ấy thu thập được còn nhiều hơn cả trên hai bờ sông Y-u-côn.

Dân tìm vàng đổ tới mỗi lúc một đông. Từ quãng hai mươi người lúc đầu, họ lên đến một trăm, rồi năm trăm, rồi hàng nghìn. Nhiều người đến từ phía nam và từ những xứ sở của đồng cỏ, rời bỏ những cùng quặng Xa-cát-si-van đã được khai thác.

Một số khác từ vùng Cực Bắc và từ Cơ-lôn-đai xuống, lầnt heo dãy núi Rô-sơ và sông Mắc-ken-di. Cánh này toàn là những tay giang hồ dày dạn nhất, can trường nhất, không biết sợ gì đói rét.

Trong số đó có Xan-đi Mắc Tơ-gi-rơ.

Vì nhiều lý do, Xan-đi nhận định là nên tránh xa sông Y-u-côn. Y muốn tránh cảnh sát luôn luôn tuần tiễu trong vùng và, hơn nữa, túi y rỗng tuếch.

Y là một trong những tay tìm vàng giỏi nhất đi làm giàu trên mảnh đất xa xôi này. Y đã thu nhặt được một số vàng ước độ một hai triệu đô la. Nhưng y đã uống rượu hay thua bạc hết tất cả số kiếm được. Tóm lại, y là một tay gian hùng, không còn chút lương tâm, không sợ cả chúa lẫn ma quỉ.

Y có bộ mặt hung ác, như thú dữ. Cái cằm vểnh, cặp mắt lồi, mảnh trán thấp và mớ tóc đỏ hoe đã ngả sang màu xám nằm trên cái sọ, tạo cho y một vẻ khó tin cậy. Chỉ nhìn vào y, bất cứ ai cũng hiểu là không nên tin tưởng vào y ngoài tầm nhìn hay tầm viên đạn súng.

Y bị nghi là đã giết hai người và vét sạch túi của nhiều người khác. Nhưng lần nào cũng thiếu chứng cứ và chưa bao giờ cảnh sát bắt được quả tang. Y bình tĩnh và tự chủ một cách kỳ lạ. Những kẻ thù quyết liệt nhất của y đều phải công nhận điều ấy và cũng không khỏi khen ngợi tính kiên trì và can đảm của y.

Trong thời gian có sáu tháng, thành phố Vàng đã phát triển trên hai bờ sông Mắc Phác-lan, quá Pho Xmít đến một trăm năm mươi dặm; bản thân Pho Xmít cũng đã cách xã hội văn minh đến năm trăm dặm.

Lúc Xan-đi Mắc Tơ-ri-gơ đến, y đi một vòng thật nhanh quanh toàn bộ các lán trại thô sơ,c ác chòi gỗ cây, các sòng bạc, và các tiệm nhảy hợp thành cái thị trấn mới và cũng đặt liều vài mảnh vàng còn lại vào sòng bạc. Vận may giúp y đủ để mua sắm lại thức ăn và trang bị.

Ngoài một chiếc thuyền con, vật chủ yếu của trang bị là một khẩu súng gỗ, cổ lỗ sĩ, mà lúc mua y cũng không khỏi buồn cười vì y đã từng sử dụng biết bao vũ khí hiện đại, choáng lộn. Nhưng đó là tất cả những gì mà hoàn cảnh tài chính cho phép y mua sắm được trong lúc này.

Sau đó, rời khỏi thành phố Vàng quá ư ồn ào, bề bộn, y quyết định đi xuống phía nam bằng chiếc thuyền con, cứ ngược sông Mắc Phác-lan tiến về phía đầu nguồn, quá cả địa điểm mà cánh tìm vàng đã bỏ khảo sát lòng sông. Đến đó, y mới bắt đầu công cuộc tìm kiếm.

Khảo sát một nhánh sông con, quả thật y thấy có vàng. Mỗi ngày y có thể thu nhặt được từ sáu đến tám đôla. Nhưng y khinh bỉ nhún vai và lại bắt đầu thăm dò.

Y kiên trì tiếp tục ngược mãi dòng sông suốt mấy tuần liền, không tìm thấy gì cả. Chạm trán với y khi y vận đen như thế, là hết sức nguy hiểm. Nhưng y chỉ có mỗi một mình giữa cảnh hoang vu, nên y chẳng làm hại được ai cả.

Một buổi chiều, với chiếc thuyền con, y cập bờ một dải cát trắng dọc theo con sông. Điều đầu tiên đập vào mắt y, trên mặt cát ướt, là những dấu chân thú vật. Có hai con. Cùng đi với nhau, và sát vào nhau, chúng xuống sông uống nước. Dấu chân hãy còn mới và chỉ vừa in xong độ một hai giờ thôi.

Một ánh tò mò lấp lánh trong mắt Xan-đi. Y nhìn quanh.

“Sói! – Y lẩm bẩm - Rất sẵn sàng thôi, để giãn gân cốt một tí, ta sẽ bắn một phát bằng cái của nợ này, mỗi phút lại nhả một viên. Ôi lạy Chúa! Được nghe chúng rống! Lại ngay giữa ban ngày!”.

Y vọt lên bờ.

Cách đấy độ một phần tư dặm, Sói Xám đã bắt được trong gió cái mùi nguy hiểm của con người. Mấy phút trước đó, Kazan đã tách xa nó để đuổi theo một con thỏ trắng. Nằm trong một khu rừng mới đốn để chờ bạn, Sói Xám thoạt tiên đã nhận được tiếng mái chèo vỗ nước, rồi tiếng thuyền cọ xát vào bờ. Nó liền rống lên một tiếng dài thảm thiết để báo cho bạn. Đây là lần đầu tiên, từ mùa đông, một con người lạc đến sát đôi bạn lang thang như thế.

Mắc Tơ-ri-gơ chờ cho vang vọng cuối cùng của tiếng sói tắt dần. Rồi y lấy khẩu súng cổ lỗ ra khỏi thuyền, nhét từ đầu nòng vàp một viên đạn mới và chui vào đám bụi rậm dọc theo bờ sông.

Kazan đã nhanh chóng quay về đứng cạnh Sói Xám lông lưng tua tủa. Một ngọn gió nặng mùi người thổi đến mũi, khiến nó rùng mình. Xan-đi đã từng săn cáo ở những vùng bắc cực nên theo chiến thuật được dân Eskimo dạy, y đi vòng quanh con mồi cho đến khi đứng vào thế ngược gió.

Nhưng Sói Xám còn khôn hơn cả cáo mắt đỏ của Bắc Cực. Cái mõm nhọn của nó cứ rê chầm chậm theo bước tiến vòng tròn của Xan-đi. Nó nghe có tiếng cành khô gãy răng rắc dưới chân con người đang bắt đầu tiếp cận, cách đó độ ba trăm mét. Rồ itiếng kim khí của khẩu súng vấp vào thân một cây phong non. Nó lấy vai ẩy Kazan và cả hai im lặng chạy chầm chậm, theo hướng ngược lại.

Xan-đi tiếp tục bò như một con rắn, nhưng chẳng tìm thấy gì cả. Sau một giờ săn đuổi không kết quả, y đành quay lại phía sông và chiếc thuyền con. Y chửi đổng một câu và bộ mặt độc ác của y cau lại. Hai con thú đã quay về uống nước sông sau lưng y. Những dấu chân còn mới nguyên, bảo cho y biết thế, không còn nghi ngờ gì nữa.

Rồi y vừa gật gù cười một mình, vừa lôi ở thuyền lên cái túi du lịch và móc lấy một cáu túi cao su con.

Y moi trong túi con ra một cái lọ nút rất kỹ đựng những viên nhựa tròn nhỏ. Mỗi viên có năm viên nhân ngôn.

Bên bờ sông Y-u-côn, người ta đã kể nhiều chuyện đen tối về những viên thuốc ấy. Người ta cam đoan rằng chủ nhân của chúng có lần thả thử một viên vào tách cà phê để mời một người khác uống. Cả việc đó cũng không có chứng cớ gì rõ ràng.

Điều chắc chắn, là Xan-đi Mắc Tơ-ri-gơ xứng đáng một bực thầy trong việc dùng thuốc độc để săn bắn. Hàng nghìn con cáo đã rơi vào tay y bằng lối ấy, và hôm nay nữa, y lại thâm độc cười gằn khi nghĩ rằng bằng cách ấy, mình sẽ tóm được dễ dàng biết bao đôi chó sói lạ lùng kia.

Mấy hôm trước, y giết được một con nai và đã cất những miếng ngon nhất ở trong thuyền. Để mùi tay khỏi dính vào mồi, y bắt đầu dùng đũa nhét một viên nhân ngôn độc hại vào trong ít mỡ rồi lấy da quấn lại.

Làm xong như thế tám lần, trước lúc tắt mặt trời một tí, y đi đặt thuốc độc. Y treo lên các bụi rậm một phần số mồi kia, còn bao nhiêu y để rải rác trên các lối đi có dấu chân thỏ và chân nai. Sau đó y quay về thuyền sửa soạn bữa ăn tối.

Sáng hôm sau, y dậy sớm và đi ngay để xem kết quả chiến thuật của y.

Mồi thứ nhất vẫn y nguyên, mồi thứ hai cũng vẫn đúng như lúc y đặt. Mồi thứ ba đã biến mất.

Xan-đi xoa tay, yên trí là, trong một bán kính hai ba trăm mét, y sẽ thấy con thịt của mình. Nhưng y bị thất vọng ngay. Nhìn xuống đất, y văng ra một câu rủa. Dưới cái bụi rậm có cành cây y treo mồi độc, viên thuốc nằm lăn ở đất. Miếng da bọc bị mở ra, nhưng viên thuốc vẫn nguyên vẹn trong cục mỡ.

Đây là lầhn đầut tiên Xan-đi Mắc Tơ-ri-gơ gặp chuyện như vậy. Thông thường cáo hay sói mà gặp được một miếng mồi và thấy khá là ngon, thì dứt khoát thế nào nó cũng ngoạm ăn hết ngay. Tay tìm vàng không ngờ rằng từ lâu Kazan đã quen vớt tất cả các trò ranh mãnh ấy, mà nó đã biết được khi còn ở với con người.

Mắc Tơ-ri-gơ đi tiếp.

Mồi thứ tư, thứ năm cũng lại y nguyên. Mồi thứ sáu cũng bị mở ra như mồi thứ ba và khoản thuốc trắng lần này vãi tung trên mặt đất. Hai mồi cuối cùng đều thế. Không còn nghi ngờ gì nữa, việc này đúng là do hai con sói bí mật, mà tám bàn chân đã in dấu rành rành.

Mắc Tơ-ri-gơ thất vọng đến cực độ. Nỗi bực mình dồn nén trong người, từ nhiều tuần vất vả vô ích bật ra thành tức giận chửi rủa. Hai con sói kia là những tên tội phạm để y trút hết nỗi bực mình lên cho thần kinh nhẹ nhõm bớt căng. Y xem lần thất bại mới này như đỉnh cao vận rủi của y và cho là không ích gì mà đi xa hơn nữa. Tất cả đều chống lại y và y quyết định quay về thành phố Vàng.

Ăn sáng xong, Xan-đi Mắc Tơ-ri-gơ lập tức đẩy thuyền ra, mặc cho dòng nước cuốn đi. Uể oải ngồi trên chiếc ghế dài như ngồi trong chiếc ghế bành, y móc tẩu ra, nhồi thuốc và bắt đầu hút, chỉ dùng mái chèo lái con thuyền mỏng manh. Có thể, trên đường đi, y sẽ phát hiện thấy trên bờ bên này hay bờ bên kia một chon thú nào đấy để bắn.

Quãng xế trưa, Kazan và Sói Xám khát nước, chúng cho là nên tránh xa những miếng mồi có thuốc độc và vì thế đã nhanh chóng đi năm sáu dặm, xuôi xuống thung lũng.

Chúng đi xuống bờ sông, chỗ này sông lượn gấp. Giá gió thổi xuôi hay Xan-đi chèo thì thế nào Sói Xám cũng đã đánh hơi được mối nguy cơ đang đến gần. Nhưng gió lại thổi thẳng vào mặt và con thuyền lạ lẳng lặng trôi theo dòng nước.

Chỉ có tiếng kim khí lách cách do khẩu súng của Mắc Tơ-ri-gơ lên cò làm nó vểnh tai. Lập tức lông nó dựng đứng lên và, thôi không uống nữa, nó vội vã lùi lại về phía những bụi rậm dọc bờ sông. Nhưng Kazan ngẩng đầu lên, cứ đứng trên cát để đương đầu với kẻ địch.

Hầunhư đúng lúc ấy chiếc thuyền nhô ra khỏi khuỷu sông và Xan-đi bóp cò.

Một vệt khói phụt ra, Kazan cảm thấy một tia nóng xẹt vào đầu. Nó lảo đảo ngã ra phía sau, chân bủn rủn, đổ xuống như một khối vô tri giác.

Nghe tiếng nổ, Sói Xám phóng một mạch như bay. Vì mù, nó không trông thấy Kazan gục xuống cát. Mãi sau khi chạy được gần một dặm, xa cái tiếng sét hãi hùng của khẩu súng người da trắng, nó mới dừng lại. Chờ một lúc không được, nó nhận ra là bạn không chạy theo.

Xan-đi Mắc Tơ-ri-gơ đã dừng thuyền, vừa nhảy lên bờ, vừa rống lên sung sướng:

- Có thế chứ, tao tóm được mày rồi, đồ quỉ sứ! Lẽ ra còn tóm được cả con kia, nếu tao có một khẩu súng khác cái khẩu chết tiệt này!

Y dùng báng súng lật cái đầu Kazan lên, một vẻ ngạc nhiên vụt hiện trên bộ mặt y.

- Mẹ kiếp! – Y nói – Không phải là sói! Mà là chó, Xan-đi Mắc Tơ-ri-gơ ạ! Một con chó chính cống!
 
5,621
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Kazan (Ca-dăng) - James Oliver Curwood

Chương XXV. PHƯƠNG PHÁP CỦA XAN-ĐI MẮC TƠ-RI-GƠ



Mắc Tơ-ri-gơ ngồi trên cát, cạnh nạn nhân vẫn có vẻ như chết. Y nâng đầu Kazan lên, phát hiện ra ngay chỗ lông mòn quanh cổ, và những chỗ da bị chai, chứng tỏ con vật từng đeo vòng cổ.

Y không thể tin vào mắt mình.

- Đây là một con chó! – Y lại thốt lên - Một con chó, Xan-đi ạ! lại rất đẹp!

Một vũng máu loang đỏ mặt cát quanh đầu Kazan. Hắn xem xét vết thường và vạch tìm để biết chính xác chỗ vết đạn xuyên vào.

Đạn trúng vào đỉnh đầu, nhưng không xuyên qua sọ, và khi đến sọ lại chuyển hướng. Vết thương tuy kết quả có mạnh, cũng khôngnặng lắm; những cơn co giật làm Kazan run bần bật cả chân lẫn lưng, không phải là dấu hiệu giãy chết, như Mắc Tơ-ri-gơ sợ lúc đầu. Con chó sói không muốn chết tí nào và lúc này nó đang hồi dần.

Về chó kéo xe thì Mắc Tơ-ri-gơ là một tay sành sỏi. Y đã sống hai phần ba cuộc đời bên chúng. Chỉ nhìn thoáng qua, y cũng có thể đoán được tuổi, giá trị và xuất xứ từng con. Trên mặt tuyết, y có thể phân biệt, y có thể phân biệt đường đi một con chó Mắc-ken-di vớiđường đi một con Ma-lơ-muýt, vết chân một con chó Eskimo với vết chân một con chó huski vùng Y-u-côn.

Y bèn xem xét kỹ chân Kazan. Đúng là chân sói. Xan-đi cười gằn. Kazan to khoẻ, và Xan-đi nghĩ bụng tại thành phố Vàng mùa đông này giá chó sẽ lên như thế nào.

Y liền đi xuống thuyền lấy một miếng vải để thấm máu ở vết thương, và một mớ dây da để đan ngay một cái rọ bịt mõm con vật.

Y chọn những sợi nhỏ nhất để tết cái rọ như người ta đan bao gậy trượt tuyết. Chỉ mười phút là xong cái rọ mõm, y ấn mũi Kazan vào rồi buộc chặt rọ quanh cổ con vật. Với một ít sợi khác, y tết thành một đoạn dây dài độ ba mét. Đoạn y ngồi bắt chân chữ ngũ, chờ cho Kazan tỉnh lại.

Không phải đợi lâu. Con chó sói đang ngóc đầu nhìn quanh. Thoạt tiên nó chẳng thấy gì hết. Một màng máu phủ trước mắt nó. Rồi nó nhìn rõ dần và trông thấy con người đang ngồi. Động tác đầu tiên của nó là đứng dậy. Yếu quá, nó lại ngã xuống đất đến ba lượt. Ngưồi kia ngồi cách đó độ hai mét đang cầm sợi dây da cười gằn. Kazan nhe nanh ra, gầm gừ chực cắn, lông lưng dựng đứng như bàn chải. Xan-đi Mắc Tơ-ri-gơ lại đứng lên.

- Tao thừa biết mày muốn gì rồi – y lầu bầu - Trước mày, tao đã thấy nhiều đồng loại của mày rồi. Bọn sói trời đày đã làm hư mày; mày cần ăn thật nhiều đòn, nhiều gậy rồi mới chịu đi đứng tử tế như trước. Mày có muốn tao bắt đầu bài học ngay không? Nghe đây…

Mắc Tơ-ri-gơ đã có ý đem từ dưới thuyền lên một cái dùi gỗ tướng. Y nhặt nó ở trên mặt cát, tay kia vẫn khư khư sợi dây da.

Cuối cùng Kazan cũng đứng dậy được. Trước mặt nó, lại vần con người, kẻ thù xưa cũ, và, trong tay con người, cái gậy không bao giờ rời y. Tất cả những gì hung dữ trong bản chất nó lại trỗi dậy. Nó biết Sói Xám đã đi rồi. Con người đứng kia đã làm nó bị thương và nó biết rất rõ cái dùi gỗ đang sắp giáng xuống.

Thế là nó nhảy bổ tới, bất ngờ đến mức Mắc Tơ-ri-gơ, vẫn cảnh giác, cũng không kịp chống đỡ đòn tấn công. Trước khi y giơ cái dùi gỗ lênhoặc nhảy sang một bên, Kazan đã đến thẳng trước ngực y.

May chỉ có cái rọ mõm cứu mạng cho Xan-đi. Cái hàm khủng khiếp bập lại không cắn được. Nhưng y ngã ngữa, vì cú húc quá mạnh, như bị một cái máy bắn đá vào người. Nhanh như mèo, Xan-đi Mắc Tơ-ri-gơ đứng ngay dậy, vẫn khư khư cầm chắc sợi dây da mà y đã quấn mấy vòng vào cổ tay. Vì vậy Kazan vẫn bị giữ rịt.

Con chó sói lại chồm lên lần nữa. Nhưng cái dùi gỗ đã vung lên nện vào vai nó một cú như trời giáng, nó lăn ra cát.

Trước khi Kazan hoàn hồn, Mắc Tơ-ri-gơ, thu ngắn thêm dây, đã nhảy tới bên cạnh.

Cái dùi gỗ lại giáng xuống, giáng xuống nhịp nhàng, rùng rợn, chính xác như mọi người có thể chờ đợi ở một bàn tay thành thạo nhường ấy. Những cú đầu chỉ càng làm Kazan thêm lồng lộn. Nhưng sự lồng lộn của đối thủ, gần như điên cuồng vì tàn bạo, tức giận, cũng không kém. Mỗi lần Kazan nhảy lên, cái gậy lại trúng vào nó ngay trên đà lao tới, với một sức mạnh có thể làm gãy xương. Cái mồm Xan-đi bặm lại không còn biết thương xót là gì. Chưa bao giờ y thấy một con chó như thế này và, tuy Kazan bị rọ mõm, y chỉ tin có một nửa vào kết thúc của trận chiến. Rõ ràng là nếu cái rọ bật ra hay tuột xuống thì đời y đi đứt, ngay tức khắc.

Hoàn toàn bị ý nghĩ đó ám ảnh, cuối cùng hắn ta nện một cú vào đầu Kazan mạnh đến mức con vật đấu sĩ lão thành ngã vật xuống đất, mềm nhũn như một mớ giẻ rách.

Mắc Tơ-ri-gơ đã hết hơi. Ngực y hồng hộc. Trước cái xác Kazan nằm gục, y buông tuột cái dùi khỏi tay và mãi lúc ấy y mới nhận thức được đầy đủ trận chiến đấu tuyệt vọng y vừa phải trải qua.

Y tranh thủ lúc con vật đang bất tỉnh để củng cố lại cái rọ bằng mấy sợ dây da khác. Rồi y kéo Kazan xa thêm mấy bước, đến chỗ một cây gỗ bị nước tống giạt vào bờ, buộc chắc Kazan vào đấy. Sau đó, y kéo chiếc thuyền lên cạn và bắt tay chuẩn bị cắmtrại nghỉ đêm.

Lúc đã hơi tỉnh, Kazan cứ nằm bất động, liệt vị, quan sát đao phủ của nó. Tất cả xương cốt đều làm cho nó đau nhức.

Mắc Tơ-ri-gơ có vẻ rất thoả mãn. Y quay lại với con vật nhiều lần, cùng với cái gậy và tái diễn tấn trò. Lần thứ ba, y lấy đầu gậy chọc chọc khiến con chó sói càng lồng lộn. Chính Mắc Tơ-ri-gơ muốn như thế. Đó là biện pháp thông thường đối với cách luyện những con chó bất kham. Y buộc lũ chó phải thấy rõ chống đối là vô ích. Rồi trận mưa đòn lại bắt đầu.

Đòn đánh đau đến mức cuối cùng Kazan không nhìn thẳng vào cái gậy và con người kia nữa, nó vừa rên rỉ, vừa chúi vào sau cái thân cây dùng làm cọc buộc. Hầu như nó không lết nổi. Giá được tự do, nó cũng không thể chạy trốn nổi.

Xan-đi tươi tỉnh lại.

Lần thứ hai mươi, y nói với Kazan:

- Tao sẽ bắt quỉ sứ ra khỏi mày bằng được cho xem. Muốn dạy cho biết điều thì chẳng gì bằng gậy gộc cả. Trước một tháng, mày sẽ bảnh bao và sẽ đáng giá hai trăm đôla, nếu không tao sẽ lột sống mày!

Trước khi trời tối, Xan-đi còn cố trêu tức Kazan nhiều lần nữa, bằng cách lấy đầu gậy chọc chọc ẩy ẩy nó. Nhưng chẳng còn chút phản ứng nào hết. Mắt nhắm nghiền, đầu chúi giữa hai chân, nó không trông thấy cả Mắc Tơ-ri-gơ. Đến bữa ăn, Mắc Tơ-ri-gơ vứt vào mũi nó một miếng thịt. Nó cũng chẳng thèm nhìn.

Mặt trời lặn tắt ở phía tây, sau cánh rừng, vào lúc nào nó cũng không hay và đêm đến nó cũng chẳng thấy. Chỉ có mỗi một lúc, nó tỉnh giấc, ngơ ngác. Trong đầu óc mơ màng ảo não của nó, Kazan cảm thấy hình như đang vang lên một tiếng nói quen thuộc, một tiếng nói của quá khứ. Nó ngóc đầu lắng nghe.

Trên bãi cát bờ sông, nó thấy Mắc Tơ-ri-gơ đã chất xong lửa. Con người kia đã đứng dậy và, trong ánh sáng đỏ quạch, ngoảnh mặt về phía bóng tối dày đặc của rừng sâu, y cũng lắng tai nghe ngóng. Y cũng đang lắng tai nghe cái tiếng kêu thảm thiết đã làm Kazan hồi tỉnh, đó là tiếng than vãn của Sói Xám đang vang vọng xa xa.

Kazan đứng lên, vừa rên rỉ vừa bắt đầu kéo sợi dây da. Xan-đi nhảy tới, tay chụp lấy cái dùi y để bên cạnh.

- Nằm xuống! Đò chó chết! – y ra lệnh.

Dưới ánh lửa, cái dùi lửa lại giơ lên, giáng xuống, vừa nhanh vừa độc ác.

Và khi Mắc Tơ-ri-gơ quay về phía đống lửa đang cháy trên cát, bên cạnh đống chăn y trải để ngủ thì bề ngoài cái gậy to đã khác hẳn: nó bê bết máu và lông.

- Chắc chắn – Xan-đi nói một mình – là phương pháp của ta dần dà sẽ bắt nó phải nằm yên. Ta sẽ đạt mục đích… hoặc ta sẽ giết nó.

Trong đêm, nhiều lần Kazan nghe tiếng Sói Xám gọi. Để đáp lại, nó rên rất khẽ vì sợ cái dùi gỗ. Nó lên cơn sốt và nhức nhối kinh khủng trong lớp thịt đẫm máu. Nó nhìn ngọn lửa cháy và cổ họng khô cháy của nó thèm muốn một ít nước.

Vừa chớm bình minh con người kia đã ra khỏi chăn và đưa thịt đưa nước đến cho Kazan. Nó uống nước nhưng vẫn không ăn thịt. Nó không gầm gừ, không nhe nanh ra nữa. Xan-đi thích thú nhận thấy sự tiến triển đó.

Mặt trời mọc thì Xan-đi điểmtâm xong và sẵn sàng để lên đường. Không sợ hãi, không thèm cầm dùi gỗ, y đi đến chỗ Kazan, cởi bỏ cho nó cái khúc cây và kéo nó đi theo trên bãi cát, về phía chiếc thuyền. Kazan để mặc cho hắn làm.

Đến bên bờ, Xan-đi Mắc Tơ-ri-gơ buộc sợi dây da vào phía sau thuyền. Y vô cùng thích thú khi nghĩ đến cái trò sắp tới vẫn nằm trong phương pháp huấn luyện quen dùng, trên lưu vực sông Y-u-côn.

Đúng lúc Xan-đi dùng bơi chèo đẩy gọn một cái cho thuyền đột ngột ra khỏi thì Kazan bỗng rơi tùm xuống nước, sợi dây da căng thẳng, trong khi ấy Mắc Tơ-ri-gơ ra sức chèo, để tăng tốc độ chiếc thuyền.

Mặc dầu sức khoẻ đã kiệt quệ, con vật buộc lòng phải bơi, để ngoi đầu ra khỏi mặt nước và để khỏi chìm nghỉm. Áp dụng trò chơi quỉ quái, mục đích để tăng thêm hành hạ, Xan-đi tiếp tục chèo thật lực. Bị lôi cuốn bởi sóng nước của chiếc thuyền, chốc chốc Kazan lại cảm thấy cái đầu bù của mình chìm nghỉm dưới nước. Có lúc thấy Kazan cố bơi bán sống bán chết lấy được thăng bằng, chính người kia lại dìm nó xuống nước bằng một cú chèo giáng thẳng cánh vào Kazan.

Bơi theo kiểu đó được độ một dặm, con chó sói kiệt sức, sắp chết đuối đến nơi. Mãi lúc ấy tên chủ mới quyết định lôi nó lên thuyền.

Mặc dầu tàn nhẫn, và chính bằng sự tàn nhẫn đó, phương pháp của Xan-đi Mắc Tơ-ri-gơ đã đạt kết quả mong muốn. Kazan trở thành ngoan ngoãn như một đứa bé: Nó không còn nghĩ đến tự do đã mất, và đến chuyện đấu tranh vì tự do nữa. Mong muốn duy nhất của nó là được chủ cho nằm dưới khoang thuyền, tránh khỏi cái cảnh sóng nước và gậy gộc. Cái dùi gỗ nằm lăn lóc giữa nó với người kia, cách mõm nó có hơn một gang tay, và lớp máu đông cứng ngửi thấy chính là máu của nó.

Trong năm ngày năm đêm, cuộc xuôi dòng vẫn tiếp tục và phương pháp của mr, mục đích để nhồi nhét thật chu đáo nền vămn minh vào đầu óc con chó sói, vẫn tiếp diễn bằng ba trận nữa, đánh trên mặt đất và phụ thêm bằng một trận hành hạ dưới nước.

Sáng ngày thứ sáu, người kia và con vật đến thành phố Vàng, Mắc Tơ-ri-gơ đóng trại cạnh sông. Y kiếm mua một sợi xích thép, để buộc chắc Kazan vào một cái cọc to, rồi cắt bỏ sợi dây da và cái rọ mõm.

- Bây giờ thì – y nói với con vật bị tù của y - mày không còn vướng víu khi ăn nữa nhé. Tao muốn cho mày khoẻ lên và dữ như quỉ… ý đồ của tao nghiền ngẫm đáng giá cả một thuyền da thú kia! Đúng, đúng, đây là một vỉa quặng giàu chẳng mấy lúc sẽ làm cho túi của tao đầy căng bụi vàng. Tao đã từng làm như thế rồi và chúng ta sẽ diễn lại ở đây. Cầu chúa ban phúc lành! Cuối cùng đây là một con át chủ trong ván bài của tao!
 
5,621
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Kazan (Ca-dăng) - James Oliver Curwood

Chương XXVI. GIÁO SƯ UÂY-MAN NÓI LÊN Ý ĐỊNH CỦA MÌNH



Từ nay mỗi ngày hai lần, Xan-đi Mắc Tơ-ri-gơ đưa thịt tươi đến cho Kazan. Y không cho nó ăn cá, ăn mỡ, ăn bột quấy, mà chỉ cho ăn thịt sống. Một hôm y còn đưa năm dặm về bộ lông còn nóng của một con nai mà y đã cố ý giết cho Kazan.

Với chế độ tẩm bổ ấy, chẳng bao lâu Kazan đã hồi phục được sức khoẻ, lấy lại da thịt và cơ bắp. Mắc Tơ-ri-gơ không đánh nó nữa, và chính Kazan lại vừa đón y ở đầu xích, vừa gầm gừ, vừa nhe nanh ra. Một buổi chiều, Xan-đi dẫn theo về một người khác. Kazan bất chợt nhảy vào người lạ mặt, anh chàng này đã đến quá gần, và vừa nhảy lùi lại vừa văng ra một câu chửi tắc nghẹn.

- Nó làm nên chuện đấy – anh chàng lầu bầu – Nó nhẹ hơn con Đan Mạch của tôi độ bảy tám cân, nhưng nó ăn về mặt nanh và nhanh nhẹn… Trước khi nó bị lấm lưng, sẽ là một cuộc vui đẹp nhất đấy!
- Lấm lưng à – Mắc Tơ-ri-gơ đáp lại – tao cuộc hai mươi nhăm phần trăm tiền lãi về phần tao và con của tao không nằm dưới.
- Được rồi! – anh chàng kia nói – Còn bao lâu nữa thì nó lại sức?

Xan-đi suy nghĩ một lúc:

- Một tuần … Sớm hơn nữa thì nó chưa hồi cân.

Anh chàng kia gật đầu:

- Vậy tối này tuần sau nhé!

Và y nói thêm:

- Năm mươi phần trăm phần tao, rằng con Đan Mạch của tao cắn chết con của mày.

Xan-đi Mắc Tơ-ri-gơ nhìn Kazan hồi lâu.

- Tao nhận lời mày! - Cuối cùng y nói.

Và lắc lắc tay người lạ:

- Tao nghĩ rằng, từ đây đến vùng Y-u-côn, không thể có một con chó nào thắng nổi con sói lai này.

Đã đến lúc hiến cho dân thành phố Vàng một ngày hội loại đó. Để tiêu khiển, họ đánh bài, họ có các sòng bạc, thỉnh thoảng thêm vài ba cuộc cãi lộn và những thú rượu chè. Nhưng sự có mặt của cảnh sát Hoàng gia đã ngăn chặn bớt những trò giải trí ấy. So với cuộc sống ở cách đây mấy trăm dặm về phía bắc, trong vùng Đaoxân, thì cuộc sống ở thành phố Vàng này thật là khắc khổ, phẳng lặng.

Trận đấu do Xan-đi Mắc Tơ-ri-gơ và viên chủ tiệm nhảy Gian Hác-cơ, loan báo được hoan nghênh nhiệt liệt.

Tin đó được truyền đi ngấm ngầm trong vòng hai mươi dặm và làm cho mọi đầu óc quay cuồng náo nức.

Suốt tuần lễ trước cuộc đọ sức, Kazan và con chó Đan Mạch to được trưng bày ở một phòng phía trong tiệm nhảy, mỗi con trong một cái chuồng gỗ đặc biệt.

Con chó của Hác-cơ thuộc loại lai Đan Mạch to và chó nhà. Sinh ra ở vùng bắc Địa, nó đã từng mang đai cương và kéo xe trượt tuyết.

Máu đánh cá bắt đầu nổi lên trong đám người máu me cờ bạc. Phần đông ngả về con Đan Mạch, theo tỉ lệ hai một.

Đôi khi họ lên đến ba một. Những người dám bỏ tiền bạc và vốn liếng ra liều với Kazan đều là những người thông thạo vùng Sơn Lâm. Họ hiểu cái ánh đỏ quạch trong mắt con chó sói có nghĩa là thế nào về mặt sức khoẻ và dẻo dai.

Một tay bẫy thú, nay trở thành thợ mỏ, to nhỏ rỉ tai với anh bên cạnh:

- Tôi đặt cho con này. Nó sẽ quật chết tươi con Đan Mạch cho xem. Con Đan Mạch không hay bằng nó đâu.
- Nhưng nó nặng cân - Người kia nghi ngại đáp – Anh thử nhìn bộ hàm với đôi vai nó mà xem.
- Chính anh mới cần nhìn – tay bẫy thú già cắt ngay - bộ chân non nớt, cái bụng nặng nề và cái cổ mềm mại quá lộ liễu của nó trước hàng nanh con chó sói. Lạy chúa, ông bạn ơi, ông hãy tin lời tôi! Chớ có đặt tiền cho con Đan Mạch!

Các người khác tham gia cuộc tranh cãi, mỗi người ngả về một trong hai con thú.

Thoạt tiên Kazan gầm gừ với tất những bộ mặt vây quanh nó. Rồi cuối cùng nó nằm trong xó cũi, đầu gác giữa hai chân, và nhìn mọi người, âm thầm lặng lẽ.

Tối hôm diễn ra cuộc đấu, căn phòng lớn của tiệm nhảy Gian Hác-cơ được thu dọn hết cả bàn ghế lại. Trên một cái bục cao độ non thước ngay giữa phòng là một cái buồng rộng độ mười mét vuông, xung quanh kê ghế dài. Phần trên chuồng để hở và trên cao, từ trần thõng xuống hai ngọn đèn dầu to, có chao.

Ba trăm khán giả, mỗi người đã trả ba đôla tiền vào cửa, chờ đợi hai đấu sĩ ra mặt.

Con Đan Mạch to được cho vào trước vào chuồng. Lúc ấy là tám giờ tối, khi Hác-cơ, Mắc Tơ-ri-gơ và hai người khác khiêng vào căn phòng rộng rãi cũi nhốt Kazan bằng những thanh gỗ to buộc vào cái đáy cũi.

Dưới ánh sáng chói chang của chao đèn, con Đan Mạch nháy nháy mắt. Lúc con chó sói được thả vào cạnh, nó vểnh tai tự hỏi người ta muốn gì mình.

Nhưng Kazan không nhăn nanh, chỉ hơi lên gân chân một lúc thôi. Con chó kia nó không quen biết, nên nó không cần quan tâm đến. Con Đan Mạch không nhảy tới, cũng không gầm gừ. Nó cũng chẳng quan tâm gì hơn đến Kazan.

Trong đám khán giả có tiếng xì xào chán nản. Con Đan Mạch to ngoảnh nhìn về phía ba trăm bộ mặt cục súc vây quanh, mó vừa có vẻ tò mò muốn quan sát họ, vừa đủng đỉnh trên hai đôi chân. Kazan cũng làm như thế.

Tiếng cười chế nhạo bắt đầu chạy trên môi đám đông chen chúc trong phòng, tới đó để thưởng thức một tấn trò sinh tử. Những tiếng kêu như thú vật, những lời giễu cợt ném vào mặt Mắc Tơ-ri-gơ và hác-cơ, cùng tiếng hò reo mỗi lúc một vang to lên, đòi hỏi trận đấu hứa hẹn hoặc phải hoàn lại tiền chỗ ngồi.

Mặt Xan-đi đỏ như gấc vì nhục nhã vì điên cuồng. Trên trán Hác-cơ gân xanh cuồn cuộn nổi lên như cuộn thừng, to gấp đôi ngày thường.

Tên chủ tiệm giơ nắm đấm về phía khán giả và gào lên:

- Đồ ngu, các người vội thế! Để cho chúng đã chứ! Xin các người hãy kiên tâm!

Cảnh nhốn nháo dịu xuống, mấy trăm cặp mắt lại quay về phía chuồng gỗ. Quả thật Kazan đã đến đứng trước mặt con Đan Mạch to, và con này cũng đã bắt đầu lừ lừ nhìn Kazan.

Rồi con chó sói tiến tới lúc nào không biết. Rất khôn khéo, nó chuẩn bị nhảy xổ vào đối thủ, hoặc tránh sang bên nếu cần. Con Đan Mạch bắt chước nó. Bắp thịt của cả hai đều cứng lên. Trong phòng, lúc này có thể nghe rõ cả tiếng ruồi bay. Xan-đi và Hác-cơ, đứng cạnh chuồng, gần như nín thở.

Hai con thú, đều tuyệt đẹp, đã hàng trăm trận sinh tử, vì ý muốn tàn bạo của con người, chắc chắn sẽ xông vào cuộc sống mái cuối cùng. Hai con vật đã mặt đối mặt.

Nhưng giữa cái lúc ấy, cái gì đã xảy ra trong chúng nó? Phải chăng Ô-xơ-ki, vị Thần linh cao cả của hoang vu nhập vào óc chúng, khiến chúng hiểu rằng chúng là nạn nhân của thói man rợ con người, nhất thiết chúng có bổn phận phải đối xử với nhau như anh em!

Chỉ biết là đến giây phút quyết định, khi cả phòng hồi hộp, chờ đợi một cuộc xâu xé tương tàn, quyết liệt, độc ác, thì con Đan Mạch to ngẩng đầu về phía mấy ngọn đèn dầu và ngáp dài.

Hác-cơ trông thấy đấu thủ của mình phơi họng ra trước hàm răng của Kazan, bắt đầu run lẩy bẩy, văng ra những câu chửi rủa rợn người. Tuy vậy Kazan không lao tới. Hoà ước đã được hai địch thủ cùng đồng tình ký kết. Chúng xích lại gần nhau, vai sát vai, như muốn nhìn, với một niềm khinh bỉ vô hạn, qua hàng song nhà tù của chúng, cái đám đông đùng đùng nổi giận lại.

Lần này nổ ra một trận lôi đình, gào thét đe doạ hệt như tiếng giông tố. Thất vọng, Hác-cơ rút súng ra khỏi bao, và ngằm vào con Đan Mạch to.

Nhưng, qua cảnh nhốn nháo, có tiếng cất lên:

- Dừng lại! - tiếng quát ra lệnh – Nhân danh pháp luật, dừng lại!

Lập tức cả phòng im lặng, tất cả mọi bộ mặt ngoảnh lại phía tiếng nói.

Hai người đứng trên ghế đẩu chế ngự các khácn giả.

Một người là trung sĩ Brô-cao, trong đội cảnh sát kỵ binh vùng Tây Bắc. Chính anh đã lên tiếng. Anh giơ tay lên để ra lệnh chú ý và im lặng. Ngươi kia là giáo sư Pôn Uây-man. Chính ông, dưới bàn tay che chở của người trung sĩ, lên tiếng tiếp theo:

- Tôi sẽ trả cho các ông chủ năm trăm đôla để đổi lấy hai con chó.

Trong phòng không ai không nghe thấy lời trả giá đó.

Hác-cơ nhìn Xan-đi, hai cái đầu chụm lại.

Người mới xuất hiện đó nói tiếp:

- Chúng không chịu quần nhau và chúng sẽ là những con chó xe tốt. Tôi đồng ý trả cho chủ năm trăm đôla.

Hác-cơ giơ tay tỏ ý muốn nói:

- Thôi trả sáu trăm đi! Phải, sáu trăm, là hai con vật thuộc về ông!

Giáo sư Pôn Uây-man có vẻ lưỡng lự. Rồi ông gật đầu:

- Tôi sẽ trả sáu trăm! – ông khẳng định.

Đám đông lại bắt đầu lầm bầm. Hác-cơ trèo lên cái bục đặt chuồng, tuyên bố:

- Tôi không chịu trách nhiệm, người chủ con chó sói cũng thế, nếu chúng không muốn đánh nhau. Tuy nhiên nếu trong các ông có ai kém tế nhị muốn đòi lại tiền, chúng tôi sẽ xin trả lại ở cửa ra. Nhưng về sự việc diễn biến thì chúng tôi vô tội. Lũ chó đã chơi khăm chúng tôi, có thế thôi.

Pôn Uây-man, cùng đi với người trung sĩ đã lách được một lối đi đến bên cái chuồng và vừa móc túi lấy ra một bó giấy bạc, đếm cho Gian Hác-cơ ba trăm, cho Xan-đi Mắc Tơ-ri-gơ ba trăm, vừa nói nhỏ với hai con vật đang tò mò ngắm nghía ông qua chấn song.

- Tôi phải trả cho các bạn một món tiền to, rất to đấy các bạn nhỏ ạ… Nhưng các bạn sẽ giúp tôi tiếp tục cuộc hành trình và, chẳng bao lâu, tôi hy vọng, chúng ta sẽ là những người bạn tốt nhất trên đời.
 
5,621
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Kazan (Ca-dăng) - James Oliver Curwood

Chương XXVII. CÔ ĐƠN TRONG CẢNH MÙ LOÀ



Sau khi Kazan bị Xan-đi Mắc Tơ-ri-gơ bắn gục xuống bên bờ sông. Sói Xám đứng hàng mấy giờ liền chờ người bạn trung thành đến tìm mình. Đã bao lần bạn đã quay về với nó nên nó vẫn tin tưởng bạn sẽ quay lại. Nằm dán bụng xuống đất, nó hít hít không khí và rên rỉ sao không phát hiện được mùi người bạn vắng mặt. Nhưng suốt ngày hôm đó, Kazan vẫn biệt tăm.

Từ lâu, đối với Sói mù, ngày đêm đều như nhau. Tuy nhiên, nhờ một bản năng bí mật, nó vẫn cảm biết giờ nào bóng tối xuống dày, và trăng sao phải lấp lánh trên đầu nó. Nhưng với Kazan bên cạnh, niềm hãi hùng về cảnh mù loà lại không như thế này. Trước đây cái vực thẳm đen tối đó không có vẻ gì muốn bao trùm lấy nó cả.

Nó cất tiếng hú gọi nhiều lần mà không kết quả. Chỉ có mỗi mùi khói cay từ đống lửa Mắc Tơ-ri-gơ đốt trên cát phảng phất đến với nó. Sói Xám hiểu rằng làn khói đó, và con người đốt lên ngọn khói, là nguyên nhân sự vắng mặt của Kazan. Nhưng nó không dám đưa những bàn chân êm nhẹ lặng lẽ của nó đến quá gần. Nó cũng biết kiên trì và nghĩ rằng hôm sau bạn sẽ về. Nó nằm trong bụi rậm và ngủ quên.

Cảm giác ấm áp của tia nắng mặt trời bảo cho nó biết là bình minh đã lên. Nó liền đứng dậy và, lo lắng át cả khôn ngoan, nó lần về phía sông. Mùi khói đã mất cũng như mùi người, nhưng nó nhận được tiếng nước chảy, nhờ vậy mà nó lần theo.

Tình cờ nó lại quay về con đường mà hôm qua nó với Kazan đã vạch ra, lúc đến uống nước trên dải cát. Nó cứ theo đường đó và dễ dàng đến được chỗ Kazan đã ngã xuống và chỗ Mắc Tơ-ri-gơ dựng lều.

Ở đấy, mõm nó gặp đống máu đông cứng của con chó sói, lẫn với mùi người để lại trên cát, ngay bên cạnh. Nó tìm thấy khúc cây bạn bị sxích vào, đống tro khô của bếp lửa và lần theo đến tận bờ sông cái vệt Kazan để lại, lúc bị Mắc Tơ-ri-gơ kéo xuống thuyền sống dở chết dở. Rồi môi dấu vết biến mất.

Thế là Sói Xám đành ngồi xuống, ngẩng cái mặt mù lên trời gửi cho Kazan đã khuất một tiếng kêu thất vọng như một tiếng thổ thức được gió cuốn đi. Rồi ngược bờ đi đến cái bụi rậm gần nhất, nó nằm xuống, mũi ngoảnh về phía con sông.

Sói Xám đã biết được ảnh mù loà, giờ đây nó hiểu thế nào là cảnh cô đơn, lại thêm một nỗi buồn khổ hơn nữa. Từ nay, không có sự che chở của Kazan, nó còn có thể làm gì được dưới trần này?

Cách đấy vài thước, nó nghe tiếng túc túc của một con đa đa. Nó cảm giác như tiếng đó từ một thế giới nào vẳng đến. Một con chuột rừng chạy lọt qua chân trước. Nó cố táp thử một cái, nhưng răng lại bập vào một hòn cuội. Một nỗi hãi hùng thật sự xâm chiếm nó. Hai vai co rút lại, nó run run như khi trời rét buốt. Hoảng sợ trước cảnh thảm sầu của đêm tối đang siết chặt lấy mình, nó đưa nmóng lên vuốt vuốt đôi mắt nhắm nghiền, như muốn banh chúng ra để nhìn ánh sáng.

Chiều hôm đó, nó lang thang trong rừng. Nhưng nó sợ và lại trở về với bờ sông, nằm sát vào khúc cây mà cạnh đó Kazan bị xích đã ngủ đêm cuối cùng. Mùi bạn ở chỗ ấy đậm đà hơn mọi chỗ khác và cũng ở chỗ ấy, mặt đất còn vấy máu bạn.

Lần thứ hai, ánh bình minh lại lên trên cảnh mù loà cô đơn của Sói Xám. Thấy khát, nó lần xuống tận bờ nước để uống, Tuy nhịn đói đã hai ngày, nó vẫn không màng đến chuyện ăn.

Nó không thể thấy bầu trời tối đen và trong những đám mây hỗn độn, trên vòm trời, một cơn dông đang chập chờn, lởn vởn. Nhưng nó cảm thấy không khí nặng nề và sự kích thích của dòng điện trong không trung đang phóng ra những tia chớp ngoằn ngoèo.

Rồi tấm vải liệm dày cứ mở rộng mãi ra từ phía nam và phía tây, đến tận cùng trời cuối đất, sấm rền vang và Sói Xám càng nép sát và khúc cây.

Suốt mấy giờ liền giông tố lồng lộn trên người nó, cùng tiếng sét đánh kèm thêm một cơn mưa như thác. Cuối cùng khi bão tan, Sói Xám mới rùng mình vẩy nước và, tâm tư vẫn hướng về Kazan giờ đây đã ở rất xa, nó lại bắt đầu đánh hơi mặt cát. Nhưng bão đã rửa sạch mọi dấu vết, cả máu của Kazan và mùi của nó. Không một dấu vết, một kỷ niệm gì của Kazan còn được giữ lại.

Sói Xám vì tjhế càng sợ hãi và, khốn khổ hơn hết, nó bắt đầu cảm thấy đói cồn cào. Nó quyết định đi tránh xa con sông và lại lùng sục trong rừng lần nữa.

Nhiều lần, Sói Xám ngửi thấy mùi thú rừng nhưng lần nào chúng cũng thoát được. Cả một con chuột lủi trong lỗ, Sói Xám dùng móng bới được nó ra, mà nó cũng luồn mất ngay dưới mõm.

Ngày càng đói, nó hồi tưởng lại bữa ăn cuối cùng của nó và Kazan. Bữa ăn hôm đó có một con thỏ to, nó nhớ là chỉ ăn hết có một nữa, ở cách đây độ một hai dặm đường.

Nhưng nhờ có cái mũi rất thính và cái giác quan định hướng rất nhạy ở loài dã thú, nó lại tìm được đúng chỗ, lách qua cây cối, qua núi qua khe, qua bụi rậm, thẳng một mạch như bồ câu bay về tổ.

Một con cáo trắng đã đến trước nó. Ở chỗ nó và Kazan giấu con thỏ, nó chỉ tìm ra có vài mẩu da và một ít lông. Những gì con cáo để lại, thì đến lượt chim nai và cà cưỡng tha đi hết.

Lòng không dạ trống, Sói Xám lại quay về phía con sông, như bị hút về phía thanh nam châm mà nó không sao tách hẳn ra được.

Đêm hôm sau, nó lại vẫn ngủ ở chỗ Kazan đã ngủ và ba lần, nó cất tiếng gọi bạn mà không được đáp lại. Một lớp sương dày buông xuống và nếu bão có để lại đôi ba dấu vết của bạn thì sương cũng xóa nốt mùi cuối cùng của kẻ đã khuất bóng. Vậy mà Sói Xám cũng cứ nằm nguyên tại chỗ đó, ba ngày nữa.

Ngày thứ tư, đói quá, nó phải nhá vỏ liễu non cho đỡ đói. Rồi trong khi nó ra sông uống nước, nmũi nó chạm vào một con trai to trên rìa cát, thường gặp ở các con sông miền Bắc địa, mà vỏ trai, có hình dáng tựa như lược chải đầu của phụ nữ, do đó mà có cái tên của nó.

Nó dùng chân khều con trai lên bờ. Vỏ trai mím chặt, nó phải lấy răng cắn cho vỡ. Thấy thịt bên trong ngon ngọt, nó liền đi tìm tiếp và được khá nhiều trai đủ ăn no nê. Vì vậy nó ở lại đó suốt ba ngày.

Rồi một đêm, chợt có tiếng văng vẳng trong không trung, khiến nó bồi hồi cảm động một cách kỳ lạ. Nó đứng lên, cả bốn chân run bần bật và chạy thong thả trên cát hết ngoảnh mặt về phía bắc, lại hướng sang phía nam, rồi quay sang đông, và phía tây. Đầu ngửa lên không khí, nó hít hít, lắng nghe, như tìm cách xác định xem tiếng gọi bí mật kia từ phương nào dội tới.

Tiếng gọi vẳng đến từ xa, từ rất xa, qua suốt vùng Sơn Lâm. Tiếng gọi đó đến từ Núi Mặt trời, nơi nó với Kazan đã từng ẩn náu rất lâu; từ Núi Mặt Trời, nơi nó bị mù, nơi mà bóng tối, giờ đây đang bao trùm nó, lần đầu tiên đã đè nặng trên mí mắt. Trong khốn quẫn và tuyệt vọng, bất chợt ý nghĩ của Sói Xám lại hướng về chính nơi xa xăm đó, nơi mà nó không còn được nhìn thấy ánh sáng và cuộc sống, nơi mà mặt trời đã vĩnh viễn không xuất hiện trên bầu trời xanh, cũng như sao trắng trong những đêm thanh tịnh. Nó tưởng tượng rằng, chắc chắn Kazan phải ở đó. Thế là bất chấp cả mù loà, đói khát, cả mọi chướng ngại trên đường, và mọi nguy hiểm đe doạ, nó rời bỏ con sông, rảo bước chạy đi. Núi Mặt Trời cách đấy hai trăm dặm. Nó đang hướng về chính phía đó.
 
5,621
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Kazan (Ca-dăng) - James Oliver Curwood

Chương XXVIII. TÊN XAN-ĐI MẮC TƠ-RI-GƠ ĐÃ CHẾT ĐÁNG ĐỜI NHƯ THẾ NÀO?


Trong thời gian đó, cách sáu mươi dặm về phía bắc, Kazan nằm ở đầu sợi xích thép và quan sát giáo sư Pơn Uây-man đang trộn mỡ với cám cho nó trong một cái xô. Con Đan Mạch to, được nửa bữa ăn, cũng nằm như thế, cách Kazan độ non một thước, mồm mép chảy dãi, chờ đợi bữa tiệc đang được chuẩn bị.

Việc hai con vật tuyệt vời kia, từ chối không cắn giết nhau để mua vui cho ba trăm tên cục súc, chủ tâm tụ tập nhau, làm cho vị giáo sư tôn kính thích thú vô hạn. Ông đã phác sẵn dàn bài một bảng thông báo về sự việc này.

Pôn Uây-man cho con Đan Mạch ăn trước. Ông đem đến cho nó độ một lít món ăn trộn ngon lành và trong khi con chó vẫy đuôi, táp ăn với hai cái hàm lực lưỡng, ông thân thiện vỗ vỗ vào lưng nó. Thái độ ông khác hẳn khi đi về phía Kazan. Ông tiến rất dè dặt nhưng không muốn tỏ ra là mình sợ.

Ông đã hỏi Xan-đi khá lâu, được y kể lại chuyện bắt Kazan và chuyện Sói Xám chạy thoát. Pôn Uây-man không ngờ tình cờ ông được gặp lại con vật mà trrước đấy ông đã mua và trả lại tự do.

Trù tính có trả lại tự do cho nó cũng vô ích, vì cô bạn rừng của nó đã đi mất, chắc hẳn là mãi mãi. Giáo sư cố hết sức gây cảm tình với Kazan. Những cố gắng của ông vẫn không có kết quả. Chúng chẳng đem lại chút ánh sáng biết ơn nào trong mắt con chó sói. Nó không gầm gừ với ông, cũng không tìm cách cắn tay khi ông ở ngay gần mõm nó, nhưng nó không tỏ vẻ gì là thân thiện. Con Đan Mạch xám, trái lại, rất chóng quen và tin tưởng.

Đôi khi, vì lý do này hoặc lý do khác. Mắc Tơ-ri-gơ đến thăm cái chòi gỗ nhỏ, nơi Pôn Uây-man cùng ở với một người giúp việc bên bờ Đại Hồ Nô Lệ, cách thành phố Vàng độ một giờ đường.

Những lúc ấy Kazan lại điên cuồng giật xích lồng lộn để xông vào tên chủ cũ. Nanh nó không ngừng nhe ra trắng nhởn, và nó chịu nằm yên khi có một mình nó với giáo sư.

Một hôm, thấy vẫn cái cảnh ấy tái diễn, Xan-đi Mắc Tơ-ri-gơ nói với Pôn Uây-man:

- Thật là một việc ngớ ngẩn khi muốn tìm cách biến nó thành bạn!

Rồi y đột ngột nói thêm:

- Bao giờ thì ông rời khỏi đây?

Giáo sư trả lời:

- Khoảng tám hôm nữa. Cũng sắp tuyết đầu mùa rồi. Tôi phải gặp trung sĩ Côn-roa và nhân viên anh ta ở Đồn Hồ, ngày mồng một tháng mười.

- Ông đi bằng cách nào?

- Sẽ có thuyền đến đón tôi với hành lý, ngược sông Hoà Bình, và đưa tôi từ đây đến hồ A-ta-ba-xca.

- Thế ông đưa tất cả các thứ linh tinh trong chòi đi à? Chắc thế nào ông cũng đem cả chó đi…

- Phải.

Xan-đi châm tẩu và tỏ vẻ rất thản nhiên, tuy rằng cuộc đối thoại này đang làm loé sáng trong mắt y một sự quan tâm rõ rệt.

- Thưa giáo sư, những cuộc hành trình như thế này phải tiêu tốn lắm nhỉ?

- Chuyến trước tôi mất độ bảy nghìn đôla. Chuyến này sẽ tốn quãng năm nghìn. Nhưng tôi có nhiều khoản phụ cấp.

- Chà, vận ông may thật! – Xan-đi thở dài - Thế là tám hôm nữa ông đi?

- Khoảng đó.

Xan-đi Mắc Tơ-ri-gơ rút lui, với một nụ cười nham hiểm trên khoé môi.

Pôn Uây-man nhìn y ra về, nói với Kazan:

- Ta có ý nghĩ là anh cahànhg này không ra gì. Có lẽ mày đã không nhầm, lúc nào mày cũng muốn nhảy vào yết hầu hắn. Bề ngoài hình như hắn muốn tao dùng hắn làm người dẫn đường.

Ông đút tay vào túi và vào trong chòi. Kazan nằm im, mắt mở to, để đầu vào giữa hai chân trước. Trời đã xế chiều. Sắp giữa tháng chín rồi, đêm nào cũng có gió thu lành lạnh. Con chó sói nhìn những tia nắng cuối cùng tắt dần trên nền trời phía nam. Rồi bóng tối trải ra rất nhanh. Đây là giờ phút mà lòng khao khát tự do của Kazan trỗi dậy hết sức mãnh liệt. Đêm đêm, nó gặm sợi xích thép. Đêm đêm, nó nhìn trăng, nhìn sao và trong khi con Đan Mạch to lớn nằm duỗi dài yên giấc thì nó cứ như dò hỏi không trung để đón bắt tiếng gọi của Sói Xám.

Đêm hôm ấy, trời giá buốt hơn thường lệ, gió đông rét như cắt thịt khiến Kazan day dứt một cách lạ lùng. Trong máu Kazan bừng bừng cái mà người da đỏ gọi là “sự cuồng nghiệt của giá lạnh”. Những đêm hè mê mệt không còn nữa và sắp đến thời gian những cuộc săn đuổi say sưa bất tận. Kazan mơ ước nhảy nhót tự do, chạy cho đến lúc mệt nhoài, vai sát vai cùng Sói Xám.

Suốt đêm, nó bồn chồn lồng lộn khác thường. Nó nghĩ bụng Sói Xám đang chờ đợi nó, vì vậy nó không ngớt giằng giật sợi xích, vừa rên rỉ tru lên thảm thiết. Một lần, nghe xa xa có tiếng kêu, nó nghĩ là tiếng của bạn, nó vội rống lên đáp lại, ầm ĩ đến nỗi Pôn Uây-man đang ngủ mê phải giật mình tỉnh dậy.

Thấy trời cũng sắp sáng, giáo sư mặc quần áo ra ngoài chòi, Ông nhận thấy ngay không khí rất lạnh. Ông thấm nước bịt vào ngón tay giơ lên đầu. Qua phía ngón tay bị thổi khẽ, ông biết gió đã chuyển lên phía bắc. Ông liền cười thầm và đến với Kazan:

- Anh bạn ơi! Rét này thì những con ruồi cuối cùng cũng sẽ chết. Trong vài ba hôm nữa chúng ta sẽ rời khỏi đây. Chiếc thuyền sẽ đưa ta đi hẳn là đã lên đường.

Ngày hôm đó, ông sai người giúp việc đi thành phố Vàng để mua sắm vài thứ, và cho phép anh ta sáng hôm sau mới trở về. Bản thân ông hì hục chuẩn bị, đóng gói hành lý và sắp xếp tài liệu.

Đêm tiếp đó yên tĩnh và sáng vằng vặc. Trong khi giáo sư ngủ trong chòi, bên ngoài con Đan Mạch to cũng ngủ ở đầu sợi xích. Một mình, Kazan cũng chập chờn, mõm chúi vào chân, đôi mắt lim dim.

Tuy có đỡ bồn chồn hơn đêm trước, nó vẫn thỉnh thoảng ngẩng đầu, đánh hơi không khí.

Thình lình, tiếng cành con răng rắc trên mặt đất làm nó giật mình. Nó mở hẳn mắt, đánh hơi. Một nguy cơ cấp bách đang lởn vởn trong không khí. Con Đan Mạch to vẫn ngủ.

Vài phút sau, một bóng đen xuất hiện trong đám bách phía sau chòi. Bóng đen rón rén đến gần, đầu cúi cúi, vai thu lại. Tuy nhiên dưới ánh sáng sao, chẳng mấy lúc, Kazan cũng nhận ra được bộ mặt chết treo của Xan-đi Mắc Tơ-ri-gơ. Kazan không nhúc nhích, giống như sói thường làm, và giả vờ như không thấy, không nghe được gì.

Mắc Tơ-ri-gơ lần này, không cầm roi, cũng không dầm dùi gỗ. Nhưng hắn lăm lăm một khẩu súng lục, cái vòng nhẵn bóng thấp thoáng lấp lánh. hắn đi vòng quanh chòi, bước êm như ru, và đến trước cửa lều mà hắn chuẩn bị dùng vai hích một cú thật mạnh để phá bung ra.

Kazan theo dõi từng động tác của hắn. Nó bò bò trên đất, quên mất sợi xích. Tất cả tiềm lực trong cái thân hình lực lưỡng của nó đền tập trung lại để nhảy.

Nó vụt lao tới, mạnh đến nỗi một mắt xích thép, yếu hơn cả, bật ra, với một tiếng đanh gọn. Trước khi Xan-đi Mắc Tơ-ri-gơ kịp quay lại và giữ thế thủ, con chó sói đã ngoạm vào yết hầu hắn.

Rú lên một tiếng kinh hoàng, tên này lảo đảo và trong lúc hắn lăn ra đất thì cái giọng ồm ồm của con Đang Mạch to, đang giằng xích, cũng vang lên như tiếng sấm báo động.

Giáo sư Pôn Uây-man, tỉnh giấc, mặc vội quần áo. Trên mặt đất lênh láng máu, tên côn đồ bị cắn trúng chỗ phạm, đứt mạch máu cổ, đang quằn quại hấp hối.

Kazan nhìn ngàn sao lấp lánh trên đầu và những hàng bách đen sẫm bao quanh. Nó lắng nghe tiếng gió lao xao trong cành lá. Ở đây có con người. Nhưng ở kia, ở một nơi nào đấy, có Sói Xám. Và nó đang được tự do.

Hai tai cụp xuống, nó liền phóng nhanh vào bóng tối dày đặc.
 
5,621
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Kazan (Ca-dăng) - James Oliver Curwood

Chương XXIX. TIẾNG GỌI CỦA NÚI MẶT TRỜI



Tai cúp, đuôi quặp và lê thê trên đất, thân sau gần quị xuống, như sói sợ chạy trốn trước hiểm nguy, Kazan chạy, như bay, bên tai văng vẳng tiếng rên của Xan-đi Mắc Tơ-ri-gơ. Chạy được đến hơn một dặm nó mới chịu dừng lại.

Lúc ấy, lần đầu tiên sau bao tuần lễ, nó mới ngồi xuống rống hắt lên trời một tiếng kêu dài và rung rung, được nhiều âm vang nhắc lại xa xa.

Không phải tiếng Sói Xám đáp lại, mà là tiếng của con Đan Mạch to. Giáo sư Pôn Uây-man đang cúi xuống cái xác bất động của Xan-đi Mắc Tơ-ri-gơ, chợt nghe thấy tiếng rống của con chó sói. Ông lắng tai nghe xem tiếng gọi có được lặp lại không. Nhưng Kazan đã nhanh chóng chạy tiếp.

Không khí lạnh buốt từ Bắc Cực đến với Kazan qua những vùng Ba-ren bao la; ngàn vạn vì sao lấp lánh trên đầu giữa bầu trời lộng, niềm hạnh phúc lấy lại được tự do, đã làm cho nó yên tâm trở lại và càng kích thích sức mạnh dẻo dai.

Nó cứ chạy thẳng trước mặt, như một con chó theo vết chân thú, không có gì làm chuyển hướng.

Đi vòng qua thành phố Vàng, và quay lưng lại Đại Hồ Nô Lệ, nó băng qua rừng, qua bụi, qua đồng cỏ, đầm lầy và các mỏm đá lởm chởm, hướng về phía sông Mắc Phac-lan. Đến đó, nó lập tức cứ chạy ngược dòng sông đến bốn mươi dặm. Trước đây Sói Xám vẫn thường chờ nó nên nó cứ đinh ninh rằng Sói Xám lúc này vẫn thường chờ nó, ở chỗ ấy, trên bờ sông nơi mà nó đã bị bắt.

Trời vừa sáng thì nó đến đích, đầy hy vọng và tin tưởng. Nó nhìn quanh, tìm cô bạn, vừa rên rỉ vừa ve vẩy đuôi. Sói Xám không có ở đó.

Nó ngồi xuống, hắt lên không trung một tiếng gọi. Không một tiếng nào đáp lại. Nó liền cố công đánh hơi và tìm kiếm khắp nơi.

Hàng nghìn đường mòn chồng chéo lên nhau. Suốt ngày, nó lần lượt lần theo hết đường này đến lối khác. Vẫn không có kết quả. Vì thế nhiều lần nó lại cất tiếng gọi.

Một sự việc y hệt sự việc đã xáy đến với Sói Xám nảy ra trong đầu óc Kazan. Người bạn nó đang tìm kiếm và nay đã biến mất, chắc chắn nó sẽ gặp lại tại một trong những nơi mà cả hai đã sống.

Thoạt tiên nó nghĩ đến cái cây rỗng, bên cạnh đầm lầy mến khách, nơi đã tôi qua mùa đông trước. Và khi đêm sương vừa tràn ngập đất trời, nó lại cắm đầu chạy. Ô-xơ-ki, vị Thần vĩ đại, đang cúi xuống với nó và hướng dẫn bước chân của nó.

Ngày đêm, dưới nắng thu cũng như dưới ánh trăng sao, nó chạy không nghỉ, vượt núi băng đồi. Thỉnh thoảng, kiệt sức và đói lả nó giết một con thỏ, ăn vài ba miếng, rồi ngủ một hai giờ, để rồi lại dậy chạy tiếp.

Đêm thứ tư, nó đến được chỗ thung lũng dẫn xuống đầm lầy.

Nó lần theo dòng nước và đi qua, không thèm để ý, cạnh đoàn hải ly thứ nhất. Nhưng khi đến gần cái cư xá thứ hai, do Răng Sứt và quân của nó xây dựng thì nó hoàn toàn ngỡ ngàng thất vọng. Nó không còn nhận ra được tí gì.

Răng Sứt và thợ thuyền của nó đã làm xong và hoàn thiện công trình. Cái ao mới tạo phủ ngập đầm lầy đã tăng thêm diện tích và cái cây rỗng, tổ êm ấm chống các trận sương muối, đã hoàn toàn biếnmất. Đến quang cảnh nơi đó nó cũng còn không nhận ra được nữa.

Kazan đứng bật động và ngẩn ngơ trước toàn cảnh torời nước mênh mang đó, lẳng lặng đánh hơi không khí, làn không khí đượm mùi tanh lợm của lũ chiếm đoạt.

Thế là, nó mất hết can đảm, sức dẻo dai tuyệt diệu của nó sụp đổ. Chân cẳng nhức nhối ê ẩm vì chuyến đi dài ngày, vất vả. Xương sườn, gầy tọp vì thiếu ăn, hằn rõ. Suốt ngày, nó đi quanh hồ, tìm kiếm. Lông lưng nằm rạp, hai vai sệ xuống, đôi mắt nháo nhác và lo lắng, khiến nó tựa như một con vật đang bị săn đuổi. Cả ở đây nữa, cũng không có Sói Xám.

Tuy vậy, Sói Xám cũng có đi qua đây. Khi đánh hơi dọc dòng nước hơi ngược lên phía trên cái ao, Kazan phát hiện thấy một mới vỏ trai vỡ. Đấy là những gì còn thừa của một bữa ăn của con Sói mù.

Kazan hít đi hít lại mãi cái mùi đã bay gần hết của Sói Xám, rồi chui xuống một hốc cây mục vừa ngủ vừa khóc. Nỗi buồn của nó vẫn tăng trong giấc mê. Kazan vừa ngủ vừa rên rỉ như một đứa bé. Rồi nó lại dịu đi, một hình ảnh khác chợt thoáng qua óc, và khi bình minh vừa xuất hiện nó lại cắm đầu chạy, thẳng phía trước mặt.

Cũng trong thời gian ấy, dưới ánh nắng vàng của mặt trời mùa thu, một người đàn ông và một người đàn bà, cùng với một đứa bé, ngồi trên một chiếc thuyền ngược về phía Núi Mặt Trời. Chẳng bao lâu ở một khuỷu sông họ thấy hiện ra phía trên các ngọn bách, cái đỉnh rậm rì của ngọn núi dốc đứng mà họ quá quen thuộc.

Ngườithiếu phụ có hơi xanh và gầy, đôi má nàng đã mất cái vẻ rạng rỡ xưa kia và mới hơi bắt đầu lấy lại vẻ hồng hào tươi mát, nhờ ảnh hưởng của không khí ngoài trời. Văn minh và cuộc sống sáu tháng ở thành phố đã làm cho nàng thiếu máu như vậy.

- Joan - người đàn ông nói – em Joan yêu quí, anh nghĩ rằng thầy thuốc đã nói đúng khi khuyên anh nên đưa em đi theo một mùa săn nữa. Em cần đến với cảnh thiên nhiên vừa đẹp đẽ vừa hoang dã này. Nơi đây em đã trải qua thời tuổi trẻ với ba em. Thiếu nó em không thể nào sống nổi! Giờ đây em có sung sướng không?

Người thiếu phụ duyên dáng mỉm cười.

Và, khi chiếc thuyền đi qua một bán đảo cát trắng nhô từ bờ ra và vươn dài ra sông, nàng nói:

- Anh nhớ không, chính tại đây, anh bạn chó sói đã bỏ chúng mình, Aem còn cnhớ rõ chỗ này. Cô bạn đường của nó, con sói mù, bị bỏ rơi, nằm kia, trên cát, gọi nó. Thế là nó chúi đầu nhảy xuống nước… Không rõ, từ ngày đó chúng đã đi đâu… Còn chúng mình, chẳng mấy lúc nữa, chúng mình sẽ đến nơi.

Cái chòi cũ vẫn còn đó, y hệt lúc vợ chồng Joan ra đi. Chỉ có cây nho hoang dại và những dây leo khác phủ kín nó. Cửa ván và cửa ra vào vẫn đóng kín, với những thanh ngang vít đinh kỹ. Xung quanh cỏ dại um tùm.

Mở cửa bước vào chòi, vợ chồng Joan không khỏi xúc động. Trong khi chồng lo bốc dỡ hành lý và các thứ bẫy từ thuyền lên, Joan đã bắt đầu sắp đặt quét dọn nhà cửa, và bé Joan đã trở thành một cô bé xinh xắn, tung tăng chạy nhảy, liến thoắng.

Thấy hoàng hôn đang xuống và bé Joan, đi đường nhọc, đã ngủ say, hai vợ chồng Joan liền ra ngồi ở ngưỡng cửa tranh thủ hưởng cảnh đẹp tuyệt vời của những ngày cuối thu mà mùa đông khắc nghiệt chẳng bao lân sẽ tiếp tới.

Bỗng hai người giật mình.

- Em nghe thấy gì không? - người chồng vừa nói với thiếiu phụ, vừa vuốt mới tóc vàng óng của nàng.
- Có, em cũng nghe… - nàng đáp.

Và giọng nàng run run.

- Không phải giọng nó đâu. Đó là giọng của con kia, vẫn cái tiếng gọi của con sói mù thốt lên ngày ấy trên dải cát.

Người đàn ông gật đầu tán thành.

Joan run rẩy nắm lấy cánh tay chồng, nói tiếp:

- Chắc chắn là chúng nó vẫn ở đấy, hay là chúng cũng như ta, đã quay trở lại? Anh nghe em nhé, anh yêu! Anh có đồng ý hứa với em là mùa đông này, anh đừng săn bắn, cũng đừng bẫy sói không? Nếu tai hoạ rơi vào hai con vật đáng thương ấy, thì em ân hận suốt đời.

Người đàn ông đáp:

- Ý em cũng hợp ý anh đấy…. Được, anh hứa với em!

Đêm dâng nhanh, tràn ngập bầu trời lúc này đang lấm tấm các vì sao.

Lần thứ hai, tiếng gọi thảm thiết lại vang lên. Không nghi ngờ gì nữa. Tiếng gọi từ Núi Mặt Trời đến thẳng đây.

- Nhưng, còn nó, - Joan nói khẽ, có phần lo lắng – nó ở đâu?

Giữa lúc ấy thì một hình dáng mờ mờ nhảy trong bóng tối.

- Chính nó! - thiếu phụ reo lên – Chính nó! Nó kia rồi!

Kazan đã ở bên nàng, vừa sủa vừa nhảy cẫng lên, cái đuôi vung vẩy.

- Nó còn nhớ em, bảo đảm thế! - người chồng vừa nói vừa cười – và nó vẫn mến em như thế!

Joan mừng quá, vuốt ve con vật, lùa bàn tay vào lớp lông cứng, ôm ấp vỗ về cái đầu to bù trong đôi cánh tay mình.

Thình lình tiếng gọi thảm thiết như từ Núi Mặt Trời lại vọng đến. Lập tức, y hệt bị một ngọn roi quất, Kazan giật nảy mình và vùng ra, thình lình thoát khỏi vòng tay quấn quít của Joan. Chỉ lát sau, nó đã biến mất.

Người thiếu phụ vô cùng xúc động. Gần như hổn hển, nàng ngoảnh về phía chồng cũng đang đăm chiêu suy nghĩ.

- Anh xem – nàng nói với chồng – có chúa Sơn Lâm, một đấng đã ban cho cả loài dã thú một tâm hồn. Trong cảnh bao la hoang vắng của vùng Tuyết Trắng mênh mông, muôn thú là anh em của chúng ta. Và bởi thế mà Chúa bảo chúng ta : “Ngươi không được giết!”.
- Anh tin lời em nói, em Joan yêu quí ạ - người đàn ông nói khẽ - chúng ta phải biết quí trọng cuộc sống… Trừ những lúc, thật đáng tiếc, để bảo vệ và nuôi dưỡng cuộc sống của ta. Tại đây, đứng trước thiên nhiên và bầu trời lồng lộng, mọi vật đối với ta đều khác hẳn khi ta sống trong những thành phố lớn.

Đêm tối đã xuống hẳn. Ánh sao phản chiếu trong mắt Joan, nàng trìu mến ngả đầu vào ngực chồng.

- Thế giới hoang dã này đẹp thật! – nàng nói – Anh bạn cũ không quên chúng mình, và vẫn luôn luôn chung thuỷ với cô bạn. Em tin rằng thỉnh thoảng nó sẽ đến thăm chúng mình như trước đây.

Mi mắt nàng từ từ nhắm lại. Xa xa, chốc chốc, lại nghe tiếng rống, tiếp theo những phút im lặng đi.

Đấy là Kazan đang săn mồi, vai kề với Sói Xám, dưới ánh trăng ngà vừa mọc, toả ánh sáng mát dịu xuống khắp đồng rộng rừng sâu.


Hết
 
Top