Sơn La : Sốp cộp 'không quần áo'

10,224
30
48

ALnML

Super Moderator
Ðề: Sơn La : Sốp cộp 'không quần áo'

CSTT xin phép sẽ đứng ngoài động viên và cổ vũ các nhóm hội, cơ quan, đoàn thể đến với Sốp Cộp. Nói thực nếu tổ chức đc chuyển đi này, ngoài việc thêm bàn tay chia sẻ với Sốp Cộp còn giúp CSTT PR. Nhưng cũng như mọi lần chúng mình quay sang chỗ khác đc ko. WTT tổ chức một đợt quyên góp dành cho Sốp Cộp, một số bạn bè mình cũng kể các anh chị em đồng nghiệp cũng thương quá mà quyên góp. Bài viết và hình ảnh đó thật thưong tâm đúng ko, trẻ em vùng núi cao đa phần đều nghèo khổ và thiếu thốn, biết được và đến đc để chia sẻ với đồng bào thực là tốt quá.
CSTT còn rất nhiều địa chỉ vùng miền cần sự chia sẻ, có những địa chỉ ko quá xa gần ngay đây mà chúng ta ko biết đến họ. Tuy nhiên cần phải suy nghĩ cân nhắc nhiều nếu tổ chức thì sẽ vào tháng 1.2010. Giáp Tết và liên tục các hoạt động thế này chắc sẽ phải nhờ đến sự giúp đỡ của thành viên nhiều hơn.
Xin cảm ơn tất cả mọi người:x@};-
 
10,224
30
48

ALnML

Super Moderator
Ðề: Sơn La : Sốp cộp 'không quần áo'

Không chỉ có Sốp Cộp nếu quay sang phải sang trái còn nhiều lắm




Đưa lối thoát nghèo lên "cổng trời" Tây Bắc

Cập nhật ngày: 12:03pm, 13/10/2009
Cho điểm
|
Lưu ưu thích↓ | Bản In |
Chia sẻ bạn bè
Số hộ nghèo trong xã chiếm tới 49,61% Ảnh: Hồng Dung - So với các xã nghèo khác, cái nghèo ở xã Nậm Ban (huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu) được nhiều người biết hơn cả bởi nếu Lai Châu là tỉnh nghèo nhất trong cả nước thì Sìn Hồ lại là huyện nghèo nhất tỉnh Lai Châu, còn Nậm Ban nơi chúng tôi đến lại là xã nghèo nhất của huyện. Vậy, đích thị Nậm Ban là xã nghèo nhất nước mình rồi!

Cái nghèo vô tiền khoáng hậu

Ấn tượng đầu tiên về Nậm Ban đối với tôi là một vùng đất cằn trơ sỏi đá với những mái lá vá chằng, vá đụp mà chủ nhân của nó là những người mắn đẻ và nghèo xơ xác.

Sau hai giờ chồm chồm ngồi đằng sau chiếc xe win do tay lái cứng cựa của lính biên phòng, tôi mới vượt qua 16 km từ quốc lộ quốc lộ 12 (đường từ Lai Châu sang Điện Biên) vào đến Nậm Ban. Hú hồn, bởi suốt quãng đường “chuột chạy” lội suối vượt đèo ấy, đến ông tài “đặc biệt” là Đại uý Lã Hồng Vương, 1 trong số 11 cán bộ, chiến sỹ thuộc đội cơ sở cắm bản của Đồn biên phòng 303 - Bộ đội Biên phòng Lai Châu ở Nậm Ban còn phải nói cứng “yên tâm, chết biết ngay”.

Những mái nhà của người Mảng

Hoàn hồn, bên bờ suối Nậm Ban tôi xoay người ngửa mặt bốn phía, bói mắt tìm mãi, chỉ ngằn ngặt một màu xanh trùng điệp. Trung tâm xã nơi tôi đứng đây là một hẻm núi tụt xuống giữa chất ngất non cao. Buổi chiều thật quang đãng. Chút ánh nắng tàn cố phủ nốt lên vài thửa ruộng cỏn con, tưới nốt lên những mái tranh lụp xụp. Cảnh đẹp, nhưng cái đẹp toát lên từ sự nghèo nên nom cứ nao lòng.

Toàn bản có hơn 20 hộ. Nhìn quanh chỉ thấy những ngôi nhà sàn xiêu vẹo, bốn bề toang hoác. Nhà Chìn A Quân phảng phất không khí thời tiền sử, bước vào thấy cái gì cũng màu đen. Vách nứa ngoác ra, đứng bên ngoài có thể nhìn xuyên qua dãy núi bên kia. Cây cột ám khói đen sì. Treo trên bếp lửa, là những chùm quả ngô giống vàng xuộm. Bàn thờ là một tập giấy vàng xỉn đính loăn xoăn mấy sợi lông gà treo ở vách gian giữa, mỗi năm hình như được thay một lần. Thêm một chiếc kiềng 3 chân đen thui ở góc nhà, tài sản vậy là hết.

Chỉn A Quân chẳng mấy khi cười. Mặt ông đen xạm như được đẽo ra từ tảng đá rửa chân cạnh chuồng lợn lần ở đầu nhà. Vợ ông cũng hiếm khi mở miệng với chồng, mỗi ngày chỉ nói vài câu cần thiết với bọn trẻ con. Mà vớ đứa nào nói đứa đấy chứ thực sự bà cũng không nhớ hết tên chúng. Chả là hai người có cả thảy tới 10 mụn con.

Trẻ con trong bản với cuộc sống thiếu thốn trăm bề

Chúng tôi ghé vào nhà Chỉn A Thào cách đó vài bước chân, bữa cơm hôm nay chỉ có 4 đứa nhỏ, hai vợ chồng Chỉn A Thào không ăn. Trong ánh chiều tối chạng vạng, một nồi cơm đen thui đặt ở giữa chiếu, bốn đứa nhỏ ngồi quanh cầm thìa vục vào. Cạnh đó là một nồi nhỏ hơn xâm xấp là mì tôm vụn. Cứ một thìa cơm lại có thêm một chút mì tôm gọi là thức ăn đưa đẩy. Thằng nhỏ nghẹn khóc ngằn ngặt, cô chị te tái múc cho em bát nước uống thay canh.

“Chả phải đi nhiều đâu bởi nhà ai cũng thế thôi!” Ông Phạm Minh Hải (phó bí thư Đảng uỷ xã) trấn an. Quả thực, cuộc sống ở đây nghèo đến mức không tìm được hộ nào nghèo nhất, bởi hộ nào cũng nghèo như nhau.

Xã Nậm Ban có 11 bản thì có 5 bản người Mảng là: Nậm Nó I, Nậm Nó II, Nậm Ô, Nậm Xảo 1 và Hua Pảng với hơn 800 khẩu. Chỉ có bản Nậm Xảo 1 gần trung tâm xã Pa Tần, tình trạng đói đỡ hơn. Bốn bản còn lại đều lâm vào tình trạng thiếu đói. Người dân ở Nậm Ban đến hôm nay vẫn sống hoàn toàn dựa vào nền kinh tế tự cấp, tự túc, giáp hạt đói liên miên. Toàn xã sống dựa vào lương thực trợ cấp của nhà nước.

Nhớ lại những lời “phê bình” của Đại tá Trần Hữu Phúc, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh Lai Châu với nhóm phóng viên chúng tôi trước khi chúng tôi lên đường vào Nậm Ban “các nhà báo phản ánh chưa đúng. Nào là “3 không” với “5 không”. Theo tôi thì chả có “không” nào cả”.

Quả thưc, ở Nậm Ban đây hầu hết là những con số không tròn trĩnh: Không điện, không nước sinh hoạt, đường sá thì hư hại, lớp học thì được làm tạm bợ. Sở dĩ cơ sở hạ tầng ở Nậm Ban không thể đầu tư xây dựng được vì không có đường ô tô vào xã. Muốn đưa vật liệu xây dựng vào thì chi phí quá tốn kém.

Một lớp học tại bản Nậm Ban

Đại uý Lã Hồng Vương, 1 trong số 11 cán bộ, chiến sỹ thuộc đội cơ sở cắm bản của Đồn biên phòng 303 - Bộ đội Biên phòng Lai Châu đang ở Nậm Ban tâm sự: Nhiều người dân Nậm Ban uống rượu triền miên, từ ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác. Ngay cả gạo cứu đói của Nhà nước họ cũng đem đổi lấy rượu để uống. Cách đây vài năm, cán bộ xã say rượu bỏ bê công việc là chuyện thường... ở bản. Chính tình trạng nghiện rượu và lười lao động đã đẩy đồng bào dân tộc Mảng ở Nậm Ban đứng trước nguy cơ bị diệt vong cao.

Trước những bộn bề đó, đã nhiều lần Tỉnh uỷ Lai Châu quyết định giao cho các cơ quan đoàn thể đứng ra đỡ đầu, tìm phương cách giúp Nậm Ban thoát đói nghèo, lạc hậu. Liên tiếp các cán bộ xuất sắc của các ban ngành tỉnh được cử về "cắm" xã. Trường học đã được xây, trụ sở, đường sá, các phong trào đã có những tiến bộ vượt bậc. Tuy nhiên, nhiều bài toán vẫn đang ở dạng "lực bất tòng tâm", bởi cần phải có thời gian, khi mà cái nền "lạc hậu" đã án ngữ ở rẻo đất này từ quá lâu rồi.

Đưa “lối thoát nghèo” lên "cổng trời" Tây Bắc

Ngót trăm năm tồn tại với cái nghèo, rồi ngày mà hàng vạn con người ở hai huyện Sìn Hồ và Mường Tè (là hai huyện nằm trong tổng số 61 huyện nghèo của cả nước) mong chờ cũng đến. Đôi khi niềm vui tới thật bất ngờ, cũng có lúc, niềm vui lại đến cùng sự hiện diện của những tấm lòng cao cả.

Theo tinh thần Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ về xoá đói nghèo bền vững với các huyện nghèo trong cả nước bằng sự hỗ trợ của các Tổng Cty nhà nước, hưởng ứng chủ trương của Chính phủ, mới đây, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) đã ký thoả thuận hỗ trợ xoá nghèo nhanh và phát triển bền vững cho hai huyện nghèo Sìn Hồ và Mường Tè với tổng số tiền gần 200 tỷ đồng

VNPT sẽ hỗ trợ cho hai tỉnh Sìn Hồ và Lai Châu 200 tỷ đồng để xoá nghèo

Theo đề án của VNPT, những lĩnh vực sẽ được tập trung hỗ trợ, đầu tư là những lĩnh vực liên quan trực tiếp đến đời sống thiết thực “sát sườn” với người dân ở Mường Tè và Sìn Hồ.

Ngoài việc phát triển về số lượng và chất lượng cho các cơ sở bưu chính, viễn thông cũng như công nghệ thông tin, VNPT còn tập trung vào giáo dục thông qua hình thức hỗ trợ chi phí sinh hoạt cho tất cả các cháu học sinh trung học cơ sở dân tộc Mảng (huyện Sìn Hồ) trong 10 năm liên tục. Bên cạnh đó, sẽ khai trương các trung tâm đào tạo nghề cho thanh thiếu niên của hai địa phương sau đó tạo công ăn việc làm họ. Y tế cũng là một “mũi nhọn” mà VNPT tập trung đầu tư trong chương trình phát triển này.

Hy vọng cái nghèo sẽ không cứ mãi đeo bám mảnh đất mến thương này

Theo kế hoạch, VNPT sẽ đầu tư trang thiết bị và hướng dẫn triển khai hệ thống khám chữa bệnh từ Bệnh viện Bưu điện tại Hà Nội tới trung tâm y tế của 2 huyện Mường Tè, Sìn Hồ. Tổ chức chương trình khám chữa bệnh và cấp phát thuốc miễn phí hàng năm, đồng thời đào tạo, nâng cao trình độ cho các cán bộ y tế của 2 huyện. Ngoài ra, các vấn đề an sinh xã hội, xóa nhà tạm để thay thế bằng 2.300 căn nhà mới... cũng là trọng tâm phát triển của VNPT đối với Mường Tè và Sìn Hồ.

Rõ ràng, đây là một cơ hội để Sìn Hồ và Mường Tè “bứt tốp” ra khỏi cái nghèo đã đằng đẵng đeo đẳng họ ngót trăm năm nay. Và thông tin này đã làm nức lòng hàng vạn người ở hai huyện nghèo khó. Còn nhớ cách đây vài hôm, ông Phạm Minh Hải còn tâm sự đùa về cái nghèo đói ở Nậm Ban “Hay là núi quá cao - vực quá sâu nên “nó” dồn bà con mình vào cảnh quá nghèo khó?".

Ngẫm ra thì cũng đúng. Nhưng với sự chung tay của những tấm lòng nhân ái, chúng ta sẽ không phải bất lực trước sự nghèo đói vô lối kia, đương nhiên sẽ không để cái khó cứ mãi đeo bám miền đất viễn biên mến thương này.


Theo: www.vnmedia.vn
 
10,224
30
48

ALnML

Super Moderator
Ðề: Sơn La : Sốp cộp 'không quần áo'

Chuyện học của trẻ dân tộc Phú Sơn

(GD&TĐ) - Xã Phú Sơn (huyện Quan Hóa, Thanh Hóa) là một xã miền núi vùng cao. Đời sống nhân dân nơi đây còn rất nghèo, giao thông đi lại khó khăn, trình độ dân trí của đa số bà con dân tộc thiểu số còn thấp nên công tác GD gặp nhiều trở ngại.
Trẻ em Phú Sơn còn gặp nhiều khó khăn trên con đường đến với tri thức Gian nan đường đến trường
Từ thị trấn Hồi Xuân, đi hướng Bắc theo quốc lộ 15A chừng 35km rồi qua đò mới đến địa bàn xã Phú Sơn. Trên chiếc đò nan chòng chành, nhiều lúc chúng tôi thót tim, khi nhìn xuống dòng nước chảy xiết của sông Mã. Chưa kịp hoàn hồn thì gặp ngay con dốc cao vút từ bến đò lên bờ. Đã mấy ngày liền, trời mưa dầm dề làm cho đất sét lẫn đá sỏi cứ quánh lại, trơn trượt.
Người dân Phú Sơn từ bao đời nay vẫn đi lại như thế để giao lưu với bên ngoài. Năm 2005, Nhà nước quan tâm, hỗ trợ đầu tư xây dựng cho Phú Sơn một cây cầu treo trị giá 5 tỷ đồng. Mấy tháng trời, bà con cùng công nhân công ty Cổ phần giao thông 2 (thuộc Sở Giao thông vận tải Thanh Hóa) ngày đêm tích cực làm cầu. Ai cũng vui mừng vì từ đây được đi lại thuận tiện, đời sống sẽ tốt hơn vì buôn bán dễ dàng hơn.
Bà con hi vọng, háo hức chờ rồi đến tuyệt vọng khi nghe tiếng nổ vang trời lúc đêm khuya vào một ngày tháng 5-2008. Cây cầu chưa kịp hoàn thành đã sập trôi theo dòng sông Mã. Nguyên nhân do đơn vị thi công cầu thiếu kinh nghiệm, khi căng cáp buộc không cẩn thận đã bị tuột cáp. Ngay sau đó, UBND huyện đã thành lập đoàn thanh tra điều tra làm rõ nhưng đến nay vẫn chưa thấy kết quả. Và người dân vẫn phải đi lại trên những chuyến đò nguy hiểm.
Những năm gần đây, xã Phú Sơn được đầu tư phát triển kinh tế, xã hội qua các dự án 135, 134, 174... của Chính phủ nên đời sống bà con cũng được khắc phục phần nào. Con đường cấp phối liên xã; trường học cấp 1, cấp 2... được xây dựng, tạo điều kiện thuận lợi cho con em đồng bào dân tộc học tập. Vì thế, công tác GD đã có những chuyển biến tích cực.
Tuy nhiên, nhiều phụ huynh và HS vì lo miếng cơm, manh áo nên chưa chú trọng đầu tư cho học tập. Địa hình xã chủ yếu là đồi núi, dốc cao trên diện rộng, nhiều bà con dân tộc thiểu số chưa biết tiếng phổ thông nên công tác tuyên truyền, vận động học tập vô cùng gian khó. Chỉ trẻ em ở các bản Chiềng, bản Tai Giác, bản Ôn là đi học thuận lợi. Còn ở các bản Khoa, bản Suối Tôn thì đường đến trường lắm gian truân, vẫn còn các lớp học ghép.
Ở bản Suối Tôn, 100% là dân tộc Mông sống trên những đỉnh núi cao. Gánh nặng mưu sinh; tình trạng sinh đẻ vô tội vạ; một số hủ tục lạc hậu; trình độ dân trí thấp... là những nguyên nhân cản trở HS đến lớp. Năm 2008, bản đã được đầu tư xây dựng trường học nhưng vẫn còn một bộ phận trẻ em chưa biết đến trường, lớp vì “Đi học thì không ai lên rẫy cho” – tâm sự của em Mùa Thị Sinh (15 tuổi). Cả bản gồm 57 hộ với 323 nhân khẩu, trong đó không ít trẻ em. Nhiều gia đình ở đây cứ chìm trong vòng luẩn quẩn: đẻ nhiều - nghèo đói – bệnh tật- thất học...

Thầy Lê Duy Xuân cùng nhiều thầy cô miền xuôi ăn ở trong điều kiện thiếu thốn, nhưng vẫn khắc phục khó khăn để bám lớp, vận động HS đến trường. Nỗi niềm GV vùng cao
Không khí buổi chiều tà ở vùng núi cao làm chúng tôi xao xuyến. Càng trầm mặc, âm u hơn bởi vào buổi chiều mưa. Mới ở một ngày, đã thấy nhớ nhà da diết. Đó cũng là tâm trạng, nỗi niềm của hàng chục GV miền xuôi sống và dạy học ở đây. Có những người buổi đầu háo hức lên đây công tác với hi vọng tích lũy kinh nghiệm, rồi khoảng 3-5 năm được về xuôi. Nhưng có những thầy cô đã ở đây hàng chục năm trời. Các GV cùng cảnh ngộ đã bén duyên, lập gia đình, sinh con...
Đa số GV vẫn sống tạm ở căn nhà lụp xụp trong khuôn viên Trường Tiểu học Phú Sơn. Căn phòng gần 20m2, là nơi sinh sống của gia đình thầy Lê Duy Xuân (người huyện Hoằng Hóa) và cô Nguyễn Bích Thủy (huyện Yên Định). Thầy cô đều là những GV miền xuôi, lên miền núi dạy học. Chung cảnh ngộ, hai người bén duyên, xây dựng gia đình. Cô Thủy tâm sự: “Em lên đây dạy học được 8 năm mà vẫn chưa được chuyển đến trường gần hơn hoặc về miền xuôi. Ở đây mãi rồi cũng thấy quen, lại được HS, bà con xã yêu mến”.
Ở vùng sâu vùng xa nhiều khi có tiền mà chẳng biết mua gì. 14 năm công tác, thầy Lê Văn Bách (Hiệu phó trường) dành dụm gửi về nhà phụ giúp gia đình ở huyện miền biển Hậu Lộc. Thứ 7 hàng tuần, các GV vượt đò đi chợ phiên ở huyện Mai Châu (Hòa Bình). Đời sống GV nơi đây còn cực khổ: chưa có điện lưới quốc gia như bao người dân xã Phú Sơn, chưa có nước sạch để dùng, ăn uống kham khổ vì chợ xa... Các thầy cô chung nhau mua được bao cái máy tuốc bin, chắn dòng suối lấy điện dùng nhưng dùng chưa được lâu đã bị con nghiện lấy cắp. Thầy cô phải trèo đèo, lội suối xách nước về dùng. Nhiều GV chủ động trồng các loại rau, nuôi con gà, vịt... để cải thiện đời sống.
Dù gặp nhiều khó khăn, trở ngại nhưng vì lòng yêu con trẻ, say mê với nghề nên các GV ở đây luôn khắc phục hoàn cảnh, vẫn đều đặn bám lớp, vận động HS đến trường. Vào đầu mỗi năm học, GV lại phối hợp với chính quyền, các đoàn thể trong xã đến từng nhà, từng người vận động HS đi học. Gian nan là thế nhưng nhiều khi vận động các em đi học, được một thời gian ngắn, các em lại bỏ học lên rẫy, ở nhà.
Hàng năm có hơn 30 HS “khăn gói” xuống thị trấn Hồi Xuân học cấp 3. Các em đi học gặp nhiều khó khăn, thỉnh thoảng mới trở về “cõng” gạo, bắp, sắn, măng rừng, tiền bạc... làm chi phí ăn học. Cả xã mới chỉ có một em đã tốt nghiệp đại học và một em đang theo học ĐH Nông nghiệp I Hà Nội. Ông Phạm Minh Núi, Phó chủ tịch UBND xã nói về khó khăn trong công tác GD của Phú Sơn: “Điều kiện giao thông cách trở; tỉ lệ hộ nghèo còn nhiều; gần 100% HS là người dân tộc thiểu số: Thái, Mường, Mông... nên còn một số em bỏ học, không đi học. Bên cạnh đó, kinh phí địa phương còn eo hẹp cũng khiến việc hỗ trợ, đầu tư cho GD gặp nhiều khó khăn”.
Hoàng Quân – Nam Hải
http://www.giaoducthoidai.vn/channel/2741/200909/Chuyen-hoc-cua-tre-dan-toc-Phu-Son-1907952/
 
10,224
30
48

ALnML

Super Moderator
Ðề: Sơn La : Sốp cộp 'không quần áo'

Giáo viên "cắm bản"
Ở vùng núi phía Bắc, để trẻ em biết chữ người thầy phải mang lớp học đến tận các thôn bản. Dù ở trên những đỉnh núi cao lạnh giá, những thôn bản heo hút giữa rừng núi đá vôi, những nơi không có đường, điện, nước nhưng vẫn phải có điểm trường.
Ở Mù Căng Chải (Yên Bái), Đồng Văn, Mèo Vạc (Hà Giang), Mường Tè, Sìn Hồ (Lai Châu)..., những con chữ nhọc nhằn đã đến với trẻ em vùng cao bằng cả tấm lòng của người thầy “cắm bản”.
Kỳ 1: Trên đỉnh non cao
TT - Qua 22km đường đèo dốc cheo leo giữa một bên là vách núi dựng đứng, một bên là vực sâu hun hút để đến điểm trường xa nhất của Trường tiểu học Nậm Có, huyện Mù Căng Chải (tỉnh Yên Bái), chúng tôi đi mãi vẫn thấy đường ở trên đầu, bờ vực gần đến mong manh.

Trường học trên rẻo cao ở Mù Cang Chải - Ảnh: Hà Huơng
Lớp học trong ngôi nhà nát - Ảnh: Hà Hương Còn ở Xín Mần (Hà Giang) nơi phát tích của con sông Chảy, có những điểm trường ở trên độ cao gần 2.000m, đi qua gần 40 khúc cua chữ chi, những người đi bộ nhanh nhất cũng phải mất cả ngày mới đến nơi. Hầu như ai đứng ở điểm xuất phát này cũng ít nhất một lần nghĩ đến chuyện quay về. Nhưng với thầy cô giáo mang chữ lên những đỉnh núi cao của Mù Căng Chải, đó mới chỉ là thử thách đầu tiên.
Không đường, không điện, thiếu nước
Đồng hành cùng chúng tôi lên điểm Trường Lùng Cúng, Phình Ngài, thầy giáo Phùng Sáng hồi tưởng những ngày đầu tiên nhận nhiệm vụ, khoác balô theo ông trưởng bản đi bộ ròng rã, gần hết ngày trời để đến nơi nhận lớp học, đi mãi mà vẫn ở giữa rừng núi mênh mông.
Quãng đường đến các điểm trường ở Lùng Cúng, Phình Ngài, Đá Đen, Làng Giàng (Nậm Có) hay Hú Chù Lìn, Háng Gàng (Lao Chải - Mù Căng Chải) cũng là thách thức của bất cứ ai lần đầu đến. Thế nhưng các thầy cô giáo “cắm bản” thường là người miền xuôi đầu tiên đặt chân đến các thôn bản không đường, không điện và thiếu nước.
Với 11 điểm trường, Nậm Có là xã có nhiều điểm trường lẻ nhất ở Mù Căng Chải. Đồng bào người Mông ở rải rác trên những đỉnh núi cao nhất. Nếu không mang được lớp học đến tận nơi, có nghĩa ở đó con trẻ thất học, mù chữ. Hơn một năm nay, từ trung tâm Nậm Có về bản đã có đường do người dân tự mở nhưng chỉ rộng chưa đầy 1m, có nơi hẹp hơn, men theo các triền núi dựng đứng. Rủi ro, nguy hiểm có mặt ở mọi cung đường, nhất là đối với những người cả gan đi xe máy.
Thầy giáo Nguyễn Quốc Toàn ở điểm Trường Lùng Cúng chỉ cho chúng tôi những đoạn đường các thầy từng bị lạc tay lái rơi xe xuống vực, những đoạn dốc bất ngờ đứt thắng. Ngã rồi dậy đi, các thầy phải lấy xích xe hỏng quấn vào bánh xe để xe đi bám đường, tránh trơn trượt. Gian khổ là vậy nhưng họ vẫn phải thay phiên nhau để giữ cho tiếng kẻng vào học đều đặn vang lên trên đỉnh non cao.
Đường lên Xéo Dì Hồ, Lao Chải (Mù Căng Chải) cheo leo, lắt lẻo trên những sườn núi, giữa bạt ngàn ruộng bậc thang và những cánh rừng sơn tra, thảo quả. Các thầy giáo ở Lao Chải nói vui với chúng tôi: “Đứng dưới chân núi thấy người dân mổ lợn kêu eng éc, nhưng đi được lên đến nơi thì họ đã ăn xong, cất bát đũa mất rồi!”.
Chúng tôi đến vào đầu mùa khô, thời điểm lý tưởng cho việc đi lại, nhưng cũng phải mất vài giờ để đi được chục cây số. Các cô giáo không dám cầm tay lái thì cuốc bộ còn vất vả hơn. Mùa mưa, chỉ cần một trận mưa đổ xuống, các điểm trường có thể bị chia cắt hoàn toàn. Hết đồ ăn dự trữ, các thầy cô cắm bản phải tự xoay xở sống cầm chừng trong tình trạng không điện, không sóng điện thoại.
Ở Lùng Cúng, Phình Ngài cũng vậy, tranh thủ ngày nắng ráo, mỗi tháng 1-2 lần các thầy giáo phải chia nhau xuống núi để mang lên tất cả những gì có thể phục vụ nhu cầu sống tối thiểu như mắm muối, lạc, cá khô, quan trọng nhất là thuốc chữa bệnh. Thế nhưng vẫn có những tuần bị sốt hay đau bụng cấp nằm trơ trọi trên đỉnh núi cao mà không thể nhờ ai giúp đỡ.
Đón chúng tôi ở Lùng Cúng vào đúng bữa ăn trưa, các thầy phải chia nhau vào bản lo mua gạo, thức ăn. Bữa cơm đạm bạc trên núi làm chúng tôi rưng rưng khi được biết các thầy phải ăn dè vài mẩu cá khô, ít lạc khô trong hàng tuần liền.

Hai lớp học ghép trong một phòng ở Xéo Dì Hồ, Lao Chải (Mù Căng Chải, Yên Bái). Nắng chiếu qua vách và mái nhà xuống trang sách các em - Ảnh: Hà Hương

Thầy giáo Nguyễn Quốc Toàn đang dạy học dạy học ở điểm trường Lùng Cúng, Mù Cang Chải - Ảnh: Hà Hương Mùa đông khắc nghiệt
Ai đã từng sống trên những đỉnh cao nhất ở Mù Căng Chải mới có thể nếm trải hết cái khắc nghiệt của mùa đông trên đỉnh núi cao. Gió lùa qua khe ván mỏng, còn cái lạnh thì cứa vào da thịt. Giữa tháng 11, khi ở Hà Nội nhiều nhà phải bật điều hòa chống nóng thì ở Mù Căng Chải, chỉ sau 15g chiều cái lạnh thấu xương kèm sương muối khiến người ta chỉ muốn chui sâu vào chăn ấm. Những điểm trường nằm giữa những vạt núi lộng gió càng trở nên mong manh với những bức vách gỗ thưa thớt trống huếch trống hoác.
Thầy giáo Bùi Văn Quân, một mình trụ tại điểm Trường Phình Ngài, chỉ cho chúng tôi chiếc kẻng vừa để gọi học sinh mỗi sáng, vừa để nung nóng sưởi ấm vào ban đêm. Nếu như tiếng kẻng làm ấm lòng những người Mông trên đỉnh núi mỗi sáng thì chiếc kẻng là thứ sưởi ấm cho thầy giáo trong suốt mùa đông giá lạnh.
Nhiều ngày mùa đông tuyết rơi, nước đóng băng. Thầy Nguyễn Viết Hải ở Lùng Cúng kể với chúng tôi: có lần giặt xong chiếc áo, treo lên dây rồi đi vào bản, vài giờ sau quay lại nước trên áo đã đóng đá vì lạnh. Ở Lùng Cúng, Phình Ngài, Đá Đen nước đóng băng qua đêm là chuyện thường. Sáng sớm, đun được một ấm nước sôi phải mất hơn tiếng đồng hồ.
Tại Đồng Văn (Hà Giang), các thầy cô giáo có thêm một nỗi khổ là thiếu nước. Mới tháng 11 nhưng đã thiếu nước. Mỗi thầy cô phải sắm một cái can 10-20 lít để trữ nước. Một năm có đến 4-5 tháng trên trời không một giọt mưa, dưới là núi đá. Nếu không nhờ được dân, ngày nghỉ các cô giáo phải đi bộ hàng chục giờ tìm nơi lấy nước, rồi lại quầy quả vượt núi trở lại nơi dạy học...
Theo chân các thầy, cô giáo đi lấy nước từ sáng sớm, chúng tôi không thể tưởng tượng nổi làm sao họ có thể sống giữa thế giới của đá để duy trì lớp học. Phải 4-5 giờ đi bộ, chờ hứng từng giọt nước rỉ ra trong hốc núi, mất vài giờ chờ đợi nữa mới hứng được vài lít nước. Nước chỉ đủ ăn, không giặt, không tắm gội.
Có những cô giáo khi được triệu tập về trường chính ở trung tâm xã hội họp đã không dám về vì “cả chục ngày chưa được tắm do thiếu nước, không dám ngồi cạnh ai”.
VĨNH HÀ - HÀ HƯƠNG
____________________
Sống trong môi trường khắc nghiệt, các thầy cô giáo “cắm bản” còn phải vượt qua những khó khăn lớn hơn khi vợ chồng, con cái phải luôn cách xa.
Kỳ tới: Hạnh phúc nhọc nhằn
====================================================================
Ý kiến bạn đọc
* Đọc bài này tôi thật sự rất bất ngờ. Bất ngờ vì những con người bình thường đang làm nên những điều kỳ diệu. Thật không thể tin được những khó khăn mà các thầy cô “cắm bản” đang phải trải qua. Tôi rất cảm phục cái tâm nghề nghiệp của các thầy các cô.
Gần tới 20/11 rồi, chắc món quà vật chất mà học sinh mang tặng thầy cô là những bông hoa rừng. Chúc các thầy cô luôn dồi dào sức khỏe để tiếp tục cống hiến.
N.M.T.
* Đọc bài này tôi thấy thương các thầy cô giáo "cắm bản" quá. Thật cảm động khi họ đã "cắm bản" ở đó bao nhiêu ngày, bao nhiêu tháng, bao nhiêu năm.
Họ "bám trụ" ở đó vì lý do gì? Tôi nghĩ không có lý do nào khác ngoài việc chung thủy với nghề của mình, cho dẫu khó khăn.
Hãy cám ơn những thầy cô giáo chịu gian khổ đó, vì có họ mà trẻ em ở đây mới có được ánh sáng văn hóa.
THỦY TIÊN (Quảng Điền, Thừa Thiên - Huế)
* Tôi làmột người Việt đang sống ở nước ngoài. Tôi thật cảm phục những thầy cô giáo ấy. Rất mong được làm quen với những con người yêu nghề như vậy.

long.bang@...

* Thật kính phục trước những gì mà thầy cô giáo đã mang đến cho các em nhỏ ở vùng cao. Cùng với trách nhiệm và sự nhiệt huyết của mình, các thầy cô giáo đã mang những con chữ để đến được với vùng cao xa xôi, thế mới biết sự bền bỉ và trách nhiệm nhường nào khi mang ánh sáng cho mầm non mai sau.

Thiết nghĩ Nhà nước nên có chính sách thật cụ thể để thầy cô giáo có thể đứng vững được nơi vùng cao xa xôi đó (chính sách lương, phụ cấp...), đối với thầy cô giáo đã lập gia đình ở miền xuôi thì đó là sự xa cách với báo nỗi nhớ, nếu độc thân thì biết bao giờ mới tìm được cho mình tình yêu!

Cuộc sống vật chất ở đây thật khiêm tốn, ở đây chỉ có tấm lòng, hoài bão là rộng lớn...

TRAN QUOC ANH

* Đọc bài tôi thấy cảm động quá. Tôi đã từng đi đến các bản xa xôi ở các huyện miền núi: Mường Lát, Quan Hóa (Thanh Hóa), huyện miền núi biên giới A Lưới (Thừa Thiên - Huế) chứng kiến chứng kiến cảnh nhiều thầy cô “cắm bản” để dạy học trò miền núi. Nhiều giáo viên miền xuôi tình nguyện về vùng sâu, vùng xa dạy học, có người đã mấy chục năm vẫn ở lại đó. Rồi họ kết duyên, sinh con tại đó. Các thầy cô đã khắc phục mọi khó khăn để bám lớp, gieo chữ cho học trò nghèo.

Ở xã Phú Sơn (huyện miền núi Quan Hóa, Thanh Hóa), giáo viên trường Tiểu học Phú Sơn gặp muôn vàn khó khăn như không điện, không có nước sạch, không giao lưu buôn bán... nhưng vẫn một lòng bám bản, hi sinh vì sự nghiệp giáo dục miền núi. Các thầy cô khắc phục sự thiếu điện bằng cách sáng chế ra tuốc bin, chắn dòng suối để lấy điện. Muốn có nước sạch phải xách thùng vượt núi chừng 2km lấy nước khe, nước suối về dùng. Tập thể giáo viên xin chính quyền địa phương cấp cho ít đất đồi núi để trồng trọt, chăn nuôi tăng gia sản xuất.

Có chuyện giáo viên tích cóp tiền lương rồi cất trong tủ vì chẳng biết mua bán gì. Cuối tuần, thầy cô lại vượt đò qua sông Mã, lên ngã ba Co Lương, huyện Mai Châu (Hòa Bình) để mua lương thực thực phẩm. Nhọc nhằn, khó khăn là thế nhưng các thầy cô đã không bị lung lay, vẫn một lòng cắm bản, bám lớp.

NGUYÊN BÌNH

* Những điều thầy cô giáo "cắm bản" đã làm khiến tôi khâm phục vô cùng. Thầy cô đã nhận được gì sau những cố gắng nổ lực như vậy? Còn điều gì đáng trân trọng hơn thế? Thầy cô là những anh hùng luôn hy sinh lặng lẽ để nuôi dưỡng cho tương lai cả một thế hệ. Xin cảm ơn thầy cô.

N.T.D.

* Bên cạnh cuộc sống xô bồ bon chen nơi phồn hoa đô thị thì vẫn còn đâu đâu đó những con người từ bỏ những vinh hoa phú quý và cuộc sống an nhàn để đến với những “miền đất khổ”, đó là những thầy cô “cắm bản”. Có lẽ tấm lòng họ đẹp hơn bất cứ thứ gì trên đời và trong sáng tinh khôi như những bông hoa núi rừng Tây Bắc. Thầy cô “cắm bản”, những người đã, đang và sẽ tiếp tục đưa cái chữ tới những vùng xa xôi của Tổ quốc. Tôi thật sự biết ơn những tấm lòng cao cả, những người hết lòng vì công việc và điều quan trọng hơn là họ đang cống hiến trong những điều kiện hết sức nghiệt ngã.

Đọc bài này đột nhiên tôi nhớ tới câu hát “Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng, gian khổ sẽ dành phần ai…”. Nhưng ở đây những con người này không quản khó khăn gian khổ để tình nguyện hiến dâng sức trẻ. Tôi thật sự khâm phục! Chúng tôi, thế hệ trẻ của đất nước sẽ phải nhìn lại mình khi đọc qua bài báo này. Trước giờ chúng tôi chỉ lo sợ rằng sau khi ra trường sẽ bị đẩy về một vùng nào đó không được như mong muốn và rồi lại tìm cách chen chân vào những nơi có điều kiện thuận lợi hơn. Vậy những khó khăn đó rồi ai sẽ gánh? Rất mong Tuổi Trẻ tạo thành một diễn đàn để ủng hộ và tiếp sức cho những con người đang ngày đêm âm thầm cống hiến, những ông Bụt cô Tiên giữa đời thường.

Chúc các thầy cô sức khỏe dồi dào và công tác tốt. Xin ghi ơn các thầy cô “cắm bản”.

NGUYỄN MẬU TRƯỜNG

* Tôi đã từng sống ở những vùng quê khi vào mùa đông trời rét như cắt da xẻ thịt và thấm vào tận xương tủy. Đọc bài viết này, tôi cảm phục thầy cô "cắm bản" rất nhiều. Tấm lòng chung thủy với nghề người thầy thật cao quý làm sao. Tâm hồn quảng đại và hy sinh của thầy cô thật đáng trân trọng biếy mấy.

Nhân Ngày Nhà giáo Việt Nam, tôi xin được gửi tới quý thầy cô lời chúc mừng tốt đẹp nhất.

NGÔ VĂN PHƯƠNG

* Bản thân tôi cũng là một thầy giáo, tôi thấy thật sự cảm phục trước những hi sinh của các thầy cô ở vùng này, những người đã chịu bao gian khổ chỉ với một mục đích cao đẹp của người thầy giáo là mang chữ đến cho các em ở vùng xa.

Tôi xin chúc các thầy cô và các em mạnh khỏe, cố gắng vượt qua được những khó khăn hiện tại để dạy và học tốt.

HOANG

* Tôi cũng là giáo viên, đã từng công tác tại vùng đặt biệt khó khăn của huyện Nam Giang, Quảng Nam. Đọc bài viết này tôi không khỏi xúc động vì những khó khăn nơi đó.

Là nhà giáo khi xác định nhận nhiệm vụ vùng khó khăn là chấpnhận hy sinh, song niềm vui nào bằng khi hằng ngày nhìn thấy các em học sinh ngây thơ nô đùa.

Một mùa 20/11 nữa lại, về chúc đồng nghiệp tôi nơi ấy vững vàng là người giáo viên nhân dân.

TRƯƠNG MINH TÚ

* Tôi cũng đã từng dạy học nơi núi rừng nên khá thấu hiểu cảnh nhọc nhằn của thầy và trò. Có những thầy cô từ miền xuôi lên miền núi, lúc đầu mong muốn “hết hạn” trở về quê, nhưng rồi lại gắn cuộc đời với quê hương mới để dạy chữ cho con em đồng bào các dân tộc. Những tình cảm đó thật khó lòng diễn tả bằng những ngôn từ.

Sự hy sinh của các thầy cô giáo nơi núi rừng heo hút thật là lớn lao, với bao thiệt thòi! Cái khó nhất mà thầy cô gặp phải là học sinh miền núi còn rất nhiều em không thích học, cho nên việc tiếp cận, động viên học sinh và phụ huynh để con em họ tới trường là cả một vấn đề lớn. Như đi lại khó khăn, vật chất thiếu thốn, thời tiết khắc nghiệt…

Thiết nghĩ, chúng ta cần có một chính sách ưu tiên và đầu tư hơn nữa cho giáo dục miền núi thì mới cải thiện được đáng kể cho mục tiêu giáo dục tốt đẹp của nước nhà.

THÁI HÀ

* Tôi đang ngồi trong phòng điều hòa mà viết những dòng này gửi đến các thầy cô giáo miền xa thì thấy xấu hổ với các thầy cô quá. Sắp đến ngày 20/11 rồi, tôi chỉ có tấm lòng và lời chúc đến các thầy cô “cắm bản”, chúc các thầy cô ấm áp hơn trong mùa đông.

VĂN TRUNG

* Đọc xong bài phóng sự này tôi cảm thấy mình thật xấu hổ vì trong cuộc sống hàng ngày có đôi lúc tôi không vui vì mình chưa có một chiếc xe gắn máy xịn, một chiếc điện thoại di động đắt tiền... Một sự khập khiễng quá lớn về vật chất nếu đem so sánh với các thầy cô mà phóng sự đề cập. Cảm ơn Tuổi Trẻ đã dạy tôi thêm một bài học về cách làm người.

hmhieu1979@...

* Tôi đã từng sống và làm việc ở miền núi Tây Bắc trong vài năm, đã có dịp đi đến những địa danh nên trong bài báo và tận mắt chứng kiến cuộc sống của người giáo viên ở vùng cao nên tôi có thể hiểu được bài viết trên chỉ kể được phần nào những khó nhọc, gian truân mà các thầy cô ở các bản làng miền ngược gặp phải.

Điều tôi cảm kích nhất là những gian khổ đó không làm nản lòng các thầy, các cô. Xin cảm ơn người viết bài này đã đưa được câu chữ mô tả rất thật, những hình ảnh sống động nhất về sự hy sinh vô bờ bến của các thầy các cô đã cống hiến cho sự nghiệp giáo dục, đưa kiến thức đến với tất cả mọi người, đặc biệt là những vùng xa xôi hẻo lánh. Đấy cũng là một cách để mọi người biết được rằng vẫn còn nhiều gian khó trong điều kiện đất nước phát triển ở thế kỷ 21 này để mọi người có thể có được những việc làm thiết thực hơn cùng chia xẻ phần nào những gian khó của các thầy các cô.

Tôi chắc rằng ở đâu đó trên đất nước ta vẫn còn rất nhiều những tấm gương của các thầy, các cô hy sinh vì sự nghiệp giáo dục như bài báo đã nêu. Kính chúc các thầy cô có nhiều sức khỏe, giữ vững niềm tin để đem đến ánh sáng văn hóa cho tất cả mọi người, trên mọi nẻo đường đất nước.

H.LAN

* Những thầy cô giáo “cắm bản” quên đi hạnh phúc của bản thân mình, họ hi sinh tất cả cho các em. Thử hỏi nếu không phải vì lòng yêu nghề, sự hi sinh vô bờ bến thì có ai trụ nổi qua một mùa đông rét mướt ở nơi đây? Nhưng ngoài những lời động viên, chúng ta cần lắm những việc làm cụ thể, và hơn cả là một chính sách nhất quán, ưu đãi cho những con người theo nghề giáo có tấm lòng cao quý như họ.

NGÔ LAN QUỲNH
http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=348253&ChannelID=89
 
499
0
0

Shortee2009

New Member
Ðề: Sơn La : Sốp cộp 'không quần áo'

Nếu kể về các địa phương còn nghèo thì không biết kể đến khi nào mới hết. Đừng nói chi xa xôi ... ngay trong lòng những thành phố lớn nhất nhì đất nước ... bên cạnh những ánh sáng phồn hoa của đô thị ... vẫn có rất nhiều rất nhiều những góc tối, những khu xóm nhỏ còn rất nghèo khó. Nhưng nhân lực và tài lực của 1 nhóm thì cũng có giới hạn nên không ai có thể lo cho hết được. Nhưng chúng ta cũng cố gắng làm những gì có thể làm được cho họ.
Theo Sọt nghĩ thì nếu như CSTT muốn giúp đỡ 1 địa phương nào thì nên lập 1 topic riêng để những người nào quan tâm dến sẽ vô đọc những bài đó ... chứ post nhiều địa phương trong cùng 1 topic vậy thì đọc nó rối lên hết ... không biết là CSTT đang giúp ai nữa. :cstt09:
 
4,154
2
38

Mít và Nem

Active Member
Ðề: Sơn La : Sốp cộp 'không quần áo'

Nếu kể về các địa phương còn nghèo thì không biết kể đến khi nào mới hết. Đừng nói chi xa xôi ... ngay trong lòng những thành phố lớn nhất nhì đất nước ... bên cạnh những ánh sáng phồn hoa của đô thị ... vẫn có rất nhiều rất nhiều những góc tối, những khu xóm nhỏ còn rất nghèo khó. Nhưng nhân lực và tài lực của 1 nhóm thì cũng có giới hạn nên không ai có thể lo cho hết được. Nhưng chúng ta cũng cố gắng làm những gì có thể làm được cho họ.
Theo Sọt nghĩ thì nếu như CSTT muốn giúp đỡ 1 địa phương nào thì nên lập 1 topic riêng để những người nào quan tâm dến sẽ vô đọc những bài đó ... chứ post nhiều địa phương trong cùng 1 topic vậy thì đọc nó rối lên hết ... không biết là CSTT đang giúp ai nữa. :cstt09:
Em nghĩ ý bác LG chỉ muốn mọi người hiểu một khi Sốp Cộp đã được nhiều người quan tâm rồi thì chúng mình nên dành sự quan tâm cho các nơi khác thôi bác chứ ko phải là ý nói CSTT có thể giúp hết được các nơi mà bác LG đã nêu bác ạ.
 
713
0
16

Virgo2007

Member
Ðề: Sơn La : Sốp cộp 'không quần áo'

Đi đi, em đi tất. Chỗ nào cũng đi ạ. Cho em đi Sốp Cộp với chị Hà nhé. Bác LG cứ lên kế hoạch cho năm 2010 đi rồi đi dần những chỗ mà bác vừa post đó.
 
384
0
16

tho2006

Member
Ðề: Sơn La : Sốp cộp 'không quần áo'

@ SCP: Ý đó là "suy diễn" theo ý trách của Tho06. Với cả theo lẽ thường thì mẹ phải nhường tất cả những thứ tốt nhất mình có cho con. Con k có cơm ăn, mẹ nhường phần cơm của mình. Con đòi ngủ với bố, mẹ cũng phải nhường bố để bố ngủ với con, còn mẹ ra chỗ khác ngủ (nhưng k được đi quá xa..., ví dụ như sang nhà hàng xóm, :D:D:D). Con k có quần áo mặc mà mẹ vẫn cứ xống áo bình thường thì nghe nó cứ dư thế lào ấy, khà khà. Nếu khéo ra thì lúc phóng viên chụp ảnh mẹ chúng phải trốn vào đâu đó chứ đừng đứng hồn nhiên như thế, hi!
Hôm nay mới đọc được cái này, bác Tè này hư quá, em nói cũng đúng như thế đấy ạ. Nếu là em có khi em lấy lá, rơm rạ để che để con em mặc áo đấy ạ. Mà che rồi thì cần gì phải trốn nữa anh tè nhỉ.
Hồi trước em có đi tua du lịch Sìn Hồ - Lai Châu, thấy ở đó cũng sầm uất lắm, nhưng nghe bà con nói ở cách đó 60, 70 km phải đi bộ và xe ôm 4, 5 tiếng đồng hồ thì hãi không dám vào. Nếu đi những chuyến đến các nơi xa thế này, có lẽ chúng mình phải chuẩn bị thật lâu, thật kỹ càng, và phải quyên góp được rất, rất nhiều đồ, thuốc men, gạo, ... bởi vì ở đó cái gì cũng thiếu và phải mất rất nhiều công sức mới đi được đến các nơi này.
 
2,398
0
36

Mexecuazin

Active Member
Ðề: Sơn La : Sốp cộp 'không quần áo'

Đi đi, em đi tất. Chỗ nào cũng đi ạ. Cho em đi Sốp Cộp với chị Hà nhé. Bác LG cứ lên kế hoạch cho năm 2010 đi rồi đi dần những chỗ mà bác vừa post đó.
em cũng đi đựoc, thực ra điểm nào nhà mình đến đều được các chị chọn lựa và lên kế hoạch cụ thể rồi, em chỉ góp sức tẹo thôi mà.@};-:cstt03:
 
Top