Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes

5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes

Chương XVII

THẦY TRÒ ĐÔN KIHÔTÊ CÒN LÀM NHỮNG VIỆC GÌ TRONG QUÁN TRỌ MÀ CHÀNG HIỆP SĨ TƯỞNG LÀ LÂU ĐÀI?



Lúc này, Đôn Kihôtê đã tỉnh; bằng một giọng cũng sầu bi như ngày hôm trước, lúc nằm liệt sau trận mưa đòn, chàng lên tiếng gọi:

- Xantrô bạn ta; anh ngủ ư? Anh ngủ ư, anh bạn Xantrô?

- Rõ khổ chưa, Xantrô đáp bằng một giọng buồn bực, uất ức, làm sao tôi có thể ngủ được một khi bị tất cả loài quỷ quái đến quấy rối như đêm nay!

- Anh nói đúng đấy, không sai đâu. Nếu ta không nhầm, lâu đài này có yêu quái. Anh phải biết rằng... Nhưng, trước khi nghe ta nói điều này, anh phải thề sẽ giữ bí mật cho tới sau khi ta qua đời.

- Tôi xin thề.

- Ta nói thế vì rằng ta không muốn làm cho người khác mất danh dự.

- Tôi đã nói là tôi xin thề sẽ giữ kín cho tới khi ngài chết, và mong sao tôi có thể nói được điều bí mật đó ngay ngày mai.

- Xantrô, ta làm phiền anh lắm sao khiến anh mong ta chết sớm như vậy?

- Không phải thế đâu; số là tôi rất ghét phải giữ lâu những điều bí mật, và tôi không muốn nó sẽ thối rữa trong bụng tôi.

- Thôi được, dù sao ta cũng tin anh là người tốt và có lễ độ. Bây giờ hãy nghe ta kể vắn tắt đây. Đêm nay, ta đã gặp một trong những chuyện phiêu lưu kỳ lạ nhất, không sao tả xiết được. Số là cô con gái chủ lâu đài này, một tiểu thư óng ả, xinh đẹp nhất trên một phần lớn trái đất này, vừa đến với ta. Ta biết nói gì bây giờ về đồ trang sức của nàng? Về sự thông minh sáng láng của nàng? Và còn biết bao những vẻ đẹp thầm kín mà ta không dám đụng đến và kể lại vì không muốn phản bội nàng Đulxinêa của ta. Nhưng con tạo kia thấy ta sung sướng thì ghen ghét, hay có lẽ đúng hơn, lâu đài này có yêu quái, như ta đã nói. Giữa lúc ta cùng nàng rủ rỉ tự tình, bỗng từ đâu tới có một bàn tay - chắc phải là bàn tay một tên khổng lồ quái dị nào đó - giáng xuống quai hàm ta một quả mạnh đến nỗi ta hộc cả máu ra. Rồi cái bàn tay đó cứ nhè ta mà đánh khiến ta còn đau đớn hơn cả hôm qua khi bọn lái la, vì tức giận con Rôxinantê, đã xúc phạm tới thầy trò ta. Bởi vậy, ta đoán rằng có một pháp sư người Môrô nào đó bảo vệ sắc đẹp của nàng, không cho ta đụng chạm tới.

- Không cho cả tôi nữa chứ, Xantrô đáp; bởi vì có tới trên bốn trăm tên Môrô xông vào đánh tôi, nếu đem so sánh thì trận đòn hôm qua chỉ như phủi bụi. Nhưng xin hỏi, làm sao ngài có thể coi đó là một chuyện phiêu lưu hay ho và kỳ lạ được một khi thầy trò ta lâm vào cảnh ngộ này. Dù sao, ngài cũng còn may vì đã được ôm ấp một con người đẹp không ai bì nổi như ngài nói. Còn tôi, thử hỏi tôi được gì ngoài những miếng đòn có lẽ ác liệt nhất mà tôi phải chịu trong đời tôi. Khổ thân cho tôi và cho bà mẹ đã sinh ra tôi chưa! Tôi không phải và cũng sẽ không bao giờ là hiệp sĩ giang hồ, vậy mà hễ cứ xảy ra chuyện gì là y như rằng tôi phải chịu thiệt thòi nhất.

- Sao, anh cũng bị đòn ư?

- Trời tru đất diệt cả họ nhà tôi đi! Tôi đã chẳng nói với ngài rồi sao?

- Anh bạn chớ phiền muộn làm chi. Ta sẽ chế môn thuốc thần và chúng ta sẽ lành ngay tức khắc.

Lúc này, viên cảnh sát đã châm được đèn trở lại buồng khách trọ để xem xét người mà y tưởng đã chết. Xantrô thấy có người bước vào, mình mặc sơ-mi, đầu quấn khăn tay, cầm một cây đèn, mặt mũi nom gớm chết, bèn hỏi chủ:

- Thưa ngài, có phải đây là lão pháp sư người Môrô trở lại trừng trị chúng ta nữa chăng?

- Không phải, vì những pháp sư không để cho ai nhìn thấy đâu.

- Nếu như họ không để cho ai nhìn thấy thì họ cũng để cho người ta cảm thấy, như hai vai tôi đây chứng minh.

- Hai vai của ta cũng có thể chứng minh được. Nhưng điều đó cũng chưa đủ để tin rằng người đang đi tới là một pháp sư Môrô.

Viên cảnh sát tới nơi, thấy có hai người chuyện trò vui vẻ, lấy làm ngạc nhiên lắm. Đôn Kihôtê vẫn nằm thẳng cẳng không nhúc nhích, mình đầy thương tích và băng bó. Viên cảnh sát tiến lại gần hỏi:

- Sao, anh chàng này làm sao?

- Nếu ta là anh, ta sẽ ăn nói có lễ độ hơn. Đồ ngu xuẩn, phải chăng ở cái xứ này người ta thường nói năng như vậy với các hiệp sĩ giang hồ?

Bỗng dưng bị một người bộ dạng khó coi mắng nhiếc, viên cảnh sát không nhịn được, giơ ngay cây đèn đầy dầu phang xuống đầu Đôn Kihôtê, tưởng chừng vỡ đầu, rồi bỏ đi. Gian phòng trở lại tối om.

Xantrô lên tiếng:

- Thôi đúng là tên pháp sư người Môrô rồi, thưa ngài. Hẳn là nó dành nhan sắc của người đẹp cho kẻ khác, còn với thầy trò ta, nó chỉ dành cho những quả đấm và những cây đèn phang vào đầu thôi.

- Đúng thế, Đôn Kihôtê đáp; bởi vậy, ta chớ nên quan tâm đến những yêu thuật đó mà bực tức làm chi. Đó là những vật kỳ quái vô hình, không biết đâu mà trả thù được. Thôi, Xantrô, hãy gượng dậy đi tìm quan trấn thành và xin cho ta một ít dầu, rượu, muối và lá mê điệt để chế môn thuốc thần. Quả thật lúc này ta rất cần đến nó vì vết thương do yêu ma gây ra làm ta chảy nhiều máu quá.

Xương cốt đau dần, Xantrô đứng dậy mò mẫm đi tìm chủ quán thì lại gặp viên cảnh sát đang đứng nghe trộm xem Đôn Kihôtê nói gì. Bác bảo y:

- Thưa ngài, dù ngài là ai, hãy làm ơn cho chúng tôi một ít lá mê điệt, dầu, muối và rượu; đó là những thứ cần thiết để cứu chữa một trong những hiệp sĩ giang hồ xuất chúng trên đời. Chàng đã bị một tên Môrô ở trong quán trọ này dùng yêu thuật đánh trọng thương và đang nằm trên giường kia.

Thấy Xantrô nói năng như vậy, viên cảnh sát cho bác là một kẻ mất trí. Trời bắt đầu sáng; y bèn mở cửa gọi chủ quán tới và nói rõ yêu cầu của Xantrô. Được chủ quán cung cấp đầy đủ, bác giám mã mang các thứ đó về cho chủ. Đôn Kihôtê đang hai tay ôm đầu, mồm không ngớt oán trách cây đèn đã làm chàng đau đớn; tuy nhiên, chàng chỉ bị sưng có hai cái bướu to trên đầu, còn cái mà chàng tưởng là máu chỉ là mồ hôi toát ra trong lúc sợ hãi.

Đôn Kihôtê trộn cả mấy thứ với nhau, đun một lúc, thấy được mới bắc ra. Chàng hỏi mượn một cái lọ để đựng thuốc nhưng trong quán không có, đành phải đổ vào một cái bình đựng dầu bằng sắt tây do chủ quán tặng cho. Chàng đặt bình thuốc trước mặt rồi đọc các bài kinh Lạy Cha, Kính mừng, Ngợi khen, Tin kính, mỗi bài tới hơn tám chục lần, đọc xong mỗi câu lại làm dấu ban phúc. Xantrô, chủ quán và viên cảnh sát đứng xem từ đầu chí cuối, còn anh chàng lái la đã đi thăm nom đàn súc vật của mình rồi. Công việc xong xuôi, Đôn Kihôtê muốn tự mình thí nghiệm sự thần hiệu của môn thuốc mà chàng cho là rất quý. Chàng bèn uống chỗ thuốc thừa trong nồi (độ lưng một hồ) vì bình đã đầy; vừa uống khỏi mồm đã nôn thốc nôn tháo đến nỗi không còn gì trong dạ dày nữa. Bị nôn mửa hành, mồ hôi trong người toát ra như tắm, Đôn Kihôtê phải nhờ đắp chăn hộ và để cho nằm yên một mình. Sau khi đã đắp chăn cho chàng, mọi người rút lui. Hơn ba tiếng đồng hồ sau, Đôn Kihôtê tỉnh dậy, thấy trong người nhẹ nhõm, khỏi hết đau đớn, tưởng chừng vô bệnh tật. Chàng tin tưởng đã luyện thành công môn thuốc thần và từ nay về sau, nhờ có môn thuốc đó, chàng có thể xông pha nơi chiến trận, dù có nguy hiểm bao nhiêu cũng chẳng ngại ngần.

Thấy chủ bình phục một cách kỳ lạ, Xantrô Panxa bèn xin uống nốt thuốc trong nồi còn lại cũng kha khá. Được Đôn Kihôtê cho phép, bác hai tay ôm nồi, lòng đầy tin tưởng, uống một hơi cũng nhiều gần bằng của chủ. Vì dạ dày của bác có nhiều sức chống đỡ hơn nên bác còn bị vật vã, lợm giọng, toát mồ hôi, quằn quại chán mà chưa nôn ra được, tưởng đâu giờ tận số đã điểm. Trong cơn đau, bác không ngớt lời nguyền rủa môn thuốc thần và kẻ khốn kiếp đã cho bác uống. Thấy vậy, Đôn Kihôtê nói:

- Anh Xantrô, ta nghĩ rằng xảy ra cơ sự này là do anh chưa được phong tước hiệp sĩ đó thôi. Rõ ràng thuốc này không hiệu nghiệm đối với những ai không phải là hiệp sĩ.

- Rõ thật vô phúc cho tôi và cả nhà tôi nữa! Đã vậy, ngài còn cho tôi uống làm gì?

Lúc này, thuốc đã ngấm và bắt đầu hành bác giám mã đáng thương khiến cho bác miệng nôn trôn tháo ngay trên giường, bẩn hết cả chăn chiếu, không còn dùng vào việc gì được nữa. Mồ hôi toát ra như tắm, Xantrô tưởng mình chết đến nơi và mọi người có mặt cũng đều nghĩ như vậy. Sau gần hai tiếng đồng hồ đầy khủng khiếp, bác cảm thấy không đỡ như chủ, mà trái lại thân thể đau đớn rã rời, đứng không vững. Nhưng Đôn Kihôtê, sau khi trở lại nhẹ nhõm lành lặn như trên đã kể, muốn ra đi ngay để tìm kiếm những chuyện phiêu lưu, vì chàng nghĩ rằng trong suốt thời gian ở lại đây, chàng đã xa lánh cuộc đời và những người đang cần tới sự giúp đỡ che chở của chàng. Vả chăng, chàng rất tin tưởng vào môn thuốc thần.

Vì nóng lòng muốn đi, Đôn Kihôtê tự mình thắng yên cương cho con Rôxinantê, đóng cả yên cho con lừa của giám mã, rồi lại giúp Xantrô mặc quần áo và đỡ lên lưng lừa. Xong đâu đấy, chàng nhảy lên ngựa, đến góc sân nhà trọ lấy một ngọn thương dựng tại đấy để dùng làm vũ khí.

Tất cả những người trong quán trọ - khoảng trên hai chục - đứng nhìn Đôn Kihôtê, trong số đó có cả cô con gái chủ quán. Đôn Kihôtê cũng nhìn cô ta chằm chằm, thỉnh thoảng buông một tiếng thở dài phát ra tự đáy lòng. Mọi người, nhất là những người đã được chứng kiến cảnh băng bó Đôn Kihôtê tối hôm trước, lại tưởng chàng xuýt xoa đau đớn vì những vết thương ở sườn.

Khi thầy trò đã ra tới cổng, Đôn Kihôtê mới dừng ngựa lại, mời chủ quán tới và nói bằng một giọng từ tốn, nghiêm trang:

- Thưa quan trấn thành, tôi đã được hưởng rất nhiều ân huệ trong tòa lâu đài này của ngài. Ơn đó, tôi xin ghi lòng tạc dạ suốt đời. Nếu tôi có thể báo đền được bằng cách trừng trị những kẻ láo xược đã xúc phạm tới ngài, dám xin ngài biết cho rằng nghề nghiệp của tôi là bênh vực những kẻ yếu, trả thù cho những ai bị làm nhục, và trừng trị những tên phản bội. Ngài hãy cố nhớ lại và nếu có trường hợp nào như vậy, xin cho được biết. Nhân danh dòng hiệp sĩ của tôi, xin hứa sẽ làm ngài được thỏa mãn như ý muốn.

Chủ quán cũng nghiêm trang đáp lại:

- Thưa hiệp sĩ, tôi không cần ngài trả hộ tôi một mối thù nào cả vì rằng tự tôi cũng biết cách rửa thù khi bị kẻ khác làm nhục. Tôi chỉ cần ngài trả tiền trọ đêm qua, kể cả tiền rơm và lúa mạch cho hai con vật lẫn tiền cơm và tiền giường của hai người.

- Sao! Đây là quán trọ ư? Đôn Kihôtê hỏi.

- Phải, và là một quán trọ rất nổi tiếng, chủ quán đáp.

- Cho tới lúc này, tôi đã nhầm, Đôn Kihôtê nói. Thực tình, tôi cứ ngỡ đây là một tòa lâu đài nguy nga. Nhưng nếu không phải như vậy mà chỉ là một quán trọ thì chỉ có một cách miễn cho tôi việc trả tiền vì tôi không thể vi phạm luật lệ của giới hiệp sĩ giang hồ. Tôi biết chắc chắn rằng dù nghỉ ở quán nào, không bao giờ các hiệp sĩ giang hồ phải trả tiền trọ hoặc một món tiền nào khác vì từ trước tới giờ, tôi chưa hề thấy có sách nào nói ngược lại; họ có quyền được tiếp đón tử tế, đền bù vào công việc nặng nhọc của họ trong lúc đi tìm kiếm chuyện phiêu lưu mạo hiểm, đêm cũng như ngày, mùa đông cũng như mùa hè, đi bộ hay cưỡi ngựa, chịu đựng đói khát, nóng lạnh cùng bao sự khắc nghiệt và bất tiện của trời đất.

- Điều này không dính dáng gì đến tôi, chủ quán đáp. Hãy trả tiền đi và xếp những chuyện hiệp sĩ lại. Tôi chỉ biết có một việc là thu tiền thôi.

- Ông thật là một kẻ ngốc nghếch và không mến khách.

Nói rồi Đôn Kihôtê thúc ngựa, khoác thương lên vai ra khỏi quán trọ đi thẳng một mạch, không buồn để ý xem giám mã của mình có theo sau không. Chẳng ai giữ chàng lại cả. Chủ quán thấy chàng đã đi mất, bèn chạy lại đòi tiền Xantrô Panxa. Bác giám mã đáp rằng chủ đã không muốn trả thì bác cũng không trả, rằng bác là giám mã của hiệp sĩ giang hồ cho nên đối với bác cũng phải áp dụng các luật lệ như đối với chủ bác, tức là không được đòi tiền nong gì hết.

Tức quá, chủ quán dọa nếu không trả thì y sẽ có cách làm cho biết thân. Xantrô đáp lại rằng dù có mệnh hệ nào chăng nữa, bác cũng sẽ không trả một đồng xu vì tôn trọng luật lệ của giới hiệp sĩ. Bác không muốn vì mình mà các hiệp sĩ giang hồ mất một tục lệ cổ truyền hay ho, để rồi mai sau các giám mã khác có thể chê trách bác đã phá bỏ một quyền lợi chính đáng như vậy.

Rủi thay cho bác Xantrô đen đủi, trong số những khách trọ có bốn tay chuyên nghề chải len ở Xêgôvia, ba tay hàng xén ở Corđôba và hai lái buôn ở hội chợ Xêviia, là những kẻ vui tính, nghịch ngợm và thích trêu chọc. Như thể cùng chung một ý nghĩ, cả bọn họ tiến lại gần con lừa, lôi Xantrô xuống; một người đi lấy một cái khăn trải giường rồi họ ném Xantrô vào. Thấy cái mái nhà quá thấp, không tiện hành động, cả bọn kéo nhau ra sân, ở đó chỉ có vòm trời hạn chế họ thôi. Sau khi đặt Xantrô nằm gọn trong cái khăn trải giường, họ bắt đầu chơi trò tung hứng và lấy làm thú vị như khi họ tung chó trong những ngày hội hóa trang.

Những tiếng kêu thất thanh của bác giám mã bị tung lên trời lọt tới tai Đôn Kihôtê. Chàng dừng ngựa lắng nghe, mới đầu tưởng có chuyện phiêu lưu nào sắp xảy ra. Cuối cùng, nhận ra tiếng kêu của giám mã, chàng quay ngựa lại và bắt con Rôxinantê phi hết tốc lực về quán trọ. Tới nơi, thấy cổng đóng, chàng bèn đi vòng quanh để tìm lối vào; đi được mấy bước, nhìn qua bức tường không cao lắm, chàng thấy giám mã của mình đang vọt lên cao rồi lại rơi xuống một cách nhịp nhàng trong không trung. Giá như lúc đó chàng không tức giận, tôi tin rằng chàng phải cười phá lên. Chàng cố leo từ lưng ngựa lên mặt tường nhưng thân thể chàng còn đang đau ê ẩm đến nỗi xuống ngựa cũng không nổi, đành cứ ngồi trên mình con Rôxinantê ra sức chửi rủa, thách thức những kẻ đang tung Xantrô lên trời, thật không sao kể hết được. Mặc cho Đôn Kihôtê chửi bới, bọn người ở bên trong sân vẫn tiếp tục chơi trò tung hứng, còn Xantrô vừa bay vừa không ngớt mồm kêu la, dọa nạt, van xin mà chẳng ăn thua gì. Cuối cùng, cả bọn mệt quá mới dừng tay lại; rồi họ dắt con lừa tới, đặt Xantrô lên lưng nó và khoác một chiếc áo lên người bác. Thấy bác giám mã mệt lử, cô hầu Maritornex tốt bụng nghĩ là phải lấy cho bác một bình nước; cô bèn ra giếng múc cho được mát. Xantrô đỡ lấy bình nước đưa lên mồm định uống bỗng dừng lại vì nghe thấy tiếng chủ nói:

- Xantrô, con hỡi, chớ uống nước; con ta đừng uống nước đó kẻo mất mạng đấy. Con không biết ta có thuốc thần đây ư? Vừa nói, Đôn Kihôtê vừa giơ cái bình sắt tây đựng thuốc lên. Chỉ cần con uống hai giọt sẽ khỏi ngay.

Nghe chủ nói, Xantrô lác xệch cả hai mắt; bác hét to hơn cả chủ:

- May thay! Ngài quên rằng tôi không phải là hiệp sĩ ư, hay ngài muốn tôi dốc nốt những gì còn lại trong bụng sau trận nôn mửa đêm qua? Thôi, xin ngài giữ lấy món thuốc quỷ quái đó, để mặc tôi!

Nói rồi, Xantrô đưa bình nước lên mồm uống luôn. Nhưng mới được một ngụm, thấy nước lã, bác không uống nữa và yêu cầu Maritornex mang rượu đến. Cô này vui lòng làm ngay và còn bỏ cả tiền túi ra trả. Người ta đồn rằng mặc dù ở trong hoàn cảnh tôi đòi, cô còn mang những tính nết của một người theo Ki-tô giáo. Sau khi Xantrô uống xong, Maritornex mở toang cổng, Xantrô lấy gót chân thúc lừa ra khỏi quán trọ. Bác lấy làm hài lòng vì không phải trả một đồng xu nào và được ra đi theo ý muốn tuy đã phải giơ lưng ra làm bảo lãnh. Thực ra để bù vào khoản tiền trọ, lão chủ quán đã giữ được cái túi hai ngăn mà bác giám mã trong lúc vội vã ra đi không nhớ tới. Thấy Xantrô đi rồi, chủ quán định ra đóng cổng chặt lại nhưng mấy anh chàng vừa chơi trò tung hứng không nghe vì họ coi Đôn Kihôtê không đáng một đồng sứt dù chàng có thuộc dòng hiệp sĩ Bàn Tròn.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes

Chương XVIII

CUỘC ĐÀM THOẠI GIỮA XANTRÔ VÀ ĐÔN KIHÔTÊ, CÙNG NHỮNG CHUYỆN KHÁC ĐÁNG ĐƯỢC KỂ LẠI



Xantrô đã đuổi kịp chủ; bác mệt lử, không còn sức thúc lừa nữa. Thấy thế, Đôn Kihôtê nói:

- Anh Xantrô này, bây giờ thì ta tin chắc rằng tòa lâu đài hay quán trọ đó có yêu quái. Những kẻ trêu ghẹo anh một cách độc ác kia là gì nếu không phải là ma quỷ và những người ở thế giới bên kia? Ta cam đoan như vậy vì lúc ta nhìn qua tường thấy tình cảnh bi đát của anh, ta không sao leo lên tường và cũng không sao xuống ngựa được; đó là do ta bị phù phép. Ta lấy danh dự thề rằng nếu lúc đó ta leo được lên tường hoặc xuống được ngựa thì ta sẽ trả thù cho anh một cách đích đáng khiến cho lũ vô lại ngu xuẩn kia sẽ nhớ đời trò đùa của chúng, mặc dù ta biết làm như vậy trái với luật lệ của giới hiệp sĩ vì, như ta vẫn thường nói với anh, luật lệ không cho phép một hiệp sĩ đánh nhau với người thường, trừ phi trong trường hợp thật cần thiết phải bảo vệ tính mạng và con người mình.

- Tôi cũng sẽ trả thù nếu tôi có thể làm được việc đó, dù tôi có là hiệp sĩ hay không, nhưng tiếc rằng tôi không làm nổi. Còn những kẻ đã trêu ghẹo tôi chẳng phải ma quỷ hay phù thủy như ngài nói đâu; họ cũng là những người bằng xương bằng thịt như ta cả mà thôi. Chúng có tên có tuổi hẳn hoi vì trong lúc bị tung lên trời, tôi nghe thấy chúng gọi nhau: một đứa tên là Pêđrô Martinêx, một đứa khác là Tênôriô Ernanđêx, còn lão chủ quán là Huan Palômêkê el Xurđô. Bởi vậy, thưa ngài, nếu lúc đó ngài không leo lên tường hoặc nhảy xuống ngựa được thì do một nguyên nhân nào khác chứ chẳng có phép thuật nào cả. Và qua sự việc này, tôi thấy rõ rằng những chuyện phiêu lưu mạo hiểm ta đi tìm kiếm, cuối cùng sẽ dẫn đến những việc rủi ro này, không còn biết lối nào mà đi nữa. Theo thiển nghĩ của tôi, có lẽ tốt nhất và đúng nhất là ta hãy trở về quê lúc này đang mùa gặt để trông nom nhà cửa ruộng vườn hơn là cứ đi lang thang để rồi gặp hết chuyện không may này đến chuyện không may khác.

- Thật quả anh chả biết gì mấy về cái nghề hiệp sĩ này cả! Đôn Kihôtê đáp. Đừng nói nữa và hãy kiên nhẫn. Có một ngày, anh sẽ thấy tận mắt rằng làm nghề này vinh dự biết bao. Thử hỏi trên đời có gì sung sướng và vui thích hơn khi ta thắng một trận và đánh bại kẻ thù? Chắc chắn là không có.

- Có thể như thế đấy vì tôi không biết, Xantrô đáp; nhưng chỉ biết rằng từ ngày chúng ta đi làm hiệp sĩ giang hồ, nói đúng hơn là từ ngày ngài làm hiệp sĩ giang hồ (vì tôi không có vinh dự đó), chúng ta chưa thắng một trận nào trừ lần đánh bại kỵ sĩ tỉnh Vixcaia, mà trong trận này ngài cũng bị mất nửa cái tai và nửa cái mũ. Ngoài ra chỉ thấy hết gậy bé đến gậy lớn, hết thụi nhỏ đến thụi to; riêng tôi còn bị yêu ma trêu ghẹo ở trong quán trọ mà không trả thù được để hưởng cái thú nhìn thấy sự thất bại của kẻ địch như ngài nói.

- Đó chính là nỗi phiền muộn của ta và chắc cũng là của anh nữa, Đôn Kihôtê nói. Nhưng rồi ra, ta sẽ cố kiếm một thanh gươm thật tốt, ai mang nó sẽ không bị một yêu thuật nào làm hại. Biết đâu ta chẳng gặp may có được trong tay thanh gươm của Amađix khi chàng mang tên là hiệp sĩ Gươm Nóng Hổi; đó là một trong những thanh gươm lợi hại nhất trên đời vì rằng ngoài năng tính nói trên, nó chém sắt như bùn, không áo giáp nào chịu nổi dù cứng đến mấy hay có phép yêu ma.

- Số tôi chẳng ra gì, Xantrô nói, cho nên dù ngài có kiếm được một thanh gươm tốt như vậy, nó cũng sẽ chỉ giúp ích cho những ai đã được phong tước hiệp sĩ mà thôi, cũng giống như môn thuốc thần, còn đối với những giám mã thì chẳng nước non gì đâu.

- Xantrô, anh chớ ngại điều đó; Trời kia sẽ phù hộ cho anh.

Hai thầy trò còn đang bàn bạc bỗng đâu Đôn Kihôtê thấy phía trước mặt có một đám bụi mù mịt đang tiến lại gần; chàng quay lại nói với giám mã:

- Ồ Xantrô! Đây là ngày tốt lành mà vận may đã dành cho. Đây là ngày ta phải biểu thị sức mạnh của cánh tay ta, ngày mà ta làm nên những sự nghiệp sẽ được ghi chép trong sử xanh cho đời sau mãi mãi. Xantrô, anh có nhìn thấy đám bụi đang bốc cao ở trước mặt không? Đó là một đạo quân rất đông gồm nhiều dân tộc đang tiến tới đây.

- Nếu vậy thì có những hai đạo quân kia, Xantrô đáp, bởi vì ở phía đối diện cũng có một đám bụi khác bốc lên trời.

Đôn Kihôtê quay lại thì quả nhiên như vậy. Chàng cả mừng, nghĩ ngay rằng đó là hai đạo quân sắp gặp nhau và giao chiến với nhau trên cánh đồng bao la này. Sở dĩ Đôn Kihôtê nghĩ như vậy vì lúc nào đầu óc chàng cũng đầy rẫy những chuyện đâm chém, ma quái, phiêu lưu mạo hiểm điên rồ, yêu đương, thách thức, kể trong các sách kiếm hiệp, cho nên tất cả những điều chàng phát biểu, suy nghĩ hoặc hành động đều hướng về những chuyện đó. Thực ra, sở dĩ có những đám bụi nói trên là do có hai đàn cừu từ hai phía đối diện đi tới; vì bụi bốc lên mù mịt nên từ xa không nhìn thấy đàn súc vật đâu cả. Đôn Kihôtê quả quyết đó là hai đạo quân và cuối cùng Xantrô cũng tin. Bác hỏi:

- Vậy thưa ngài, thầy trò ta phải làm gì bây giờ?

- Làm gì ư? Đôn Kihôtê đáp. Phải ủng hộ, giúp đỡ những kẻ khốn cùng. Xantrô, anh phải biết rằng đạo quân ở phía trước mặt chúng ta do đại đế Aliphanpharôn dẫn đầu; ông ta trị vì hòn đảo lớn tên gọi là Trapôbana; còn đạo quân ở phía sau lưng ta đi tới thuộc đối thủ của đại đế Aliphanpharôn tức là ông vua của người Garamanta tên là Pentapôlin Áo Vén Tay vì mỗi khi lâm trận, ông ta để trần cánh tay phải.

- Tại sao hai ông này thù ghét nhau đến như vậy?

- Họ thù ghét nhau vì Aliphanpharôn, một kẻ ngoại đạo cực độ, mê con gái Pentapôlin là một tiểu thư rất xinh đẹp, có duyên và theo đạo Ki-tô. Bố cô ta không muốn gả cô cho ông vua ngoại đạo nếu ông này không chịu từ bỏ luật lệ của giáo tổ giả hiệu Mahôma để theo Ki-tô giáo.

- Pentapôlin xử sự đúng quá; đã thế tôi phải ra sức giúp ông ta.

- Được, tùy anh thôi, bởi vì muốn tham gia những trận như thế này, không cần phải được phong tước hiệp sĩ.

- Tôi hiểu rồi, nhưng biết giấu con lừa này vào đâu để sau trận đánh còn tìm thấy nó? Tôi chưa thấy ai cưỡi lừa ra trận bao giờ.

- Đúng thế; chỉ có một cách thả rong thôi, còn hay mất cũng không sao. Sau khi thắng trận, chúng ta sẽ có rất nhiều ngựa, và ngay Rôxinantê cũng có nguy cơ bị thải. Nhưng anh hãy nhìn và chú ý nghe; ta muốn giới thiệu với anh những hiệp sĩ trứ danh trong hai đạo quân; để cho anh nhìn được rõ hơn, ta hãy leo lên ngọn đồi kia mà quan sát hai bên.

Hai thầy trò leo lên đồi và nhìn thấy hai đàn cừu, nhưng Đôn Kihôtê vẫn tưởng là hai đạo quân vì bụi bốc lên mù mịt làm chàng mờ cả mắt. Thế là chàng tưởng tượng ngay ra những điều mà mắt không nhìn thấy và bắt đầu nói:

- Trông kìa, hiệp sĩ mang vũ khí vàng chóe và một cái khiên vẽ hình một con sư tử nằm dưới chân một thiếu nữ, đó là hiệp sĩ Laocalcô dũng cảm, lãnh chúa Puentê đê Plata; hiệp sĩ có những vũ khí trang trí hoa vàng và mang khiên có ba cái miện bằng bạc trên nền xanh, đó là hiệp sĩ Micôcôlembô đáng gờm, đại công tước Kirôxia; bên tay phải chàng là một người có đôi chân và đôi tay khổng lồ, đó là Branđabarbaran đê Bôlichê, lãnh chúa ba xứ Arabia, một hiệp sĩ không hề biết run sợ; chàng mặc một cái áo giáp bằng da rắn, và cái khiên của chàng là một cánh cửa; theo lời đồn, đó là một trong những tấm cửa của ngôi đền bị phá hủy bởi bàn tay phục thù của Xanxôn trước khi chết. Bây giờ, hãy nhìn sang phía bên kia; dẫn đầu đạo quân này là Timônel đê Carcahôna,hoàng tử xứ Nuêva Vixcaia, con người chỉ thắng không bại; vũ khí của chàng mang bốn màu: xanh da trời, xanh lá cây, vàng và trắng bạc; khiên của chàng có hình một con mèo vàng trên nền hung hung và chữ Miu, âm đầu tên tình nương của chàng là nàng Miulina xinh đẹp tuyệt trần, con gái công tước Anphênhikên đel Algarbê; còn anh chàng ngồi trĩu cả lưng con ngựa cái lực lưỡng, mang những vũ khí trắng như tuyết và một cái khiên trắng không vẽ hình gì cả, đó là một hiệp sĩ mới người Pháp, tên là Pierêx Papin, lãnh chúa và nam tước miền Utrikê; còn hiệp sĩ đang thúc gót sắt vào sườn con ngựa có thân hình thon thả và màu lông sặc sỡ, mang những vũ khí lót lông màu xanh da trời, đó là đại công tước Nerbia tên là Expartaphilar đô đel Bôxkê, biểu hiệu trên khiên là một cây long tu thái kèm theo câu: "Hãy đi tìm số phận của ta".

Cứ như thế, bằng một sự tưởng tượng điên rồ có một không hai, Đôn Kihôtê kể lai lịch các hiệp sĩ của hai đạo quân tưởng tượng cùng với những vũ khí, màu sắc, biểu hiệu và châm ngôn của từng người. Chàng nói tiếp:

- Đạo quân trước mặt gồm nhiều dân tộc: có những người uống dòng nước ngọt ngào của con sông Xantô nổi tiếng; có những người sống trên những miền núi Châu Phi; có những người đãi vàng ở xứ Arabia hạnh phúc; có những người sống trên những bờ phì nhiêu và mát mẻ của con sông Termôđôntê trong vắt; có những người đã khôn khéo sử dụng con sông Pắctôlô có cát vàng; có những người Numiđia tính tình bất trắc; có những người Ba Tư bắn cung rất giỏi; có những người Partia và Mêđia chưa lâm trận đã chạy trốn; có những người Arập du mục; có những người Xita da trắng tính tình độc ác; có những người Êtiôpia dùi môi, và còn biết bao nhiêu dân tộc khác mà ta nhận được mặt nhưng không nhớ tên. Còn đạo quân thứ hai gồm những người uống dòng nước trong vắt của con sông Bêtix có những cây cảm lãm ở hai bờ; có những người rửa mặt bằng nước sông Tahô có lẫn vàng cho da dẻ mịn màng; có những người sống bên dòng nước màu mỡ của sông Hênil tuyệt diệu; có những người sống trên những cánh đồng cỏ phì nhiêu; có những người sống sung sướng trên những cánh đồng đẹp tuyệt vời; có những người ở vựa lúa Mantra; có những người thuộc dòng máu Gốt cổ xưa mặc toàn đồ sắt; có những người tắm trên dòng sông Pixuerga êm đềm; có những người chăn nuôi gia súc trên đôi bờ bát ngát của con sông Guađiana uốn khúc quanh co dưới lòng đất; có những người sống trên vùng rừng núi Pirênêô lạnh ngắt hay giữa băng tuyết của rừng núi Apêninô; tóm lại đạo quân này bao gồm tất cả các dân tộc châu Âu.

Lạy Chúa! Với bộ óc chứa đầy những chuyện hoang đường đọc trong sách vở, Đôn Kihôtê kể ra không biết bao nhiêu tỉnh và quốc gia cùng những đặc điểm rất chính xác của từng nơi, từng chốn. Xantrô Panxa nín lặng chăm chú nghe, thỉnh thoảng quay đầu nhìn về phía hai đạo quân xem có thấy những hiệp sĩ và những người khổng lồ như chủ giới thiệu không. Nhìn mãi chẳng thấy gì, bác nói với Đôn Kihôtê:

- Thưa ngài, quỷ bắt tôi đi nếu tôi thấy một hiệp sĩ hay một người khổng lồ nào như ngài kể; hoặc giả mắt tôi không nhìn thấy vì có lẽ lại có chuyện yêu thuật gì đây như lũ ma quái đêm qua chăng?

- Nói thế nào vậy? Đôn Kihôtê hỏi vặn. Thế anh không nghe thấy tiếng ngựa hí, tiếng kèn rúc và tiếng trống vang đó sao?

- Tôi không nghe thấy tiếng gì cả ngoài tiếng kêu ầm ĩ của những con cừu.
Xantrô nói đúng vì lúc này hai đàn cừu đã tới gần.

- Xantrô, sự sợ hãi làm mờ mắt ù tai anh. Một trong những tác động của sự sợ hãi là làm rối loạn tri giác và khiến cho sự việc thay hình đổi dạng. Thôi, nếu anh quá sợ thì hãy tránhđi để mặc ta; chỉ cần một mình ta giúp đỡ bên nào tất bên đó sẽ thắng.

Nói rồi, Đôn Kihôtê thúc đinh vào sườn con Rôxinantê, cầm ngang ngọn giáo, phi như bay xuống chân đồi. Xantrô vội hét to:

- Ngài Đôn Kihôtê, xin ngài quay trở lại. Ngài đi đánh những con cừu đó thôi. Hãy quay lại đi. Rõ khổ cho bố đẻ ra tôi chưa! Thật là điên rồi! Hãy nhìn lại xem. Làm gì có khổng lồ, hiệp sĩ, mèo chó, gươm giáo, khiên mộc xanh đỏ quỷ quái cơ chứ. Ngài định làm gì thế vậy? Tôi thật có tội với Chúa.

Nhưng Đôn Kihôtê nào có chịu quay lại; chàng thét to:

- Hỡi các hiệp sĩ đi chiến đấu dưới lá cờ của hoàng đế dũng cảm Pentapôlin Áo Vén Tay, hãy theo ta; các người sẽ thấy ta đánh bại một cách dễ dàng tên Aliphanpharôn đêla Trapôbana, địch thủ của hoàng đế, để trả thù cho Người.

Nói rồi, chàng xông vào giữa đàn cừu, vung ngọn giáo lên một cách dũng mãnh phi thường như thể đang chiến đấu với những kẻ thù không đội trời chung vậy. Những người chăn cừu đi theo đàn gia súc vội kêu to bảo chàng dừng tay lại, nhưng thấy vô hiệu, họ bèn tháo ná đeo ở thắt lưng và tiếp đón chàng bằng những hòn đá to bằng nắm tay. Đôn Kihôtê nào có đếm xỉa gì đến những viên đá; chàng vẫn phi ngựa giữa đàn gia cừu, mồm kêu:

- Tên Aliphanpharôn kiêu ngạo kia ở đâu, hãy lại đây. Ta muốn một mình thử sức với ngươi và kết liễu cuộc đời ngươi để trả thù cho Pentapôlin Garamanta dũng cảm.

Vừa lúc đó, một hòn đá văng đúng vào sườn Đôn Kihôtê, làm cho hai cái xương lún hẳn xuống. Đinh ninh rằng mình sắp chết hoặc bị trọng thương, và chợt nhớ tới môn thuốc thần, chàng rút bình thuốc đưa lên mồm và đổ vào dạ dày; nhưng còn đang uống chưa hết liều (Đôn Kihôtê nghĩ như vậy), bỗng đâu một hòn đá thứ hai bắn đúng vào tay cầm bình thuốc, nghiền nát hai ngón tay và làm vỡ tan cái bình, tiện thể làm bật ba bốn cái răng ra khỏi mồm. Bị luôn hai phát ná như trời giáng, chàng hiệp sĩ tội nghiệp ngã lăn từ trên mình ngựa xuống đất. Đám chăn cừu chạy lại, tưởng chàng chết, vội thu thập đàn cừu rồi chuồn thẳng, vác theo cả bảy tám con cừu bị giết.

Trong lúc đó, Xantrô vẫn đứng trên đồi theo dõi hành động điên rồ của chủ, vừa vò đầu bứt tai, vừa oán trách số phận đã xui khiến bác gặp phải một ông chủ như vậy. Khi thấy Đôn Kihôtê nằm lăn dưới đất và những người chăn cừu đã đi khỏi, bác bèn xuống đồi đi lại gần; thấy chàng hiệp sĩ ở trong một tình trạng rất bi đát nhưng vẫn tỉnh, bác bèn bảo:

- Thưa ngài Đôn Kihôtê, tôi đã chẳng bảo ngài quay trở lại rồi sao? Rằng đó là hai đàn cừu chứ có phải quân quan gì đâu mà đánh!

- Lão pháp sư thù địch xỏ lá của ta đã làm thay hình đổi dạng như vậy đó, Đôn Kihôtê nói. Xantrô, anh phải biết rằng bọn chúng có thể sai khiến rất dễ dàng con mắt của chúng ta; và lão pháp sư ranh ma xấu bụng kia, thấy ta sắp thắng trận, đã biến hai đạo quân thành hai đàn cừu. Nếu không thế, hãy nghe ta bảo và anh sẽ thấy ta nói đúng: hãy leo lên con lừa kia và bí mật đi theo bọn chúng; anh sẽ thấy rằng sau khi đã đi cách đây một quãng, chúng sẽ trở lại nguyên hình từ những con cừu thành những người bằng xương bằng thịt như ta đã tả lúc nãy. Nhưng thôi, chớ đi vội vì ta đang cần đến sự giúp đỡ của anh; hãy lại đây nhìn xem ta bị mất mấy cái răng; hình như không còn cái nào trong mồm ta nữa thì phải.

Xantrô ghé mắt vào sát mồm Đôn Kihôtê; lúc này thuốc thần ở trong bụng Đôn Kihôtê đã bắt đầu ngấm và đúng lúc Xantrô nhòm vào thì, mạnh như súng, chàng hiệp sĩ ọe vào đầy mặt bác giám mã thương người tất cả những gì chứa trong bụng.

- Lạy thánh Maria! Cái gì vậy? Xantrô kêu lên. Đúng là kẻ có tội này bị thương nên mới hộc máu ra như thế này.

Sau khi nhìn kỹ, bác thấy màu sắc, mùi vị không giống máu, té ra đó là thuốc thần mà bác đã trông thấy chủ uống lúc trước. Bác đâm lợm giọng, rồi cũng nôn thốc nôn tháo vào hết cả người Đôn Kihôtê, cả thầy lẫn tớ nom thật khó coi. Nôn xong, bác lại gần con lừa định tìm cái túi hai ngăn để lấy giẻ lau và thuốc men cho chủ nhưng không thấy đâu cả. Gần như phát cuồng, bác lại ra sức nguyền rủa và định bụng sẽ bỏ mặc chủ trở về quê một mình dù có phải mất cả tiền công lẫn hy vọng được cai trị hòn đảo mà chủ đã hứa.

Lúc này, Đôn Kihôtê đã đứng dậy được; tay trái bịt chặt mồm để giữ những cái răng còn lại khỏi văng ra ngoài, tay phải nắm dây cương (con Rôxinantê trung thành và ngoan ngoãn từ đầu đến giờ vẫn không rời khỏi chủ một bước), chàng tiến lại gần giám mã; Xantrô đứng áp ngực vào con lừa, tay tì má suy nghĩ. Thấy bác tỏ vẻ buồn rầu, Đôn Kihôtê bảo:

- Xantrô, anh phải biết rằng nếu ta muốn khác người thì phải làm khác người. Tất cả những cơn phong ba bão táp vừa qua báo hiệu trời sắp quang đãng và chúng ta sắp gặp những điều tốt lành; cái hay cũng như cái dở không thể nào tồn tại mãi được, và vì đã gặp quá nhiều điều rủi rồi, nay mai ta sẽ gặp những điều may. Bởi thế, anh không nên phiền muộn về những nỗi bất hạnh đã xảy đến với ta; vả chăng anh có bị ảnh hưởng gì đâu.

- Sao lại không? Xantrô đáp. Thử hỏi cái người bị tung lên quật xuống ngày hôm qua không phải là con trai của bố tôi sao? Và cái túi hai ngăn bị mất cùng bao nhiêu của quý ở trong không phải của tôi sao?

- Sao, Xantrô, anh mất cái túi hai ngăn rồi ư?

- Còn sao nữa!

- Thế là chúng ta không có gì ăn ngày hôm nay cả.

- Điều đó chỉ xảy ra một khi những cánh đồng này không có loại cỏ mà ngài đã giới thiệu; những nhà hiệp sĩ giang hồ đen đủi như ngài thường dùng nó trong những trường hợp không có cái ăn như thế này.

- Tuy nhiên, lúc này đây ta thích một cân bánh mì với hai con cá mòi hơn các loại cỏ do Điôxcôriđêx tả và đã được bác sĩ Laguna chứng minh. Nhưng thôi, Xantrô yêu quý, hãy lên lừa và đi theo ta. Thượng đế kia cung cấp cho muôn loài, sẽ không để thầy trò ta bị thiếu thốn, nhất là chúng ta vẫn tâm tâm niệm niệm phụng sự Người. Người không để cho ruồi muỗi thiếu không khí, giun dế thiếu đất, sâu bọ thiếu nước; Người đầy lòng bác ái và dù thiện cũng như ác, hay cũng như dở, tất cả đều được đội ơn mưa móc của Người.

- Ngài làm nghề truyền giáo tốt hơn làm hiệp sĩ giang hồ.

- Những người hiệp sĩ giang hồ biết và cần phải biết đủ mọi chuyện. Có những hiệp sĩ trong những thế kỷ trước đã từng thuyết pháp giữa một đồn quân một cách trôi chảy như thể tốt nghiệp ở trường Đại học Pari ra; từ đó ta có thể kết luận rằng ngọn giáo không làm cùn ngòi bút cũng như ngòi bút không làm cùn ngọn giáo.

- Mong rằng ngài nói đúng. Bây giờ, ta hãy đi khỏi đây tìm chỗ nghỉ đêm nay, và cầu Chúa ở đó không có những kẻ chơi trò tung hứng, ma quỷ hoặc những pháp sư người Môrô, nếu không thì thật hết đời.

- Anh hãy cầu Chúa đi và muốn dẫn ta đến đâu cũng được; lần này ta để tùy anh tìm chỗ nghỉ. Nhưng hãy cho tay vào hàm trên bên phải này xem ta mất bao nhiêu cái răng vì ta thấy đau lắm.

Xantrô cho tay vào mồm Đôn Kihôtê, sờ sờ nắn nắn rồi nói:

- Ngài có bao nhiêu răng hàm ở chỗ này?

- Bốn; trừ cái răng khôn, tất cả đều tốt nguyên.

- Xin ngài hãy nói cho đúng.

- Ta nói bốn chứ không phải năm vì cả đời ta chưa nhổ một cái răng nào, và ta cũng không hề bị sún răng hoặc sưng lợi bao giờ.

- Vậy mà ở phía dưới chỉ thấy có hai cái răng rưỡi, bên trên không còn tới nửa cái, chỉ thấy nhẵn thín như lòng bàn tay vậy.

Nghe những lời nói đáng buồn của giám mã, Đôn Kihôtê than thở:

- Thật là bất hạnh cho ta! Thà chúng chặt mất một cánh tay của ta còn hơn, miễn là không phải cánh tay cầm gươm. Xantrô, anh phải biết rằng mồm không răng như cối xay không đá, và một cái răng còn quý hơn một viên kim cương rất nhiều. Nhưng chúng ta phải chịu đựng tất cả vì chúng ta phải làm cái nghề hiệp sĩ khắc khổ này. Thôi, anh bạn hãy lên lừa và dẫn đường, ta sẽ theo bước anh.

Xantrô trèo lên lừa đi tìm nơi trú chân, vẫn theo con đường cái quan thẳng tắp. Họ đi chậm chạp vì hai hàm răng của Đôn Kihôtê khiến chàng nhức nhối không sao đi nhanh được. Để khuây khỏa chủ, Xantrô gợi chuyện ra nói như sẽ kể ở chương sau.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes

=)) đọc buồn cười quá....

Chương XIX

TỪ CUỘC TÂM SỰ GIỮA XANTRÔ VÀ ĐÔN KIHÔTÊ ĐẾN CUỘC GẶP GỠ VỚI MỘT CÁI XÁC CHẾT, CÙNG NHỮNG SỰ VIỆC LY KỲ KHÁC



- Thưa ông chủ, hình như tất cả những chuyện không may xảy ra trong mấy ngày hôm nay là một sự trừng phạt đối với ngài vì ngài đã vi phạm luật lệ của hiệp sĩ đạo. Ngài đã không làm đúng lời thề là ăn không cần ngồi bàn, sống không gần vợ, và còn nhiều điều khác nữa mà ngài đã hứa sẽ thực hiện chừng nào chưa đoạt được cái mũ sắt của Malanđrinô, tên Môrô mà tôi không nhớ rõ tên tuổi lắm.

- Xantrô, anh nói rất đúng, Đôn Kihôtê đáp; thú thực, ta quên bẵng đi mất; và anh có thể chắc chắn rằng vì đã không nhắc nhở ta kịp thời nên anh đã bị trêu ghẹo. Thôi được, rồi ta sẽ sửa vì trong hiệp sĩ đạo có nhiều cách giải quyết.

- Nhưng tôi có thề thốt gì đâu?

- Dù anh không thề cũng vậy thôi vì chỉ cần anh có đóng góp vào sự sai trái của ta. Cho nên, dù có thề hay không thề cũng cần phải tìm cách sửa.

- Nếu như vậy, xin ngài chớ quên điều này cùng những lời thề cũ. Có thể lũ yêu ma lại định trêu ghẹo tôi lần nữa, thậm chí còn trêu ghẹo cả ngài nữa kia.

Còn đang trò chuyện thì trời đã tối mà hai người vẫn chưa tìm được chỗ nghỉ chân; thêm vào đó, cả hai đều đói bụng mà cái túi hai ngăn đựng lương thực thì mất rồi. Đã thế, trời lại tối đen như mực. Tuy vậy, họ vẫn đi. Xantrô đinh ninh rằng đi độ một hai dặm nữa trên đường cái quan này, chắc sẽ gặp quán trọ. Hai thầy trò cứ mò mẫm trong đêm tối, trò đói bụng, thầy cũng muốn ăn. Bỗng đâu từ phía trước mặt tới thấy có rất nhiều đốm lửa, trông như sao đổi ngôi. Xantrô lạnh toát cả người, Đôn Kihôtê cũng đâm hoảng. Bác giám mã ghì dây tròng lừa, chàng hiệp sĩ ghì cương ngựa, rồi cả hai nín lặng nhìn chăm chú xem sao. Những đốm lửa vẫn tiến về phía họ, càng gần càng to. Xantrô run bần bật, tóc trên đầu Đôn Kihôtê cũng dựng ngược lên. Chàng hiệp sĩ cố trấn tĩnh nói:

- Xantrô, chắc chắn đây là một chuyện phiêu lưu lớn nhất và nguy hiểm nhất, đòi hỏi ta phải dốc hết can đảm và sức lực ra.

- Vô phúc cho tôi chưa! Nếu lại có một chuyện ma quái nữa như tôi cảm thấy, thử hỏi còn đâu xương sườn để chịu đòn.

- Dù có ma quái chăng nữa, ta cũng sẽ không để chúng chạm tới một sợi lông ở áo anh. Sở dĩ trước đây chúng trêu ghẹo anh vì ta không vượt tường nhảy vào sân được; nhưng bây giờ chúng ta ở nơi đất bằng và ta có đất để múa gươm.

- Nhưng nếu chúng lại làm cho ngài mê mẩn và liệt cả tay chân, thử hỏi ở nơi đất bằng có được lợi lộc gì hay không?

- Xantrô, dù sao ta cũng khuyên anh nên có can đảm; rồi anh sẽ thấy ta không run sợ trước bọn chúng.

- Ơn nhờ Chúa, tôi sẽ có can đảm.

Hai người đứng né sang bên đường chăm chú nhìn xem những đốm lửa di động kia là cái gì thì thấy một đám người choàng áo lễ trắng. Cảnh tượng khủng khiếp đó khiến Xantrô Panxa mất hết tinh thần, hai hàm răng cứ đập vào nhau như lên cơn sốt rét, càng nhìn rõ bao nhiêu tóc càng dựng ngược và răng càng đập mạnh bấy nhiêu. Trước mắt họ có tới hai chục người cưỡi la, mặc áo trắng dài, tay cầm đuốc; rồi đến một cái kiệu phủ toàn vải đen theo sau có sáu người cũng cưỡi la, cả người lẫn vật đều để tang suốt từ đầu tới chân (nhìn bước đi chậm chạp của những con vật cũng thấy rõ không phải là ngựa). Những người choàng áo trắng dài vừa đi, vừa rì rầm cầu nguyện với một vẻ thương xót. Cảnh tượng rùng rợn này, giữa đêm hôm khuya khoắt vắng vẻ, đủ làm cho Xantrô và ngay cả chủ bác phải hoảng hồn. Bác giám mã đã bắt đầu chùn; trái lại, Đôn Kihôtê tưởng tượng ngay ra một chuyện phiêu lưu mạo hiểm như đã đọc trong sách.

Chàng nhìn cái kiệu hóa ra cái cáng, trên đó có một hiệp sĩ bị trọng thương hoặc đã chết, và nhiệm vụ của chàng là phải trả thù cho kẻ bị nạn. Thế là, chẳng nói chẳng rằng, chàng cầm ngang ngọn giáo, ngồi lại ngay ngắn trên yên ngựa, rồi với một vẻ hiên ngang đĩnh đạc, đứng ra giữa đường chờ đám người mặc áo choàng trắng đi tới. Khi họ đã tới gần, Đôn Kihôtê cất cao giọng:

- Hỡi các hiệp sĩ, bất kể các người là ai, hãy dừng lại xưng danh và nói cho ta biết các người từ đâu tới đây, đi đâu và khiêng ai trên cáng kia. Xem ra, các người đã gây tội lỗi hay đã bị ai gây hấn và ta cần phải biết điều đó để một là trị tội các người, hai là rửa hận cho các người.

- Chúng tôi đang vội, một người khoác áo choàng trắng đáp, quán trọ còn xa; chúng tôi không thể dừng lại để báo cáo theo yêu cầu của ngài.

Nói rồi, người đó thúc la vượt lên. Đôn Kihôtê đùng đùng nổi giận, nắm ngay cương con la, thét:

- Đứng lại; hãy tỏ ra có lễ độ hơn và trả lời những câu hỏi của ta; nếu không ta sẽ đánh cả bọn.

Con la này nhát tính, thấy có người nắm cương, chồm bốn vó lên rồi ngã lăn ra đất, quật cả chủ nó xuống theo. Có một anh hầu đi bộ, nhìn thấy cảnh đó, bèn chửi rủa Đôn Kihôtê. Hăng máu, chàng hiệp sĩ nắm chặt ngọn giáo, xông vào một người mặc đồ tang quật ngã xuống đất rồi quay sang đánh luôn những người khác, tả xung hữu đột, nom thật đẹp mắt, con Rôxinantê lướt trên mặt đất một cách oai hùng như mới có thêm đôi cánh. Đám người mặc áo choàng trắng không quen đánh nhau, lại không có vũ khí, vội bỏ cuộc, tay cầm đuốc chạy khắp cánh đồng, nom giống như những người đeo mặt nạ hóa trang trong buổi dạ hội; những người mặc tang phục, bị lúng túng trong bộ đồ dài lượt thượt, không sao trở tay được, khiến Đôn Kihôtê được một phen đánh đuổi thích tay. Họ tưởng chàng không phải người trần mà là một con quỷ ở địa ngục lên cướp tử thi trong kiệu.

Trước cảnh tượng đó, Xantrô rất khâm phục sự dũng cảm của chủ, bác tự nhủ: "Chủ ta thật là can đảm như ngài vẫn nói".

Có một bó đuốc cháy dở dưới đất, soi rõ người mặc áo choàng trắng bị con la vật ngã lúc đầu; chợt nhìn thấy, Đôn Kihôtê tiến lại gần, gí ngọn giáo vào mặt, bắt phải đầu hàng, nếu không sẽ giết chết. Người mặc áo choàng trắng vội đáp:

- Tôi đã hàng từ lâu vì tôi có nhúc nhích được đâu, tôi bị gãy một đùi rồi. Nếu ngài là một hiệp sĩ theo đạo Ki-tô, tôi van ngài đừng giết tôi, nếu không ngài sẽ mắc một điều đại bất kính vì tôi đã đỗ cử nhân và mới được thụ phong giáo chức.

- Ông là người của Giáo hội ư? Đôn Kihôtê hỏi. Vậy ai run rủi ông tới đây?

- Ai ư? Thưa ngài, sự bất hạnh dẫn tôi tới đây.

- Vậy thì ông sẽ gặp một sự bất hạnh lớn hơn nếu không thỏa mãn tôi và trả lời những câu hỏi của tôi.

- Ngài sẽ được thỏa mãn ngay bây giờ, người tự khoe là ông cử đáp; tôi không đỗ cử nhân như đã nói lúc nãy mà mới có bằng tú tài; tên tôi là Alônxô Lôpêx, quê quán tại Alcôbenđax; tôi tới tỉnh Baêda cùng với mười một giáo sĩ khác là những người cầm đuốc vừa chạy trốn lúc nãy; chúng tôi đưa một cái kiệu trong có tử thi một hiệp sĩ đến tỉnh Xêgôvia; hiệp sĩ này chết ở Baêda và đã được chôn ở đó; bây giờ chúng tôi đưa hài cốt về Xêgôvia là nơi chôn rau cắt rốn của chàng.

- Ai giết hiệp sĩ đó? Đôn Kihôtê hỏi.

- Chúa đã bắt tội chàng sau một cơn sốt ác liệt.

- Nếu vậy, Chúa đã miễn cho tôi nhiệm vụ báo thù cho chàng vì một khi Chúa bắt tội ai, người đó phải cúi đầu tuân theo không được cưỡng lại. Ví thử Chúa bắt tội bản thân tôi, tôi cũng sẽ chịu như vậy. Tiện đây, tôi cũng muốn nói để ngài biết rằng tôi là một hiệp sĩ ở xứ Mantra, tên là Đôn Kihôtê, và công việc của tôi là đi khắp đó đây để bênh vực kẻ hèn yếu, trả thù cho những người bị xúc phạm.

- Chẳng biết ông bênh vực kẻ hèn yếu ra sao mà làm đùi tôi gãy đôi thế này, không bao giờ thẳng lại được nữa; còn nói rằng ông trả thù cho người bị xúc phạm thì thực ra ông đã xúc phạm tôi tới mức không bao giờ gột rửa được. Thật là đại bất hạnh cho tôi đã gặp phải một hiệp sĩ giang hồ như ông.

- Thưa ông tú Alônxô Lôpêx, mọi việc trên đời này đều không giống nhau đâu. Sở dĩ xảy ra chuyện không may này là do các ông đi đêm, lại mặc áo choàng trắng và đồ tang, tay cầm đuốc, mồm lầm rầm cầu nguyện, thành thử trông các ông giống hệt lũ ma quỷ ở thế giới bên kia. Trước trách nhiệm không thể trốn tránh được, tôi đã xông vào đánh các ông; và dù các ông có là quỷ Xa-tăng ở địa ngục thật, như tôi đã tưởng, tôi cũng không tha.

- Không may cho tôi xảy ra cơ sự như thế này, mong ngài hiệp sĩ giang hồ (ngài đã làm tôi khốn khổ) hãy kéo tôi ra khỏi con la vì đùi tôi bị kẹp giữa cái yên và bàn đạp.

- Thế mà chẳng bảo ngay! Còn đợi đến bao giờ mới nói?

Đôn Kihôtê vội gọi Xantrô Panxa lại, nhưng bác giám mã chưa buồn đến ngay vì còn đang bận vơ vét lương thực chất trên một con la đi cùng với đoàn này. Bác lấy áo khoác làm thành một cái túi, lèn đầy thực phẩm, rồi đặt lên lưng con lừa của mình, xong đâu đấy mới chạy lại kéo ông tú tài ra khỏi con la, đỡ ngồi lên yên và trả lại cho ông ta bó đuốc. Đôn Kihôtê nhờ ông ta chuyển lời xin lỗi tới những người kia về sự việc đáng tiếc vừa xảy ra mà chàng không thể tránh được. Xantrô cũng nói thêm:

- Nếu các bạn của ngài muốn biết con người dũng cảm đã làm cho họ thất điên bát đảo là ai, xin hãy nói lại rằng đó là chàng Đôn Kihôtê trứ danh ở xứ Mantra, còn gọi là hiệp sĩ Mặt Buồn.

Sau khi ông tú tài đi khỏi, Đôn Kihôtê hỏi Xantrô lý do vì sao lại gọi chàng là hiệp sĩ Mặt Buồn. Xantrô đáp:

- Tôi xin nói. Sở dĩ tôi gọi như vậy là vì khi nhìn ngài dưới ánh đuốc của ông tú bất hạnh nọ, tôi thấy ngài có một bộ mặt xấu xí quá, chưa từng thấy như vậy bao giờ. Có thể vì lúc đó ngài đánh nhau bị mệt, hoặc giả vì thiếu mất mấy cái răng chăng.

- Không phải thế đâu; đó là vì nhà sử học có nhiệm vụ viết về những chiến công của ta, muốn rằng ta phải có một biệt hiệu riêng cũng như những hiệp sĩ thời xưa, ví dụ như hiệp sĩ Gươm Nóng Hổi, hiệp sĩ Kỳ Lân, hiệp sĩ Tiểu Thư, hiệp sĩ Phượng Hoàng, hiệp sĩ Chim Ưng, hiệp sĩ Tử Thần, những biệt hiệu khiến cho họ lừng danh khắp thiên hạ. Nhà sử học đó đã điều khiển ý nghĩ và lời nói của anh khiến cho anh gọi ta là hiệp sĩ Mặt Buồn; từ nay về sau, ta sẽ nhận biệt hiệu đó. Và để cho cái tên đó tương xứng với con người của ta, ta quyết định khi nào có dịp sẽ thuê vẽ trên khiên một bộ mặt thật buồn.

- Việc gì phải tốn thời giờ và tiền để làm việc đó; nói không ngoa, chỉ cần ngài giơ mặt ra cho mọi người xem, họ sẽ gọi ngay là hiệp sĩ Mặt Buồn, chả cần phải vẽ lên khiên làm gì. Nói thêm cho vui, mặt ngài đã quá xấu xí vì đói bụng và gãy răng cho nên, như tôi đã nói, có thể miễn bức vẽ buồn thảm đó được.

Câu pha trò của Xantrô làm Đôn Kihôtê không nín được cười; tuy nhiên, chàng vẫn quyết định nhận biệt hiệu đó và sẽ thuê vẽ một bộ mặt thật buồn trên khiên; chàng nói:

- Xantrô, ta nghĩ rằng ta sẽ bị trục xuất khỏi giáo hội vì đã xúc phạm tới sự Thánh; kể ra cũng đúng thôi vì ta đã bị ma quỷ ám ảnh. Tuy nhiên, ta không nhúng tay mà chỉ nhúng ngọn giáo này; hơn thế nữa, ta không chủ tâm đánh các nhà tu hành mà ta kính yêu vì ta là một tín đồ Kitô ngoan đạo; trái lại, ta chỉ định đánh loài ma quái ở thế giới bên kia thôi. Và trong trường hợp này, ta lại nhớ đến chuyện đầu lĩnh Rui Điax đập gãy tan cái ghế ngồi của một vị sứ thần trước mặt đức Giáo hoàng và đã bị trục xuất khỏi Giáo hội; ngày hôm đó Rôđrigô đê Vivar đã tỏ ra là một trang hiệp sĩ ngay thẳng và dũng cảm.

Đôn Kihôtê định đi kiểm tra xem có đúng có xác người chết trong cái kiệu không, nhưng Xantrô can và nói:

- Thưa ngài, trong tất cả những cuộc phiêu lưu mạo hiểm của ngài mà tôi đã được chứng kiến, lần này tôi mới thấy ngài không bị sứt mẻ gì. Nhưng rất có thể những người vừa mới bị ngài đánh bạt sẽ nhận ra rằng đối phương đã thắng họ chỉ có một người, và để rửa nhục, họ sẽ quay trở lại tìm ta hỏi tội. Thôi, con lừa kia đã mang đủ lương thực, núi rừng cách đây không xa, bụng đã đói rồi, ta hãy mau mau rút khỏi nơi đây; như người ta vẫn thường nói, người chết ăn đất còn người sống ăn bánh.

Nói rồi, bác thúc lừa, mời chủ đi. Thấy Xantrô có lý, Đôn Kihôtê lặng yên theo sau. Đi khỏi một khe núi, đến một thung lũng rộng và kín đáo, họ dừng lại. Xantrô giở lương thực ra, rồi hai thầy trò ngả xuống bãi cỏ xanh, ngon miệng ăn bù luôn cả bữa sáng, bữa trưa và bữa tối, đánh hơn một sọt thịt nguội chiếm đoạt được của đám thầy tu là những người hay ăn ngon. Nhưng lại một sự bất hạnh nữa đến với họ, mà Xantrô coi là một bất hạnh lớn nhất từ trước tới giờ: số là có ăn mà chả có một giọt rượu hoặc một giọt nước nào để đổ vào mồm, thành thử hai thầy trò khát khô cả cổ. Chợt Xantrô nhận ra nơi đây là một cánh đồng đầy cỏ xanh mượt, bác bèn nói với chủ. Xantrô nói gì, xin xem chương sau sẽ rõ.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes

Chương XX

MỘT CUỘC PHIÊU LƯU MẠO HIỂM CHƯA TỪNG THẤY, KHÔNG AI GIẲI QUYẾT TỐT BẰNG HIỆP SĨ TRỨ DANH ĐÔN KIHÔTÊ XỨ MANTRA



- Thưa ngài, cánh đồng này chứng tỏ có một con suối hay một con sông nào chảy gần đây khiến cho cỏ mọc tốt tươi. Ta hãy đi tìm để uống cho dịu cơn khát khủng khiếp đang hành ta vì đúng là khát còn khổ hơn đói nhiều.

Đôn Kihôtê tán thành rồi hai thầy trò, người dắt ngựa, kẻ dắt lừa, lên đường sau khi đã chất những thức ăn còn lại lên lưng con lừa của Xantrô. Hai người đi ngược cánh đồng, mò mẫm trong đêm tối. Mới đi chừng hai trăm bước, bỗng nghe có tiếng nước réo ầm ầm như từ tên núi cao đổ xuống. Mừng quá, họ dừng lại nghe ngóng xem ở phía nào bỗng đâu lại có tiếng động khác làm cho hai người cụt hứng, đặc biệt là Xantrô vốn nhát gan: đó là những tiếng thình thịch đều đặn xen lẫn tiếng xích sắt nghiến vào nhau kèn kẹt hòa cùng tiếng thác đổ ào ào khiến bất cứ ai - trừ Đôn Kihôtê - nghe thấy cũng phải khiếp sợ. Lúc này, hai người vừa tới một đám cây to. Trời tối như mực, gió lướt qua lá cây tạo thành một âm thanh ghê rợn. Cảnh hoang vu, đêm tối, tiếng thác đổ, tiếng lá cây lào xào, tất cả gây nên một cảm giác rùng rợn, nhất là tiếng đập thình thịch vẫn tiếp tục, gió vẫn thổi và đêm vẫn kéo dài; đã thế, hai người lại không biết nơi đang đứng là đâu. Nhưng, với lòng dũng cảm sẵn có, Đôn Kihôtê nhảy phắt lên lưng con Rôxinantê, ôm khiên, nắm chặt ngọn giáo nói:

- Anh bạn Xantrô, anh phải biết rằng Chúa muốn ta sinh ra giữa thời đại thiết khí này để làm sống lại thời đại hoàng kim như người ta vẫn thường gọi. Ta sinh ra để hứng lấy những gian nguy, để lập nên những chiến công hiển hách, để có những hành động dũng cảm. Ta nhắc lại rằng ta sinh ra để làm sống lại tinh thần của các hiệp sĩ Bàn Tròn, của mười hai vị Đình thần nước Pháp và của chín Danh Nhân thế giới. Ta sinh ra để thiên hạ lãng quên những hiệp sĩ như Platir Tablantê, Ôlivantê, Tirantê, Phêbô, Bêlianix cùng tất cả đám hiệp sĩ giang hồ nổi tiếng thời xưa, và để cho những chiến công hiển hách nhất của họ bị lu mờ vì những chiến công vĩ đại và kỳ diệu của ta. Hỡi giám mã trung thành và tận tụy, hãy chú ý quan sát đêm tối, sự hoang vắng kỳ lạ, tiếng rì rầm của cây cối, tiếng thác chảy rùng rợn như thể từ trên rặng núi cao Luna đổ xuống, tiếng đập thình thịch không ngừng như xé tai, tất cả những cái đó tách riêng ra cũng đủ làm cho thần Chiến tranh phải sợ hãi kinh hoàng, nói chi tới những kẻ chưa từng gặp những tình huống như vậy bao giờ. Nhưng tất cả những cái đó thôi thúc, kích thích ta và khơi động tinh thần ta khiến ta muốn dấn thân vào cuộc mạo hiểm này dù khó khăn đến mấy. Thôi, hãy siết chặt đai ngựa cho ta rồi chờ ta tại đây ba ngày; quá hạn đó nếu không thấy ta quay lại thì hãy trở về quê giúp ta một việc: hãy đến Tôbôxô nói với nàng Đulxinêa không ai bì nổi của ta rằng hiệp sĩ của nàng đã chết vì muốn hành động sao cho xứng đáng là thủ hạ của nàng.

Nghe lời chủ nói, Xantrô khóc nức nở, đáp:

- Ngài ôi, tôi không hiểu vì sao ngài lại lao đầu vào cuộc mạo hiểm rùng rợn này. Đang lúc đêm tối không ai nhìn thấy, ta hãy tìm đường khác lánh nguy dù có phải chịu khát ba ngày liền, và vì không ai nhìn thấy nên càng không có ai bảo ta là những kẻ nhát gan được. Vả lại, tôi có nghe thấy Cha xứ làng ta mà ngài quen biết, nói rằng cứ bạo hổ bằng hà lắm thì mất mạng. Ta cũng chẳng nên thi gan với Thượng đế làm gì; nếu ngài cứ khăng khăng không chịu nghe, tôi e sẽ không thoát khỏi tai ương, trừ phi có phép màu. Nhờ Trời, ngài đã không bị tung lên quật xuống như tôi, rồi lại đánh thắng đám người khiêng xác chết mà không bị sứt mẻ gì. Nếu những lý lẽ của tôi không lay chuyển nổi trái tim sắt đá của ngài, xin hãy nghĩ rằng sau khi ngài đi khỏi nơi đây, tôi sẽ không sống nổi vì sợ hãi. Tôi đã xa làng xa nước, bỏ vợ bỏ con đi theo hầu ngài, những tưởng được hưởng chút bổng lộc gì. Nhưng ở đời tham thì thâm, cho nên bao nhiêu hy vọng của tôi đã tiêu tan; đang lúc tôi chứa chan hy vọng được làm chúa hòn đảo quái ác kia mà ngài đã bao lần hứa hẹn thì để trả công tôi, ngài bỏ tôi bơ vơ ở nơi khỉ ho cò gáy này. Lạy Chúa, xin ngài đừng làm khổ tôi như vậy. Còn nếu ngài cứ một mực giữ ý kiến của mình, ít ra xin hãy chờ tới sáng. Hồi còn đi chăn cừu, tôi có học cách xem sao; chỉ độ ba tiếng nữa là trời sáng vì nhìn chòm sao Tiểu hùng, ta có thể biết được bây giờ đã là nửa đêm.

- Làm sao anh nhìn thấy được chòm sao Tiểu hùng một khi bầu trời tối đen như mực không có một ngôi sao nào cả? Đôn Kihôtê hỏi.

- Trời tối thật, nhưng sự sợ hãi làm mắt con người ta sáng ra, nhìn được cả dưới mặt đất và trên trời; cho nên có thể chắc chắn là chẳng bao lâu nữa sẽ sáng.

- Dù sáng hay không sáng, dù bây giờ hay bao giờ, những giọt nước mắt và những lời cầu khẩn cũng không thể làm cho ta từ bỏ nhiệm vụ của một hiệp sĩ. Xantrô, chớ van nài làm chi; Chúa đã bảo ta đảm đương công việc nguy hiểm chưa từng thấy này, Người sẽ phù hộ cho ta và an ủi anh. Thôi, hãy siết chặt đai ngựa cho ta và chờ ta ở đây; ta sẽ trở lại sớm, một sống hai mái.

Thấy chủ vẫn quyết tâm, không lay chuyển trước nước mắt, lời can ngăn và cầu khẩn của mình, và vẫn nhất mực muốn ra đi ngay, Xantrô bèn dùng mưu để cố giữ chủ ở lại tới sáng. Trong lúc siết chặt đai ngựa, bác lẳng lặng lấy cái dây tròng lừa buộc chặt hai chân con Rôxinantê lại, thành thử khi Đôn Kihôtê thúc ngựa, con vật không sao đi được, chỉ nhảy lò cò tại chỗ. Thấy đã thành công, Xantrô nói với chủ:

- Tôi đã bảo mà! Trời kia mủi lòng trước những giọt nước mắt và những lời cầu khẩn của tôi, đã giữ chân con Rôxinantê lại. Nếu ngài còn cứ thách thức, trêu gan Người và cứ khăng khăng mãi thì sẽ làm cho thần May rủi nổi giận, khác nào húc đầu vào đá.

Đôn Kihôtê thất vọng lắm vì thấy càng thúc con ngựa càng đứng ì. Không biết mưu mô của Xantrô và tưởng rằng có một nguyên nhân nào khác, chàng đành nén lòng chờ trời sáng hoặc cho tới khi con ngựa đi được. Chàng nói với giám mã:

- Vì con Rôxinantê không đi được, ta sẽ chờ tới lúc rạng đông mặc dù ta mếu dở vì phải chờ lâu quá.

- Ngài không việc gì phải khóc mếu cả. Tôi sẽ kể chuyện hầu ngài tới sáng trừ phi ngài muốn xuống ngựa nghỉ lưng trên đám cỏ non kia theo tục lệ của những nhà hiệp sĩ giang hồ để lấy sức sáng mai còn dấn mình vào cuộc phiêu lưu mạo hiểm vô cùng khủng khiếp đang chờ ngài.

- Sao lại xuống ngựa? Sao lại nghỉ lưng? Ta đâu có như những anh chàng hiệp sĩ trốn tránh gian nguy. Anh đi mà ngủ vì anh sinh ra để ngủ, hay muốn làm gì thì tùy; còn ta sẽ làm theo ý ta.

- Xin ông chủ đừng nổi nóng, tôi không có ý trêu tức ngài đâu.

Nói rồi, bác bước lại gần Đôn Kihôtê, một tay nắm đầu yên ngựa, một tay nắm cuối yên, ôm lấy đùi trái của chủ không rời một bước; những tiếng đập thình thịch vẫn đều đều vang lên khiến bác sợ run. Đôn Kihôtê nhắc Xantrô kể chuyện cho vui như bác đã hứa, bác đáp là sẽ kể nếu như những tiếng động không làm cho bác quá sợ.

- Dù vậy, tôi cũng cố gắng kể hầu ngài một câu chuyện; nếu tôi kể được hết, không bị ai ngăn cản, chắc chắn đó là câu chuyện hay nhất; xin ngài chú ý nghe, tôi bắt đầu: câu chuyện kể lại rằng mọi người đều được hưởng điều hay, còn ai đi tìm điều dở sẽ gặp điều dở. Xin lưu ý ngài rằng người xưa thường mở đầu một chuyện kể bằng câu: "Ai đi tìm điều dở sẽ gặp điều dở", nhắc lại câu nói của Catôn thời La Mã. Câu nói thật là hợp với hoàn cảnh lúc này, như khuyên ngài chớ quàng đường rậm và hãy chọn đường quang mà đi vì không ai bắt ta phải dấn mình vào con đường đầy sợ hãi lo âu đó.

- Thôi, hãy kể tiếp, còn để mặc ta tự chọn lấy đường đi.

- Vậy thì tại một làng ở Extramađura có một người chăn dê, người chăn dê kể ở đây tên là Lôpê Ruix; anh chàng Lôpê Ruix này mê một cô gái chăn cừu tên là Tôralba, còn cô gái chăn cừu Tôralba lại là con một nhà chăn nuôi giàu có, và nhà chăn nuôi giàu có này...

- Nếu anh cứ kể theo cái kiểu ấy, lắp đi lắp lại điều định nói, thì đến hai ngày cũng chẳng xong. Hãy đi thẳng vào câu chuyện một cách thông minh, nếu không, thà đừng kể còn hơn.

- Ở quê tôi, người ta đều kể chuyện theo kiểu này cả và tôi không biết làm theo kiểu khác; ngài bắt tôi kể theo kiểu mới sẽ không hay đâu.

- Thôi được, tùy anh; số phận đã bắt ta phải nghe, anh cứ tiếp tục.

- Vậy thì, thưa ông chủ quý mến, như tôi đã kể, anh chàng chăn dê nọ mê cô chăn cừu Tôralba là một cô gái béo tròn béo trục, tính nết cục cằn, tướng đàn ông vì cô ta có bộ ria khá đặc biệt khiến tôi vẫn nhớ mồn một.

- Vậy ra anh ta quen cô ta ư?

- Tôi không quen, nhưng người kể với tôi nói rằng câu chuyện này hoàn toàn có thật, cho nên khi kể lại cho người khác, tôi có thể khẳng định và thề rằng tôi đã được nhìn thấy cô ta. Thế nhưng ngày qua tháng lại, con tạo trớ trêu đã biến tình yêu của anh chàng chăn dê thành sự căm ghét. Nguyên nhân là có những kẻ độc miệng phao tin rằng cô này tằng tịu lung tung, nay anh này mai anh khác, khiến anh chàng Lôpê đâm ghen, rồi từ ghen đến ghét, và để cho khuất mắt, anh ta định bụng sẽ đi thật xa để khỏi phải nhìn mặt cô nàng. Từ khi bị bỏ rơi, Tôralba đâm yêu Lôpê thật sự, còn hơn cả khi chàng yêu cô trước kia.

- Tính tình đàn bà vẫn như vậy, Đôn Kihôtê nói; họ ghét bỏ kẻ nào đeo đuổi họ và chạy theo những kẻ hắt hủi họ. Thôi, kể tiếp đi.

- Thế rồi để thực hiện ý định của mình, anh chàng Lôpê đánh đàn dê ra đi, qua miền đồng bằng Extramađura để sang vương quốc Bồ Đào Nha. Được tin đó, cô nàng Tôralba đuổi theo; cô ta đi bộ, chân đất, sau anh chàng một quãng xa, tay chống gậy, cổ đeo một cái túi hai ngăn trong đựng một mảnh gương, một cái lược gãy và một hộp phấn đánh mặt chẳng biết to nhỏ ra sao; nhưng cô ta mang gì, tôi cũng chẳng cần biết, chỉ xin kể tiếp rằng anh chàng Lôpê cùng đàn dê đi tới bờ sông Guađiana; về mùa này, nước sông lên to mấp mé bờ mà đò giang chẳng có, người lái cũng không, không sao sang được bên kia. Lôpê rất băn khoăn lo lắng vì thấy cô nàng Tôralba đã tới gần, sợ phải nghe những lời van xin và nhìn thấy những giọt nước mắt. Còn đang tìm kiếm, bỗng đâu thấy có một ông lái đò và một con đò bé tí tẹo chỉ chở nổi một người và một con dê; cực chẳng đã, Lôpê đành gọi và nhờ bác lái chở anh ta và cả ba trăm con dê sang sông. Bác lái đò nhận lời, xuống đò dắt theo một con dê chở sang bên kia, rồi quay trở lại chở con thứ hai, rồi lại quay trở lại chở con thứ ba... Xin ngài nhớ cho số con dê đã được chở sang sông, quên một con là hết chuyện, không thể nào kể tiếp được nữa. Nào, tôi kể tiếp: bến sông bên kia lắm bùn và trơn, thành thử con đò qua lại mất khá nhiều thời gian. Cứ thế, bác lái đò sang rồi lại về chở hết con này đến con khác.

- Thì cứ cho là đã chở hết đàn dê sang sông rồi đi. Nếu cứ kể lể từng chuyến đò sang sông rồi lại về sông thì đến sang năm cũng chưa đưa hết đàn dê sang.

- Bao nhiêu con sang sông rồi, thưa ngài? Xantrô hỏi.

- Ta nhớ thế quái nào được! Đôn Kihôtê đáp.

- Tôi đã dặn rằng phải đếm đủ số dê đã sang sông cơ mà. Thôi thế là hết chuyện, chả còn gì kể nữa.

- Sao lại thế? Chẳng lẽ tất cả câu chuyện chỉ xoay quanh số lượng con dê đã sang sông hay sao? Nói rộng ra, nếu thừa hay thiếu một con thì anh không kể tiếp được sao?

- Đúng vậy, không thể nào kể được; ngài cho biết bao nhiêu con dê đã qua sông và ngài trả lời là không biết, thế là tôi chẳng nhớ còn lại bao nhiêu con để kể nốt; thật ra, câu chuyện này rất hay.

- Thế là kết thúc câu chuyện rồi ư?

- Vâng, thế là kết thúc, cũng như cuộc đời của mẹ tôi vậy.

- Quả thật câu chuyện anh vừa kể là một trong những chuyện mới lạ trên đời không ai có thể nghĩ ra được, và cách kể chuyện nửa vời của anh cũng có một không hai mặc dù ta không trông mong gì hơn ở trí tuệ của anh. Ta cũng không lấy thế làm ngạc nhiên vì có lẽ những tiếng đập thình thịch liên hồi kia đã làm anh rối trí.

- Mọi việc đều có thể xảy ra, Xantrô đáp; chỉ biết rằng câu chuyện của tôi chẳng còn gì để kể nữa; nó kết thúc khi ta bắt đầu đếm nhầm số con dê sang sông.

- Muốn kết thúc ở chỗ nào cũng được; bây giờ ta hãy thử xem con Rôxinantê có nhúc nhích được hay không.

Nói rồi, Đôn Kihôtê lấy đùi thúc vào sườn con ngựa, nhưng vì bị buộc quá chặt, con vật cứ nhảy lò cò tại chỗ không sao tiến lên được.

Lúc này, không hiểu vì khí lạnh lúc sắp bình minh, hay vì Xantrô ăn phải thứ gì quá nhuận tràng, hoặc giả do thói quen tự nhiên (có lẽ lý do sau cùng đúng nhất), bỗng dưng bác giám mã muốn đi làm một việc mà không ai có thể làm thay được. Khốn nỗi sự sợ hãi đã nhập vào tâm khảm bác, khiến cho bác không dám rời chủ nửa bước; một mặt khác, bác cũng không thể không đáp ứng yêu cầu cấp bách của bản thân. Cuối cùng, bác đã giải quyết một cách êm thấm: bác rút tay phải đang nắm yên ngựa rồi rất nhẹ nhàng, cởi cái dải rút vẫn dùng để buộc quần và tụt quần xuống; xong rồi, bác cố vén cao áo sơ-mi, để hở đôi mông to tướng. Làm xong việc đó mà bác cho là khó nhất, bác tưởng đã thoát nạn, nào ngờ lại đẻ ra một việc còn khó hơn: số là trong khi giải quyết nhu cầu tự nhiên, phải làm sao không phát ra tiếng động để khỏi lộ; bác bèn nghiến chặt hai hàm răng, so vai rụt cổ, cố hết sức nín thở. Nhưng dù đã làm đủ mọi cách, chẳng may bác phát ra một tiếng nhỏ khác hẳn những tiếng đập thình thịch đã khiến bác kinh hồn bạt vía. Đôn Kihôtê nghe thấy bèn hỏi:

- Tiếng gì vậy, Xantrô?

- Dạ, tôi không rõ, chắc lại có chuyện gì mới đây. Vì rằng những chuyện hay chuyện dở đều bắt đầu từ những sự việc không nhỏ.

Nói rồi, bác tiếp tục công việc đang làm dở một cách trót lọt, không phát ra một tiếng nào nữa, và thế là bác đã trút hết được gánh nặng trong lòng. Nhưng Đôn Kihôtê đã thính tai lại thính cả mũi; đã thế Xantrô lại đứng sát nách, thành thử hơi từ dưới xông thẳng lên phía trên, vào đúng mũi chàng. Bất chợt ngửi thấy mùi, Đôn Kihôtê vội vàng lấy hai ngón tay bịt mũi rồi nói, giọng ồm ồm:

- Xantrô, hình như anh đang sợ lắm thì phải?

- Vâng ạ, nhưng sao lúc này hơn lúc nào hết, ngài nhận thấy rõ như vậy?

- À, vì rằng lúc này hơn lúc nào hết, người anh có mùi, mà không phải long diên hương.

- Đúng vậy, nhưng lỗi không phải ở tôi mà do ngài cả, vì ngài đã dẫn tôi đi không đúng lúc và không đúng chỗ.

Tay vẫn ôm mũi, Đôn Kihôtê bảo Xantrô:

- Anh bạn hãy tránh xa ra một chút. Từ nay về sau, phải giữ gìn thân thể sạch sẽ hơn và ăn ở với ta cho phải đạo; chỉ vì ta quá thân mật nên anh đâm ra nhờn.

- Chắc ngài nghĩ rằng tôi đã làm điều gì không phải... đối với bản thân tôi.

- Thôi, tốt hơn hết là đừng bàn tới chuyện đó nữa, Đôn Kihôtê đáp.

Trong khi thầy trò trao đổi ý kiến, đêm qua dần; thấy trời sắp sáng, Xantrô nhẹ nhàng cởi trói cho con Rôxinantê và thắt lại quần. Được tự do thoải mái, Rôxinantê giơ hai chân trước lên đá không khí (tôi không định nói xấu nhưng nó không thể nhảy chồm lên được vì thiểu lực). Thấy con ngựa cử động được, Đôn Kihôtê cho đó là điềm tốt báo hiệu đã tới giờ ra tay. Lúc này, trời sáng bạch soi rõ mọi vật xung quanh, và Đôn Kihôtê thấy mình đang đứng dưới một lùm cây dẻ to, cành lá um tùm; những tiếng thình thịch vẫn không ngớt nhưng chưa tìm ra nguyên nhân. Trước khi ra đi, chàng quay lại từ biệt Xantrô và dặn:

- Hãy chờ ta tại đây ba ngày, nếu quá hạn không thấy ta trở về có nghĩa là Chúa muốn cuộc đời ta kết liễu cùng với cuộc phiêu lưu mạo hiểm này. Hãy làm nhiệm vụ đã được giao phó và đến gặp nàng Đulxinêa. Về khoản tiền công, anh không phải lo vì ta đã làm di chúc từ khi ở nhà ra đi, trong đó có ghi một khoản cho anh, tính theo số ngày làm. Nhưng nếu Chúa phù hộ cho ta được vô sự sau cuộc phiêu lưu mạo hiểm này, anh có thể càng thêm chắc chắn được nhận hòn đảo mà ta đã hứa.

Nghe những lời nói lâm ly thống thiết của chủ, Xantrô lại òa lên khóc, và bác quyết định đi theo chủ tới cùng, cho tới khi kết thúc câu chuyện phiêu lưu này.

Những giọt nước mắt và quyết định đáng quý của Xantrô Panxa khiến tác giả truyện này kết luận rằng bác là một người tốt, một con chiên đạo gốc. Hành động của Xantrô khiến Đôn Kihôtê xúc động nhưng chưa đủ để lay chuyển lòng chàng. Nén tình cảm lại, chàng đi về phía có tiếng nước đổ và tiếng đập thình thịch; Xantrô bước theo sau, tay dắt con lừa, người bạn đường luôn luôn cùng bác chia sẻ ngọt bùi, đắng cay. Sau khi đi một quãng dài dưới vòm những cây dẻ, hai thầy trò tới một cánh đồng cỏ nhỏ hẹp, xung quanh có núi đá cao chót vót. Từ trên đỉnh núi có một thác nước đổ xuống; dưới chân núi có một vài túp nhà - nói đúng hơn, đó là những ngôi nhà đã đổ nát - từ trong đó phát ra những tiếng đập thình thịch liên hồi. Con Rôxinantê hoảng sợ lồng lên; vừa vỗ về con vật, Đôn Kihôtê vừa từ từ tiến lại gần những túp nhà, mồm ra sức cầu nguyện tình nương phù trợ cho trong những phút gian nguy này, ngoài ra cũng không quên cầu Chúa đừng bỏ rơi. Xantrô bám sát chủ, vừa đi vừa nghển cổ giương mắt cố nhìn qua bốn cẳng con Rôxinantê xem có cái gì ở trong những túp nhà khiến bác hồi hộp lo âu cả đêm. Hai người đi thêm một trăm bước nữa, quành một quả núi, và kia... nguyên nhân của những tiếng động khủng khiếp khiến hai người hồi hộp lo âu suốt cả đêm đã hiện ra trước mắt họ, rõ như ban ngày. Đó là (xin độc giả chớ thất vọng, buồn phiền) sáu cái chày nện dạ đang hoạt động và phát ra những tiếng đập thình thịch như đã tả ở trên.

Trước cảnh tượng đó, Đôn Kihôtê lặng người, xỉu đi. Xantrô nhìn chủ, thấy chàng gục đầu xuống ngực với một vẻ bối rối sượng sùng. Một lát sau, chàng ngửng mặt lên nhìn Xantrô thì thấy hai má bác bạnh ra, mồm có vẻ muốn phá lên cười; thấy vậy, mặc dù còn đang nẫu cả ruột, Đôn Kihôtê cũng không nhịn được cười: thấy chủ đã mở đầu, Xantrô cười phá lên và bốn lần bác phải lấy hai tay ấn vào mạng sườn để tự ghìm lại nhưng vẫn không được, khiến Đôn Kihôtê phát khùng, nhất là khi nghe thấy bác nhại lại: "Anh bạn Xantrô, anh phải biết rằng Chúa muốn ta sinh ra giữa thời đại thiết khí này để làm sống lại thời đại hoàng kim. Ta sinh ra để hứng lấy những gian nguy, để lập nên những chiến công hiển hách, để có những hành động dũng cảm..." Cứ như thế, Xantrô nhắc lại những lời nói của Đôn Kihôtê khi hai người lần đầu tiên nghe thấy những tiếng chày nện dạ.

Thấy Xantrô chế giễu mình, Đôn Kihôtê vừa thẹn vừa tức, giơ tay giáo phang cho bác hai đòn; cũng may Đôn Kihôtê chỉ đánh trúng vai chứ nếu vào đầu, chắc chắn chàng sẽ không phải trả tiền công cho Xantrô nữa; hoặc nếu có thì sẽ chỉ phải trả cho những người thừa kế của bác giám mã mà thôi. Thấy vì đùa mà bị đòn đau như vậy, sợ chủ tiếp tục, Xantrô vội nói với một vẻ rất cung kính:

- Xin ngài bớt giận làm lành, tôi xin thề có Chúa rằng tôi đùa thôi.

- Anh đùa nhưng ta không đùa, Đôn Kihôtê đáp. Này anh chàng hay bông phèng, hãy nghe ta hỏi: giả sử đây không phải là những cái chày mà là một cuộc phiêu lưu đầy mạo hiểm thật, thử hỏi ta có thiếu lòng dũng cảm để xông vào cuộc không? Có bắt buộc một hiệp sĩ như ta phải phân biệt được các âm thanh và biết tiếng chày nện dạ như thế nào không? Hơn nữa, thực ra ta có nhìn thấy cái chày nện dạ bao giờ; ta đâu thô lỗ như anh vốn sinh ra và lớn lên bên những cái chày đó. Thử biến sáu cái chày kia thành sáu tên khổng lồ và hãy dẫn chúng tới trước mặt ta, từng tên một hoặc cả bọn cũng được; nếu ta không đánh ngã được chúng, lúc đó hãy tha hồ mà chế giễu ta.

- Thôi, xin ngài nguôi giận, quả thực lúc nãy tôi đùa hơi nhả, ngài bỏ quá cho. Bây giờ ta đã làm lành với nhau rồi và tôi muốn thưa với ngài một điều: trong các cuộc phiêu lưu đã qua, Chúa đều phù hộ cho ngài được bình an vô sự, kể cả lần này; những nỗi lo âu của thầy trò ta - hay nói đúng hơn là nỗi lo âu của tôi vì tôi biết xưa nay ngài không hề run sợ - kể ra cũng nực cười và đáng kể lại lắm chứ?

- Ta đồng ý rằng việc vừa xảy ra thật đáng cười, nhưng không nên kể lại làm gì vì có những kẻ vô tri vô giác không đặt đúng vấn đề.

- Ít ra ngài cũng đã đặt đúng ngọn giáo vào đầu tôi; nhưng nhờ Chúa và nhờ tài tránh đòn của tôi, ngài chỉ phang được vào vai. Nhưng thôi, mọi việc đều có nguyên nhân cả và như người ta thường nói: "Yêu cho roi cho vọt". Mà thường sau khi nặng lời với gia nhân, các vị đại gia hay cho họ quà cáp. Tôi không hiểu các vị đó sẽ cho gì khi họ đánh đập gia nhân; chỉ biết cũng trong trường hợp ấy, các hiệp sĩ giang hồ cho giám mã của họ một hòn đảo hay một vương quốc trong đất liền.

- Mọi sự việc đều biến chuyển và những điều anh vừa nói có thể trở thành sự thật. Nhưng thôi, ta xin lỗi về hành động đã qua. Anh là một người biết điều và anh cũng hiểu rằng nhiều khi con người ta không tự kiềm chế được hành động của mình. Ta cũng muốn dặn anh từ nay về sau, phải bớt mồm bớt miệng đi; trong rất nhiều sách kiếm hiệp mà ta đã đọc, ta chưa hề thấy có giám mã nào nói năng với chủ bạo mồm bạo miệng như anh. Thực ra, cả hai chúng ta đều có lỗi: anh không kính trọng ta lắm, còn ta cũng không làm cho anh phải kính trọng hơn nữa. Ganđalin, bá tước đảo Phirmê, giám mã của Amađix nước Gôlơ, khi nói với chủ bao giờ cũng bỏ mũ cầm tay, đầu cúi xuống, người ngả về đằng trước theo kiểu Thổ Nhĩ Kỳ. Còn Gaxabal, giám mã của Đôn Galaor, rất ít nói; và để làm nổi bật đức tính ít lời của anh ta, trong suốt câu chuyện dài và có thật đó, chỉ thấy nhắc tới tên anh ta có một lần. Xantrô, anh cần suy nghĩ về những lời nói của ta và phải biết phân biệt giữa chủ và tớ, giữa gia chủ và gia nhân, giữa hiệp sĩ và giám mã. Từ nay trở đi, anh phải biết kính nể ta hơn, chớ sinh nhờn vì rằng nếu anh làm ta nổi giận bất kể trong trường hợp nào, phần thiệt vẫn thuộc về anh. Những phần thưởng đã hứa rồi đây sẽ về tay anh; và dù không có chăng nữa, ít ra anh cũng không thể mất được tiền công như ta đã nói.

- Tất cả những điều ngài nói đều hay cả, nhưng tôi cũng muốn được biết (phòng khi không có phần thưởng còn trông vào tiền công) tiền trả cho giám mã của một hiệp sĩ giang hồ thời trước là bao nhiêu và người ta có tính công tháng hay công nhật như trả công cho thợ nề không?

- Ta nghĩ rằng những giám mã đời xưa không nhận tiền công mà chỉ nhận phần thưởng thôi. Sở dĩ ta ghi một khoản tiền công cho anh trong di chúc để ở nhà là vì ta đề phòng những chuyện có thể xảy ra; ta cũng không biết trong thời đại đầy tai ương này, ta sẽ gặp phải những thử thách gì, và ta muốn lòng ta khỏi phải áy náy ở bên kia thế giới về những chuyện lặt vặt. Xantrô, anh phải biết rằng không có gì nguy hiểm bằng làm nghề hiệp sĩ này cả.

- Thật vậy, vì chỉ tiếng chày nện dạ cũng đã đủ làm cho một hiệp sĩ giang hồ dũng cảm như ngài mất ăn mất ngủ. Ngoài ra, ngài có thể tin tưởng từ nay tôi sẽ không mở mồm chế giễu ngài nữa mà chỉ để ca tụng ngài như một người chủ của tôi.

- Có như thế anh mới sống được trên trái đất này vì sau bố mẹ, con người ta cần phải biết kính trọng ông chủ của mình, coi cũng như bố mẹ vậy.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes

Chương XXI

CHÀNG HIỆP SĨ VÔ ĐỊCH ĐÃ CHIẾM ĐƯỢC CÁI MŨ SẮT QUÝ GIÁ CỦA MAMBRINÔ NHƯ THẾ NÀO VÀ ĐÃ GẶP NHỮNG CHUYỆN GÌ KHÁC?



Lúc này, trời bắt đầu mưa nhẹ hạt; Xantrô muốn vào trú trong túp nhà có cái máy nện dạ nhưng Đôn Kihôtê vẫn còn thù những cái chày oái ăm nên không thèm vào. Hai thầy trò rẽ sang tay phải đi vào một con đường cũng giống như đường đi hôm trước. Đi được một đoạn, bỗng Đôn Kihôtê thấy phía trước mặt có một người cưỡi ngựa trên đầu đội một vật gì óng ánh như vàng; chàng vội quay lại nói với giám mã:

- Xantrô, ta cho rằng tất cả những câu tục ngữ đều đúng hết vì đó là những lời được đúc kết từ kinh nghiệm thực tế, mẹ đẻ của các ngành khoa học, đặc biệt có câu: "Khi cửa này đóng lại, cửa khác mở ra". Ta nói thế vì nếu đêm qua thầy trò ta gặp phải một cái cửa đóng kín và bị những cái chày kia lừa dối thì lúc này chúng ta đang đứng trước một cái cửa mở toang hứa hẹn một cuộc phiêu lưu mạo hiểm tốt lành hơn. Nếu ta không bước qua được thì lỗi đó tại ta, không thể đổ tại đêm tối hoặc tại chưa thấy cái máy nện dạ bao giờ. Nếu ta không nhầm, người đang đi về phía chúng ta đội trên đầu cái mũ sắt của Mambrinô, cái mũ mà ta đã thề sẽ chiếm bằng được.

- Ngài hãy coi chừng lời nói và càng phải coi chừng việc làm của mình, Xantrô đáp. Tôi không muốn lại bị những cái chày nện dạ khác đập lên đầu.

- Anh là quỷ chứ không phải là người! Mũ sắt có liên quan gì với chày nện dạ?

- Tôi cũng chẳng biết, nhưng chắc chắn rằng nếu tôi được tự do ăn nói như trước, có lẽ tôi sẽ có đủ lý lẽ để ngài thấy rằng ngài đã nói sai rồi.

- Làm sao ta có thể nói sai được, hỡi kẻ phản bội có lương tâm kia! Anh không trông thấy hiệp sĩ đang đi lại đây, cưỡi một con ngựa màu nâu nhạt điểm đốm đen, đầu mang một cái mũ bằng vàng ư?

- Tôi chỉ nhìn thấy một người cưỡi một con lừa màu nâu như con lừa của tôi, đầu mang một vật gì sáng loáng mà thôi.

- Đó chính là chiếc mũ sắt của Mambrinô. Thôi, hãy tránh sang một bên để một mình ta đối phó. Rồi anh sẽ thấy ta kết thúc cuộc phiêu lưu mạo hiểm này một cách nhanh chóng, không phí một lời, và chiếc mũ sắt mà ta hằng mong ước sẽ về tay ta.

- Được, tôi sẽ tránh sang một bên, nhưng tôi nhắc lại: cầu Chúa mang tới điều lành chứ đừng mang những cái chày nện dạ tới.

- Ta đã bảo là chớ nhắc tới những cái chày nện dạ nữa. Ta thề... nện cho anh một trận bây giờ, không nói dài dòng nữa.

Xantrô co rúm người, im bặt, sợ chủ thực hiện lời thề.

Đầu đuôi câu chuyện về chàng hiệp sĩ đội mũ sắt cưỡi ngựa mà Đôn Kihôtê đã nhìn thấy như sau: trong vùng này có hai xóm lân cận, một xóm có thợ cạo 1 còn xóm kia nhỏ hơn nên không có; bác thợ cạo này phục vụ cho cả hai xóm. Hôm đó, trong xóm nhỏ có một người ốm cần trích máu và một người khác muốn cạo râu; bác thợ cạo bèn đi sang xóm đó, mang theo một cái chậu thau cạo râu; đang đi thì trời mưa, sợ hỏng chiếc mũ mới, bác úp chậu lên đầu; chậu mới đánh sạch sẽ thành thử đứng cách xa nửa dặm vẫn thấy sáng loáng. Như Xantrô đã nói, bác thợ cạo cưỡi một con lừa nâu khiến Đôn Kihôtê tưởng là một hiệp sĩ đội mũ sắt cưỡi ngựa màu nâu nhạt điểm những đốm đen; sở dĩ như vậy là vì mỗi khi nhìn thấy một hiện tượng gì, Đôn Kihôtê lại liên tưởng ngay tới những truyện hiệp sĩ điên rồ. Khi thấy bác thợ cạo tới gần, chẳng nói chẳng rằng, chàng thúc ngựa phóng như bay, tay lăm lăm ngọn giáo, rắp tâm đâm suốt qua người địch thủ. Khi đã giáp mặt đối phương, chàng vẫn cho ngựa phi nước đại, mồm hét lớn:

- Tên đốn mạt kia, hãy tự bảo vệ đi, nếu không, phải trao ngay cho ta chiếc mũ sắt mà ta xứng đáng được hưởng.

Bác thợ cạo chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, tự nhiên thấy có một hung thần xông tới, chỉ còn một cách là nhào từ trên lưng lừa xuống đất để tránh đòn, rồi nhanh như một con hoẵng, bác vùng dậy chạy bán sống bán chết bỏ cả chậu thau lại. Thấy đã đạt mục đích, Đôn Kihôtê nói:

- Tên ngoại đạo này khôn lắm; nó bắt chước con hải ly khi bị săn đuổi tự lấy răng rứt hết lông bỏ lại cho người đi săn để thoát thân.

Rồi chàng sai giám mã nhặt chiếc mũ sắt ở dưới đất, Xantrô cầm lên đưa cho chủ và nói:

- Lạy Chúa, cái chậu này tốt quá; nói không ngoa, nó đáng giá tới tám đồng bạc.

Đôn Kihôtê chụp ngay chậu lên đầu, xoay ngang xoay dọc tìm cái vành mũ ở bên trong nhưng chẳng thấy; chàng nói:

- Chắc chắn rằng tên ngoại đạo thửa cái mũ trứ danh này phải có một cái đầu rất to; đáng tiếc là cái mũ chỉ còn có một nửa.

Nghe chủ gọi chậu cạo râu là mũ sắt, Xantrô không nín được cười, nhưng sực nhớ tới cơn lôi đình vừa qua của Đôn Kihôtê, bác vội ghìm ngay lại.

- Xantrô, anh cười gì vậy? Đôn Kihôtê hỏi.

- Tôi cười vì đang nghĩ tới cái đầu to của tên tà đạo chủ nhân chiếc mũ sắt này mà tôi thấy giống hệt một cái chậu thau của ông phó cạo.

- Thế anh có biết ta nghĩ gì không, Xantrô? Ta đoán rằng cái vật trứ danh này, cái mũ sắt màu nhiệm này, do một sự ngẫu nhiên nào đó, đã rơi vào tay một kẻ không biết giá trị của nó và không biết cách sử dụng; thấy nó bằng vàng nguyên chất, kẻ đó đã nấu chảy một nửa để kiếm lời, phần còn lại y gò cái mũ, thành thử trông nó giống một cái chậu cạo râu như anh nói. Nhưng không sao; ta biết giá trị của nó cho nên dù chỉ một nửa cũng chẳng hề gì. Ta sẽ đưa thợ rèn đánh lại tử tế và chắc chắn nó sẽ còn đẹp hơn cả chiếc mũ do thần Vulcanô 2 rèn cho thần Chiến tranh. Trong khi chờ đợi, ta cứ đội vì dù xấu còn hơn không, phòng khi bị đá quăng vào đầu.

- Cũng tốt thôi trừ phi kẻ địch dùng ná bắn đá như trong trận giao chiến vừa qua giữa hai đạo quân khiến ngài rụng mấy cái răng, vỡ cả bình thuốc thần hiệu đã làm tôi nôn cả mật xanh mật vàng.

- Ta không tiếc bình thuốc vì như anh biết, ta vẫn nhớ cách pha chế.

- Tôi cũng nhớ lắm nhưng nếu tôi còn pha chế môn thuốc đó và uống một lần nữa, tôi sẽ hết đời. Vả lại, tôi không nghĩ rằng sẽ phải cần đến nó nữa vì tôi sẽ vận dụng cả năm giác quan ra để không ai đánh mình và cũng không đánh ai cả. Tuy nhiên, tôi không dám chắc sẽ không bị người ta dùng khăn trải giường tung lên vật xuống một lần nữa vì khó mà tránh được những điều không may như vậy, và trong trường hợp đó, tốt hơn cả là rụt cổ, nín thở, nhắm nghiền mắt lại, phó mặc thân mình cho số phận và cái khăn mà thôi.

Nghe Xantrô nói, Đôn Kihôtê kêu lên:

- Anh không xứng đáng là một giáo đồ Kitô vì anh hay thù dai. Phải biết rằng những người cao thượng và độ lượng không để tâm những chuyện lặt vặt. Anh có đến nỗi bị què chân, gãy xương sườn hoặc vỡ đầu đâu mà vẫn chưa quên chuyện đó? Xét cho cùng thì cũng chỉ là chuyện trêu đùa cho vui thôi, bằng không ta đã quay ngựa trở lại quán trọ giáng cho chúng một đòn trừng trị còn ghê gớm hơn cả đòn trừng trị của người Hy Lạp khi họ bị cướp mất nàng Êlêna; và nếu nàng Êlêna sống vào thời kỳ này, hoặc giả nàng Đulxinêa của ta sống vào thời đó, chắc chắn cả hai người không nổi danh tài sắc đến như thế.

Nói tới đây, Đôn Kihôtê ngửa mặt lên trời thốt ra một tiếng thở dài. Xantrô đáp lại:

- Thôi thì cứ tạm cho rằng họ đùa vì cũng chẳng trừng trị được ai nữa; riêng tôi phân biệt được đâu là thật đâu là đùa, và tôi sẽ không bao giờ quên cũng như lưng tôi còn mãi mãi mang những vết đòn. Nhưng thôi, xếp chuyện đó lại. Bây giờ xin ngài cho biết ý kiến về việc giải quyết con ngựa nâu có đốm đen này; trông nó giống như một con lừa nâu vậy. Anh chàng hiệp sĩ bại trận Martinô kia đã bỏ nó lại và cứ xem cung cách anh ta chạy thục mạng, tôi chắc sẽ không trở lại tìm nó nữa đâu. Kể ra con vật nom hay mắt đấy.

- Ta không hề tơ hào đến của cải của kẻ bại trận và luật lệ của giới hiệp sĩ cũng không cho phép tước ngựa như vậy trừ phi người thắng trận bị mất ngựa trong khi giao chiến; chỉ trong trường hợp chính đáng ấy mới được lấy ngựa của kẻ bại trận, coi như được phép. Bởi vậy, cứ để nó đấy, dù anh muốn gọi nó là ngựa, lừa hay con gì khác. Rồi chủ nó sẽ quay trở lại khi thấy ta đi khỏi nơi đây.

- Tôi muốn dắt đi luôn, ít ra cũng đổi lấy con lừa già yếu của tôi. Kể ra luật lệ của giới hiệp sĩ chặt chẽ thật, đổi con lừa này lấy con lừa khác cũng không được; nhưng chẳng hay có thể đổi bộ yên được không?

- Về điểm này, ta không rõ lắm, nhưng trong khi chờ đợi hỏi cho rõ thêm, anh có thể đổi được nếu xét thấy thật cần thiết cho con lừa.

- Rất cần thiết, Xantrô đáp, như thể cho chính bản thân tôi vậy.

Được chủ cho phép, Xantrô đổi luôn bộ yên cũ lấy bộ yên mới, sang sửa cho lừa của mình bảnh bao hẳn lên. Xong rồi, hai thầy trò ăn nốt những thức ăn đã chiếm được của đám thầy tu, vừa ăn vừa vục nước suối uống. Vì vẫn còn căm thù mấy cái chày đã làm họ sợ hãi cả đêm, hai người ngồi quay lưng về phía con suối có cái máy nện dạ.

Ăn xong, hai người hỉ hả lên ngựa ra đi. Để làm đúng như những hiệp sĩ giang hồ, họ không theo một hướng nào nhất định, để mặc cho con Rôxinantê dẫn đi; con lừa của Xantrô theo sau, có vẻ ăn ý với Rôxinantê lắm lắm. Lát sau, ra tới đường cái quan, hai người vẫn tiếp tục đi không có chủ định gì cả. Xantrô lên tiếng trước:

- Thưa ngài, ngài cho phép tôi được hầu chuyện ngài. Từ lúc ngài cấm ngặt tôi không được nói tới giờ, tôi đành để thối trong bụng bao nhiêu chuyện, nhưng lúc này tôi đang có một chuyện ở ngay đầu lưỡi, không muốn bỏ mất.

- Nói đi, nhưng ngăn ngắn thôi, không hay ho gì những lời lẽ dài dòng đâu.

- Từ mấy ngày hôm nay, tôi có suy nghĩ và thấy rằng cứ đi hết xó xỉnh này đến đầu đường khác tìm kiếm những chuyện phiêu lưu mạo hiểm, thật chẳng ăn thua gì cả. Dù ta có thắng trong những cuộc phiêu lưu nguy hiểm nhất cũng chẳng ai hay; những chiến công của ngài mãi mãi không được ai nhắc tới, không được ai ca ngợi thích đáng, và ngài sẽ phải chịu thiệt thòi. Trừ phi ngài có cao kiến gì hơn, tốt nhất, theo ý tôi, là ta hãy đi phò tá một vị hoàng đế hay một thân vương nào đang có chiến tranh với một nước khác để ta có thể mang hết trí dũng ra phụng sự. Một khi nhìn thấy công lao của thầy trò ta, chắc chắn các vị đó sẽ phải thưởng cho tùy theo công trạng từng người, và rồi sẽ không thiếu những sử gia viết và làm sống mãi những thành tích của ngài. Tôi chẳng nhắc tới phần đóng góp của tôi làm gì vì dù sao tôi cũng không thể vượt quá giới hạn của một kẻ tôi đòi. Tuy nhiên, nếu có ai viết sách về các giám mã, tôi chắc rằng những thành tích của tôi cũng không đến nỗi bị bỏ xó.

- Xantrô, ý kiến của anh hay đấy, nhưng trước khi làm việc đó, người hiệp sĩ cần phải chu du thiên hạ thử thách, tìm kiếm những chuyện phiêu lưu mạo hiểm để tỏ mặt anh tài đã. Một khi lập được chiến công rồi, tiếng tăm trở nên lừng lẫy, lúc đó chàng sẽ đến trình diện trước triều đình một vị đại đế. Khi thấy một hiệp sĩ nổi danh đi vào cổng thành, dân chúng xúm lại hô vang: "Đây là hiệp sĩ Mặt Trời" hoặc "Đây là hiệp sĩ Mãnh Xà", hoặc một danh hiệu nào khác tùy theo thành tích của chàng ta. Họ sẽ kháo nhau: "Hiệp sĩ này trong một cuộc độc chiến đã đánh bại tên khổng lồ Brôcabrunô Cường Tráng; chàng đã giải ách cho đại vương Mamêlucô xứ Ba Tư bị bùa mê trong gần chín trăm năm". Những chiến công của chàng hiệp sĩ sẽ được truyền tụng từ người này sang người khác tới tai đức vua khiến người phải ra trước cung điện đứng chờ; và vì đã nghe nói về những chiến công hoặc đã trông thấy biểu hiệu ghi trên khiên của chàng, thấy hiệp sĩ tới, đức vua bèn phải lên tiếng: "Tất cả các hiệp sĩ trong triều đình của ta hãy ra tiếp đón tinh hoa của giới hiệp sĩ đang đi tới". Theo lệnh nhà vua, tất cả các hiệp sĩ ra đón, rồi đức vua bước xuống lưng chừng thềm, ôm chặt lấy chàng, hôn lên mặt rồi cầm tay dắt vào phòng hoàng hậu khi đó đang ngồi với công chúa; công chúa là một trong những tiểu thư xinh đẹp và toàn diện nhất, hiếm thấy trên một phần lớn trái đất. Thấy chàng vào, công chúa kín đáo đưa mắt nhìn, chàng nhìn lại, bốn mắt gặp nhau, nàng tưởng là thiên thần hạ thế, chàng ngỡ đâu tiên nữ giáng trần. Thế rồi, chẳng hiểu ra sao, những sợi dây tình chằng chịt cứ buộc chặt hai người, khiến họ băn khoăn không biết làm cách nào để thổ lộ nỗi lòng cho nhau. Sau đó, người ta dẫn chàng hiệp sĩ sang một phòng khác trang hoàng lộng lẫy, đỡ lấy vũ khí của chàng và đưa chàng khoác một tấm áo sang trọng màu huyết dụ. Chàng mang vũ khí nom đã đẹp nhưng khoác nhung y, trông càng nổi hơn. Tối đến, chàng dự yến tiệc cùng đức vua, hoàng hậu và công chúa. Vừa ăn, chàng vừa đưa mắt liếc trộm nàng, công chúa cũng kín đáo nhìn lại, vì như đã nói ở trên, nàng là con người ý tứ. Tiệc tan, một chú lùn xấu xí bước vào cửa phòng, theo sau có một phu nhân xinh đẹp đi giữa hai anh khổng lồ. Phu nhân bắt đầu kể một câu chuyện phiêu lưu mạo hiểm do một hiền nhân đời xưa viết, đến nửa chừng ngừng lại và đố mọi người kể nốt đoạn cuối, ai kể đúng sẽ được coi là hiệp sĩ trứ danh nhất. Đức vua ra lệnh cho mọi người có mặt phải tham gia nhưng không ai kể đúng trừ chàng hiệp sĩ mới. Mọi người đều khâm phục chàng, riêng công chúa rất hài lòng vì thấy mình đã biết chọn mặt gửi vàng. Có một điều đáng mừng là nước của ông vua này đang có chiến tranh ác liệt với một nước khác cũng rất hùng mạnh. Biết chuyện đó, mấy hôm sau chàng hiệp sĩ đến gặp đức vua để xin ra trận. Được đức vua vui vẻ nhận lời, chàng hiệp sĩ hôn tay Người để tỏ lòng biết ơn. Ngay đêm hôm đó, chàng đến bên song phòng ngủ của công chúa ở trong vườn để từ biệt nàng; nơi đây, hai người đã cùng nhau tự tình nhiều lần do sự bố trí của một thị nữ tin cẩn. Chàng hiệp sĩ thở vắn than dài, công chúa thì mê man bất tỉnh; cô hầu phải chạy đi lấy nước để đắp vào trán nàng; cô ta lo lắm vì trời sắp sáng và vì danh dự của công chúa, cô không muốn câu chuyện giữa hai người bị lộ. Cuối cùng, công chúa tỉnh lại; nàng chìa đôi bàn tay trắng nõn qua song cửa và chàng hiệp sĩ hôn lấy hôn để, nước mắt tuôn rơi ướt đầm cả tay nàng. Hai người bàn cách báo tin cho nhau, và công chúa dặn chàng cố gắng về sớm. Chàng hiệp sĩ hứa sẽ làm đúng, hôn tay công chúa một lần nữa rồi ra đi, trong lòng buồn rầu khôn xiết tưởng có thể chết ngay được. Chàng trở về phòng nằm vật xuống giường trằn trọc cả đêm vì nỗi buồn biệt ly. Sáng sớm hôm sau, chàng đến chào đức vua, hoàng hậu và công chúa; sau khi chia tay chàng, đức vua và hoàng hậu báo tin là công chúa bị mệt không ra tiếp được. Nghĩ rằng nàng buồn vì phải xa người yêu, chàng thấy đau nhói trong tim, suýt nữa để lộ hết tâm tình của mình. Cô hầu của công chúa có mặt tại đó đã nhìn thấy rõ quang cảnh, quay về kể hết cho chủ; nghe xong công chúa khóc mãi và thổ lộ ra rằng có một điều làm cho nàng rất băn khoăn là không biết chàng có thuộc dòng dõi hoàng gia không. Cô hầu đáp: "Một người lịch thiệp, đáng yêu và dũng cảm như vậy, không thể không thuộc dòng dõi hoàng gia được". Công chúa nghe xuôi tai, nỗi lo lắng cũng nguôi dần. Để đức vua và hoàng hậu khỏi nghi ngờ, hai ngày sau nàng bước ra khỏi phòng. Ngoài trận tiền, chàng hiệp sĩ đánh bại kẻ thù của đức vua, chiếm được nhiều thành, thắng nhiều trận và trở về triều đình. Chàng lại đến gặp công chúa ở nơi hẹn hò cũ và thỏa thuận với nàng là sẽ xin vua cha gả công chúa để đền bù những công trạng của chàng. Vua cha từ chối vì không biết rõ dòng dõi của chàng. Nhưng không biết chàng hiệp sĩ đã bắt cóc hay làm cách nào, cuối cùng công chúa trở thành vợ chàng, và đức vua cũng rất hài lòng vì người đã phát hiện ra rằng chàng là con trai của một ông vua có tiếng tăm trị vì một nước nào đó không ghi trên bản đồ. Sau đó ít lâu, vua cha băng hà, công chúa nối ngôi và chàng hiệp sĩ lên làm vua. Sau khi lên ngôi, chàng ban thưởng cho giám mã của mình và cho tất cả những người đã có công đưa chàng tới chỗ hiển vinh. Chàng ban cho giám mã một tòa nhà, rồi lại gả thị nữ của công chúa cho làm vợ; tất nhiên đó là cô thị nữ đã xe duyên cho hai người, con gái một vị đại công tước.

- Tôi chỉ mong được như vậy nếu chuyện đó có thật, Xantrô nói. Và tôi cũng tin rằng tất cả những điều nói trên sẽ đến với ngài là hiệp sĩ Mặt Buồn.

- Không có điều gì phải nghi ngờ cả, Đôn Kihôtê đáp, vì các hiệp sĩ giang hồ đều phải qua những bước đường kể trên trước khi trở thành vua hay hoàng đế. Còn một điều cần biết: "ông vua theo đạo Kitô hay tà đạo, đang có chiến tranh với một nước khác, lại có một người con gái xinh đẹp, ông vua đó là ai? Nhưng thôi, ta còn đủ thời giờ để làm việc đó; trước hết, như ta đã nói, cần phải làm cho mình nổi danh trước khi ra mắt triều đình. À, lại còn điều này nữa: trong trường hợp ta đã lập chiến công, đánh bại kẻ địch của ông vua có người con gái xinh đẹp, không hiểu sẽ làm thế nào để ta trở thành dòng dõi hoàng gia, hoặc ít nhất cũng là họ hàng thân thích nhất của hoàng đế, bởi vì ngài sẽ không gả công chúa cho ta nếu không biết rõ điều này, dù cho những chiến công của ta còn xứng đáng hơn thế; cho nên ta lo rằng nếu vấn đề không được giải quyết, bao nhiêu công lao của ta cũng tan ra mây khói cả thôi. Ta vốn dòng dõi quý tộc danh gia, có nhà cửa ruộng vườn, thu lợi cao, và có thể trong khi xác minh nguồn gốc gia đình ta, sử gia sẽ ghi rằng ta là cháu năm sáu đời của một ông vua. Xantrô, anh phải biết rằng trên đời này có hai loại dòng dõi: có những người thuộc dòng dõi danh gia nhưng rồi thời gian xóa nhòa dần, càng ngày càng lu mờ đi; lại có những người tuy xuất thân từ gia đình tầm thường nhưng dần dần mở mày mở mặt và trở nên những ông lớn trong xã hội; thành thử ông trở nên thằng, thằng trở thành ông. Có thể ta thuộc dòng dõi danh gia nói trên, con dòng cháu giống, và sau khi điều tra ra, đức vua bố vợ tương lai của ta sẽ hài lòng. Và nếu không như thế chăng nữa, mặc cho đức vua phản đối, công chúa cũng sẽ vẫn yêu ta và lấy ta, dù nàng biết rõ ta là con một kẻ đi gánh nước thuê. Nếu cần, ta sẽ dùng tới phương kế cuối cùng là bắt cóc mang đi một nơi nào đó, rồi thời gian và tuổi già sẽ làm nguôi nỗi giận của cha mẹ nàng.

Xantrô bèn đáp:

- Nói như vậy khác gì những kẻ bất lương thường nói: "Không việc gì phải cầu xin một khi có thể chiếm đoạt bằng vũ lực". Nhưng ta nên nói rằng: "Thà phải vượt rào còn hơn nhờ người xin xỏ hộ". Tôi nói thế vì nếu ông vua bố vợ của ngài không chịu gả công chúa thì như ngài nói, chỉ còn cách bắt cóc nàng đem đi thôi. Có điều đáng buồn là trong lúc người ta sum họp vui vầy, an hưởng vinh hoa phú quý thì anh giám mã khốn nạn kia chẳng xơ múi gì hết, trừ phi cô hầu của công chúa cũng đi theo chủ để anh giám mã cùng cô ta chia sẻ nỗi bất hạnh đó cho tới khi Trời kia rủ lòng thương tới hai người. Tôi nghĩ rằng ông chủ của anh giám mã sẽ vui lòng gả cô hầu cho anh ta.

- Không ai phản đối điều đó, Đôn Kihôtê đáp.

- Nếu thế, ta hãy cầu nguyện Chúa và phó thác cho số phận, Xantrô nói.

- Đúng vậy, hãy cầu Chúa giúp cho thầy trò ta đạt được nguyện vọng; Chúa kia chỉ trừng phạt những kẻ có tội.

- Được lắm, tôi là một kẻ có đạo gốc và tôi cũng chỉ mong chức bá tước thôi.

- Thế đã là quá lắm rồi, nhưng nếu không được cũng chẳng hề chi, vì một khi ta lên làm vua, ta sẽ phong chức cho ngay chẳng cần đến anh phải chạy chọt ai hoặc phụng sự ta lâu dài. Sau khi ta đã ban cho chức bá tước, anh sẽ trở thành một nhà quý tộc; thiên hạ sẽ có kẻ gièm pha đấy, nhưng dù muốn hay không, họ cũng vẫn phải tôn anh lên là một nhà quý tộc.

- Và chắc chắn là tôi sẽ biết sử dụng uy quyền của mình. Có một thời kỳ tôi đã làm phụ thủ của một Thánh hội, mặc áo lễ nom oai đáo để, và mọi người đều bảo tôi có tướng làm Thánh hội trưởng. Nếu bây giờ người ta choàng lên vai tôi một chiếc áo khoác của công tước, hoặc đeo vàng bạc châu báu vào người tôi như những vị bá tước ngoại quốc, chắc phải có nhiều người từ xa hàng trăm dặm tới ngắm.

- Rất có thể, nhưng anh cần phải cạo râu luôn vì nếu cứ để râu ria xồm xoàm, lởm chởm, hai ngày không lấy dao cạo một lần thì từ xa người ta đã nhận ra anh là ai rồi.

- Có gì khó đâu, tôi chỉ cần nuôi một bác phó cạo trong nhà; và nếu cần nữa, đi đâu tôi cũng bắt đi theo sau như kỵ sĩ đi theo hầu một nhà đại quý tộc vậy.

- Sao anh biết các nhà đại quý tộc có kỵ sĩ theo hầu?

- Để tôi nói: trước đây, tôi đã có lần sống một tháng trời tại kinh đô; một hôm, tôi trông thấy một người bé loắt choắt đi ngoài đường; theo người ta bảo, ông này là một vị quan to lắm; sau lưng ông ta có một người cưỡi ngựa; ông ta đi đâu, người này lẽo đẽo theo đó chẳng khác gì một cái đuôi. Tôi hỏi khách qua đường vì sao người cưỡi ngựa không đi ngang hàng mà cứ phải đi đằng sau. Người ta cho biết rằng người cưỡi ngựa là kỵ sĩ theo hầu, và những vị đại gia thường có người đi theo hầu như vậy. Tôi biết từ hồi đó và vẫn nhớ mãi.

- Anh nói đúng đấy; nên có một người thợ cạo đi theo. Những tập quán không xuất hiện cùng một lúc mà có dần dần, và anh sẽ là bá tước đầu tiên có thợ cạo râu theo hầu. Vả chăng, thợ cạo râu cần phải có nhiều tín nhiệm hơn một giám mã.

- Thôi, xin ngài để tôi lo kiếm thợ cạo râu, còn ngài hãy lo làm sao chóng trở thành vua và phong cho tôi làm bá tước.

- Sẽ được thôi, Đôn Kihôtê đáp.

Mải chuyện, lúc này chàng hiệp sĩ mới ngước mắt nhìn lên thì thấy những điều mà tác giả sẽ kể trong chương sau.

--------------------------------
1 Thời Trung cổ ở châu Âu, thợ cạo râu kiêm cả nghề trích máu người ốm.
2 Thần Vulcanô chuyên rèn vũ khí.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes

Chương XXII

ĐÔN KIHÔTÊ TRẲ LẠI TỰ DO CHO NHỮNG KẺ KHỐN NẠN BỊ ĐƯA ĐẾN MỘT NƠI HỌ KHÔNG MUỐN TỚI

Ngài Amêtê Bênenhêli, người Arập trú ngụ tại xứ Mantra, tác giả cuốn sách nghiêm túc, văn vẻ, giản dị, lý thú và ly kỳ này, kể tới đoạn chàng Đôn Kihôtê nổi tiếng đang trò chuyện với giám mã Xantrô ở cuối chương hai mươi mốt. Bỗng Đôn Kihôtê ngước mắt nhìn lên phía trước, thấy có khoảng mười hai người đang đi bộ tới, cổ đeo chung một dây xiềng to bằng sắt, tay đeo xích; đi theo họ có hai người cưỡi ngựa và hai người đi bộ; hai người cưỡi ngựa có súng, còn hai người đi bộ cầm gươm mác. Xantrô Panxa nhìn thấy bèn nói:

- Đây là đám tù khổ sai bị nhà vua bắt tội phải đi chèo chiến thuyền.

- Sao lại bị bắt tội là thế nào? Chẳng lẽ nhà vua bắt tội dân chúng ư?

- Không phải thế; tôi chỉ muốn nói rằng đây là những người có tội bị đưa đi chèo các chiến thuyền của nhà vua.

- Dù sao họ cũng bị giải đi một cách cưỡng bức, không phải tự ý họ muốn đi.

- Đúng thế.

- Đã vậy, bổn phận đòi hỏi ta phải ra tay chống cường bạo, cứu vớt những kẻ khốn cùng.

- Xin ngài nhớ cho rằng không phải công lý hay nhà vua cưỡng bức xúc phạm họ mà trừng phạt họ vì họ có tội.

Lúc này đám tội nhân đã đi tới; Đôn Kihôtê rất lễ độ yêu cầu những người lính áp giải cho biết lý do vì sao họ lại dẫn đám người này đi như vậy. Một người lính cưỡi ngựa đáp:

- Đây là những tội nhân bị đưa đi chèo các chiến thuyền của đức vua; ngoài ra tôi không có điều gì nói nữa và ngài cũng không có điều gì phải hỏi nữa.

- Tuy nhiên, xin cho tôi được biết nguyên nhân tội trạng của từng người, Đôn Kihôtê nói.

Để đạt mục đích, chàng còn dùng những lời lẽ rất ngọt ngào khiến người lính cưỡi ngựa thứ hai phải lên tiếng đáp:

- Chúng tôi có mang theo đây hồ sơ bản án của từng tên khốn kiếp này nhưng bây giờ không phải lúc chúng tôi dừng lại giở ra đọc cho ngài nghe. Xin ngài hãy đến hỏi từng đứa một, chúng sẽ kể nếu chúng muốn, và chắc chắn chúng sẽ kể vì hạng người này thích khoe những thành tích của mình lắm.

Được phép - thực ra, dù không được chàng cũng vẫn cứ làm, Đôn Kihôtê tiến lại gần đám tội nhân và hỏi người đầu tiên tội trạng ra sao mà đến nỗi khốn khổ như vậy. Y đáp:

- Vì tôi trót yêu.

- Có thế thôi ư? Đôn Kihôtê nói. Nếu chỉ vì yêu mà bị đưa đi chèo chiến thuyền thì có lẽ ta đã phải đi từ lâu rồi.

- Không phải tôi yêu như ngài tưởng đâu, người tù đáp. Trái lại, tôi yêu tha thiết một cái giành chứa đầy quần áo trắng, và tôi ôm chặt đến nỗi nếu pháp luật không bắt tôi phải nhả ra, có lẽ đến bây giờ tôi cũng chưa chịu buông. Tôi bị bắt quả tang, chẳng phải tra hỏi gì; tòa tuyên án một trăm roi vào lưng và còn phải ba năm chèo gurapa nữa mới xong việc.

- Gurapa là gì?

- Gurapa là thuyền chiến của nhà vua.

Tội nhân này cho biết y hai mươi bốn tuổi, quê ở Piêđraita.

Đôn Kihôtê lại hỏi tù nhân thứ hai. Người này không đáp, mặt buồn thiu. Anh chàng quê ở Piêđraita đỡ lời:

- Thưa ngài, nó bị trừng trị vì thích ca nhạc.

- Sao, thích ca nhạc cũng phải tội chèo chiến thuyền ư?

- Thưa ngài, đúng thế ạ, vì không có tội gì nặng bằng ca hát trong khi bị tra hỏi.

- Trái lại, ta thường nghe nói rằng hát lên là hết buồn đau.

- Đằng này không thế; kẻ nào đã hát một lần sẽ phải khóc suốt đời.

- Ta không hiểu.

Một người lính áp giải nói với Đôn Kihôtê:

- Thưa ngài hiệp sĩ, theo tiếng lóng của bọn lưu manh này thì hát trong khi bị tra tấn có nghĩa là nhận tội. Tên tội phạm này bị tra hỏi và đã khai hết tội lỗi. Nó đi ăn trộm gia súc, nhận tội và bị phạt sáu năm chèo chiến thuyền cộng với hai trăm roi. Nó bị bạn bè ghét bỏ, chế giễu, khinh rẻ vì nó đã thú tội và không có đủ can đảm để chối, cho nên bây giờ nó đâm ra suy nghĩ, buồn rầu. Bạn bè của nó nói rằng chữ không hay chữ đều chỉ có một âm, và thật là điều may mắn cho một tội phạm một khi không có tang chứng nào buộc tội và có thể dùng đầu lưỡi của mình để thoát thân. Về điểm này, tôi cho rằng chúng nói phải.

- Tôi cũng nghĩ thế, Đôn Kihôtê đáp.

Chàng hỏi sang người thứ ba. Người này nhanh nhẹn đáp một cách rất thoải mái:

- Tôi phải chung sống năm năm với các ả gurapa vì thiếu mười đồng tiền vàng.

- Ta sẵn sàng bỏ ngay hai mươi đồng để giải thoát nỗi đau khổ này cho anh.

- Như thế khác nào một kẻ có tiền nhưng lênh đênh giữa biển cả, cuối cùng sẽ chết đói vì không mua được gì ăn. Tôi nói vậy vì rằng nếu lúc đó tôi có hai mươi đồng tiền vàng mà ngài cho tôi bây giờ, tôi sẽ đút lót lão lục sự và làm cho cái đầu của quan biện lý trở nên sáng suốt, và bây giờ tôi đã đang ung dung giữa quảng trường Xôcôđôver ở Tôlêđô rồi, chứ đâu đến nỗi bị trói gô như một con chó thế này; nhưng Trời kia có mắt, chỉ cần nhẫn nại là được.

Đôn Kihôtê hỏi tội nhân thứ tư là một người đạo mạo, râu bạc phơ dài xuống tận ngực; thấy Đôn Kihôtê hỏi nguyên nhân vì sao đến bước đường này, lão òa lên khóc, không nói nên lời. Người đi bên cạnh phải nói đỡ:

- Con người đáng kính này bị phạt bốn năm chèo thuyền chiến sau khi đã cưỡi ngựa dạo qua những phố quen thuộc, có kẻ đưa người đón. 1

- Theo tôi hiểu, như thế có nghĩa là bị đưa ra trước công chúng để chịu nhục chứ gì, Xantrô Panxa nói.

- Đúng vậy, người tù đáp. Và ông ta phải chịu hình phạt đó vì đã đi làm nghề mách mối hàng và mách cả người nữa. Tôi muốn nói là ông ta làm nghề mối lái, lại còn dùng cả bùa mê bả dột.

- Nếu không kể tới việc dùng bùa mê, Đôn Kihôtê nói, một người làm nghề mối lái như ông ta không đáng bắt tội phải chèo thuyền chiến mà phải được phong chức chỉ huy các chiến thuyền. Thực ra không phải người nào cũng có thể mối lái được. Đó là một nghề khá tế nhị và rất cần thiết trong một quốc gia có tổ chức, chỉ có những người khôn ngoan lắm mới làm nổi. Trong nghề này cũng như trong những nghề khác, cần phải cử ra những vị thanh tra, giám khảo, số lượng tương đương như trong nghề mách mối hàng. Có như vậy mới tránh được những chuyện không hay mà những kẻ ngu xuẩn thường gây ra trong khi hành nghề; đó là những mụ mối bẻm mép, bọn người hầu bịp bợm non choẹt và ít kinh nghiệm, khi cần nói đúng câu, đúng chỗ thì họ lại quên khuấy đi, thậm chí quên cả tay nào là tay phải. Ta còn muốn nói thêm và giải thích tại sao Nhà nước phải kén người để làm một công việc quan trọng như vậy, nhưng bây giờ chưa phải lúc. Một ngày kia, ta sẽ nói với những người có khả năng giải quyết. Giờ đây, ta chỉ muốn nói một điều: ta không khỏi buồn phiền khi nhìn mớ tóc bạc và khuôn mặt đạo mạo của con người đã phải tù tội chỉ vì làm nghề mối lái, nhưng khi ta nghĩ rằng người đó đã dùng bùa mê bả dột thì nỗi ưu phiền của ta cũng tiêu tan đi. Tuy nhiên, ta biết rằng không có bùa yêu nào trên đời này có thể mê hoặc được ý chí con người, như một vài kẻ nghĩ đơn giản; ý chí con người ta không bị phụ thuộc và không có bùa mê nào ép buộc được. Những mụ mối bẻm mép và những tên bịp bợm thường luyện bùa yêu bằng những chất độc khiến cho người dùng trở nên điên dại, rồi chúng tự khoe là có phép làm cho con người biết yêu; nhưng như ta đã nói, không thể nào cưỡng bức được ý chí con người.

- Thưa ngài, đúng như vậy, phạm nhân già nói. Thực ra, tôi không hề dùng bùa mê mà chỉ làm nghề mối lái thôi, và tôi không bao giờ nghĩ rằng mình đã làm hỏng một việc nào. Tôi chỉ muốn cho mọi người sung sướng, sống yên lành, vui vẻ với nhau, không cãi cọ, không ưu phiền, nhưng ý định tốt đẹp đó của tôi không giúp tôi tránh khỏi phải đi đến một nơi mà tôi không hy vọng trở về phần vì hạn tù quá dài, phần vì tôi có bệnh bí tiểu tiện luôn luôn quấy rầy.

Nói rồi, phạm nhân này lại khóc. Xantrô mủi lòng, rút từ trong ngực một đồng bố thí cho.

Đôn Kihôtê tiếp tục hỏi một người tù khác, người này đáp một cách rất tự nhiên:

- Sở dĩ tôi đi tù vì tôi đùa quá nhả với hai cô em con dì của tôi và hai cô em họ của người khác, và vì đùa quá trớn nên số người trong gia đình cứ mỗi ngày mỗi tăng lên một cách vô tổ chức, không biết đằng nào mà tính nữa. Sự việc vỡ lở, tôi không được ai che chở, không có tiền chạy chọt, suýt bị treo cổ; tòa xử tội sáu năm chèo thuyền chiến, tôi nhận ngay vì tôi đáng tội. Nhưng tôi còn trẻ, đời còn dài, rồi đâu sẽ vào đấy. Thưa ngài hiệp sĩ, nếu ngài có gì cưu mang cho những kẻ khốn cùng này, trên thiên đàng Chúa sẽ đền bù lại cho ngài và ở dưới trần, chúng tôi sẽ cầu Chúa cho ngài mạnh khỏe, sống lâu.

Người tù này ăn mặc kiểu sinh viên; theo một người lính áp giải cho biết, hắn ta có khoa nói và giỏi tiếng Latinh.

Sau cùng là một người tù trạc ba mươi, mặt mũi sáng sủa, chỉ hiềm một nỗi mắt nọ nhìn mắt kia. Anh ta bị cùm kỹ hơn cả, chân đeo một cái xích to và dài chạy vòng quanh người, cổ mang hai chiếc gông, một chiếc nối liền vào cái xích chân, một chiếc có hai thanh sắt chạy dài đến tận thắt lưng móc vào hai cái còng tay có khóa, thành thử tay không với tới đầu, đầu không cúi tới tay. Đôn Kihôtê hỏi lý do vì sao người tù này mang nhiều gông cùm hơn những người khác. Lính áp giải cho biết tội nhân này có nhiều án hơn tất cả những người kia cộng lại; hắn rất táo tợn, mưu mẹo và tuy đã xiềng xích như vậy mà họ vẫn chưa yên tâm, chỉ sợ hắn chạy trốn mất.

- Anh ta có tội gì vậy, Đôn Kihôtê hỏi, và những tội đó có đáng phạt nặng hơn bắt đi chèo chiến thuyền không?

- Hắn bị mười năm khổ sai, một người giải tù đáp, có sống cũng như chết mà thôi; chỉ xin nói thêm một điều: hắn chính là tên Hinêx đê Paxamôntê khét tiếng mà người ta còn gọi là Hinêxiiô đê Parapiia.

- Này, ngài đội, người tù nói, xin chớ nặng lời và đừng phân biệt tên với bí danh. Tên tôi là Hinêx chứ không phải Hinêxiiô, còn họ của tôi là Paxamôntê, không phải Parapiia như ngài nói.

- Đừng có già mồm, ông tướng nhà trời kia, viên đội nói, kẻo ta khóa họng lại bây giờ.

- Đúng là trời bắt tội thì phải chịu, người tù nói, nhưng rồi một ngày kia, có kẻ sẽ biết tên ta có phải là Hinêxiiô đê Parapiia hay không?

- Thằng nói láo kia, chẳng phải người ta gọi mi như vậy ư? Viên đội vặn lại.

- Có thể, Hinêx đáp; nhưng tôi sẽ làm cho người ta không gọi tôi như vậy nữa, bằng không tôi sẽ tự vặt hết râu. Thưa ngài hiệp sĩ, nếu ngài có gì cho chúng tôi, xin hãy đưa ngay rồi mời ngài lên đường đi thôi vì chúng tôi cũng đã phát ngán cái kiểu moi móc chuyện của người khác rồi; còn nếu như ngài muốn biết về cuộc đời tôi, xin giới thiệu tôi tên là Hinêx đê Paxamôntê và cuộc đời của tôi do chính năm ngón tay này viết ra.

- Hắn nói thật đấy, người lính giải tù nói; chính hắn đã viết về cuộc đời của hắn, một quyển sách rất hay. Nhưng hắn đã gán quyển đó ở trong tù để lấy hai trăm đồng bạc rồi.

- Dù đã gán lấy hai trăm đồng vàng rồi, tôi cũng sẽ chuộc lại.

- Quyển sách ấy hay đến thế kia ư? Đôn Kihôtê hỏi.

- Còn hay gấp mấy lần quyển Laxariiô đê Tormêx và tất cả những quyển sách khác cùng loại đã được xuất bản cho tới nay, Hinêx đáp. Chỉ xin thưa với ngài rằng quyển sách của tôi viết về những sự việc có thật, hay ho và lý thú, không một truyện bịa nào có thể hay bằng.

- Tên quyển sách là gì?

- Cuộc đời của Hinêx đê Paxamôntê.

- Anh viết xong chưa?

- Làm sao đã có thể xong được một khi cuộc đời của tôi chưa kết thúc. Tôi chỉ mới kể từ khi tôi ra đời cho tới đoạn phải đi chèo thuyền chiến lần cuối cùng.

- Vậy ra trước đây anh đã phải chèo thuyền chiến rồi ư?

- Để phụng sự Chúa và đức vua, tôi đã ở trên thuyền chiến bốn năm, tôi đã nếm đủ mùi cay đắng, ngọt bùi, nhưng bây giờ trở lại tôi không thấy khổ vì ở đó tôi sẽ có thể viết xong cuốn sách; tôi còn nhiều điều muốn kể và ở trên các chiến thuyền Tây Ban Nha có nhiều lúc quá rỗi rãi; vả chăng tôi cũng không cần nhiều thời gian để viết vì tôi đã thuộc lòng tất cả rồi.

- Anh có tài đấy, Đôn Kihôtê nói.

- Và cả tai nữa, Hinêx đáp, vì chữ tài thường đi liền với chữ tai.

- Chữ tai chỉ đi liền với những kẻ súc sinh thôi, viên đội nói.

- Ngài đội, tôi đã bảo ngài nên nói năng từ tốn cơ mà. Người ta trao cho ngài chiếc gậy kia không phải để ngài đánh đập chúng tôi mà để dẫn chúng tôi đi theo lệnh của đức vua. Nếu không, tôi thề sẽ... Nhưng thôi, một ngày kia, mọi điều bí ẩn sẽ được giải đáp, mặc ai muốn nói gì thì nói. Ta đi thôi, nói ấm ớ nhiều rồi.

Trước những lời dọa nạt của Paxamôntê, viên đội giơ gậy lên định đánh nhưng Đôn Kihôtê đứng ra can, yêu cầu không nên ngược đãi tù nhân vì một người đã bị khóa chặt tay chân tất nhiên phải được tự do mồm mép một chút. Rồi quay sang đám phạm nhân, chàng nói:

- Hỡi những người anh em rất thân mến, những điều anh em vừa nói ra chứng tỏ rằng tuy anh em có tội nhưng anh em không thích thú gì những hình phạt này và phải ra đi một cách rất miễn cưỡng. Có thể vì khiếp sợ trong lúc bị tra hỏi, vì không có tiền hối lộ, vì không được ai che chở, và cuối cùng vì sự phán đoán sai lệch của quan tòa mà anh em đã phải khổ sở như thế này. Đầu óc ta đang suy nghĩ về những điều đó và ta tự bảo, tự nghĩ, tự thấy rằng mình phải mang tài năng mà Trời đã phú cho để đảm đương nhiệm vụ của người hiệp sĩ trên đời này và để thực hiện nguyện vọng của ta là cứu vớt những kẻ khốn cùng và những kẻ bị quyền lực áp bức. Song, ta phải khôn khéo, biết dùng biện pháp mềm dẻo một khi không cần cứng rắn. Vì vậy, thưa ông đội và các ông lính giải tù, xin hãy tháo xiềng xích và giải thoát cho những tội nhân này. Sẽ không thiếu người phụng sự đức vua trong những trường hợp khác thuận lợi hơn. Thật là một điều cay nghiệt nếu ta giam hãm những người đã được Chúa và tạo hóa trao cho tự do. Vả chăng, thưa các ngài, những con người khốn khổ này không hề xúc phạm các ngài, hãy mặc họ với những tội lỗi của họ. Chúa ở trên trời sẽ không quên trừng phạt những kẻ độc ác và khen thưởng những người lương thiện; thật là một điều không hay một khi có những người lương thiện hành hạ những kẻ khác mà không được lợi lộc gì. Tôi thân ái yêu cầu các ngài, nếu các ngài nhận lời cho, tôi sẽ xin hậu tạ. Còn nếu các ngài không ưng thuận, mũi giáo và lưỡi gươm này cùng với cánh tay dũng mãnh của tôi sẽ buộc các ngài phải tuân theo.

- Rõ thật ấm ớ, viên đội đáp, nói dễ nghe thế! Muốn chúng tôi thả những tội nhân của đức vua ư? Làm như chúng tôi có quyền thả chúng ra hoặc ông có quyền ra lệnh cho chúng tôi ấy. Thôi, mời ông đội lại cái thau ngay ngắn trên đầu và hãy đi cho, đừng có tìm mèo ba chân làm gì.

- Chính mi là mèo, là chuột, là kẻ nói láo, Đôn Kihôtê nói.

Rồi nhanh như cắt, chàng xông thẳng tới viên đội đâm luôn một nhát giáo; viên này không kịp trở tay ngã lăn xuống đất. Thật may cho Đôn Kihôtê vì viên này có súng. 2

Những người lính kia sửng sốt, sững sờ trước cuộc tấn công bất ngờ; nhưng rồi họ trấn tĩnh lại, vung gươm mác, xông vào đánh Đôn Kihôtê; chàng hiệp sĩ ung dung chống đỡ. Cũng may đám phạm nhân thấy có cơ hội thoát thân, bèn phá tung xiềng xích khiến cho bọn lính bị lúng túng, vừa phải chống đỡ với Đôn Kihôtê, vừa phải ngăn chặn tù nhân phá xiềng. Trong khi đó, Xantrô đến tháo gông xích giúp Hinêx đê Paxamôntê. Được giải thoát, anh chàng này xông ngay tới viên đội đang nằm liệt dưới đất, tước luôn gươm và súng của y, rồi chĩa súng vào đám lính giải tù dọa bắn. Phần vì sợ oai khẩu súng của Paxamôntê, phần vì bị các phạm nhân khác ném đá, những người lính chạy tán loạn. Riêng Xantrô rất lo chuyện này; bác nghĩ rằng bọn lính vừa chạy trốn sẽ đi gặp đội Xanta Ermanđát, đội sẽ kéo chuông báo động và sẽ đi lùng những kẻ có tội. Bác ngỏ ý đó với chủ và khuyên nên đi trốn ngay vào khu rừng gần đấy.

- Đúng rồi, Đôn Kihôtê nói, nhưng trước đó còn có một việc phải làm đã.

Chàng gọi đám tù nhân lúc này đang chạy lung tung sau khi đã tước hết quần áo của viên đội; họ đứng vòng quanh Đôn Kihôtê chờ nghe ý kiến của chàng. Đôn Kihôtê nói:

- Những con người có giáo dục đã nhận ơn của ai thì phải đền bồi, và một trong những tội lỗi khiến Chúa bất bình nhất là sự vong ân bội nghĩa. Ta nói vậy vì các ngài đã tận mắt nhìn thấy ta giúp đỡ các ngài như thế nào. Để đền ơn đó, ta muốn rằng sau khi đã được ta giải thoát, các ngài lại đeo tất cả những gông cùm này vào cổ và đi tới thành Tôbôxô trình diện trước nàng Đulxinêa; các ngài sẽ thưa với nàng rằng hiệp sĩ của nàng tên là Mặt Buồn phái các ngài đến; hãy kể tỉ mỉ sự việc kinh thiên động địa vừa qua, từ đầu cho tới lúc các ngài được giải phóng, sau đó các ngài sẽ được tự do, muốn đi đâu tùy ý.

Thay mặt mọi người, Hinêx đê Paxamôntê đáp:

- Thưa vị cứu tinh của chúng tôi, quả thực điều ngài yêu cầu không sao thực hiện được vì rằng chúng tôi không dám đi cùng một đường; chúng tôi phải đi riêng lẻ, mỗi người một phía, rúc vào lòng đất mà đi để tránh đội Xanta Ermanđát lúc này chắc chắn đang trên đường truy lùng. Ngài có thể đòi hỏi chúng tôi - và ngài nên như vậy - đọc những bài kinh cầu phúc cho ngài thay thế cho việc đến trình diện nàng Đulxinêa ở thành Tôbôxô. Chúng tôi có thể đọc ngày đọc đêm, lúc chạy trốn cũng như khi nghỉ ngơi, lúc bình yên cũng như khi loạn lạc. Nhưng nếu ngài muốn chúng tôi trở về kiếp cũ, nghĩa là lại đeo gông cùm vào người và đi tới thành Tôbôxô thì có khác gì bảo rằng lúc này là đêm tuy rằng mới mười giờ sáng. Đòi hỏi chúng tôi làm việc đó khác nào đòi hỏi cây du sinh ra quả lê.

- Ta thề có Chúa, Đôn Kihôtê nổi khùng nói, hỡi tên Đôn Hinêxiiô đê Parôpiiô, đồ chó đẻ, mi sẽ phải đi một mình một cách nhục nhã, với tất cả gông cùm xiềng xích trên người.

Paxamôntê chẳng lạ gì Đôn Kihôtê là một người điên rồ, chứng cớ là chàng đã làm một việc xằng bậy muốn giải thoát cho đám tội nhân; nhưng vốn không chịu được lời nói, thấy bị xỉ vả như vậy, y bèn đưa mắt ra hiệu cho đồng bọn lùi ra xa một chút, rồi tất cả quăng đá như mưa vào Đôn Kihôtê khiến chàng không còn tay nào giơ khiên ra đỡ nữa; trong khi đó, con Rôxinantê khốn khổ cứ đứng ì ra như ngựa đồng mặc cho đinh thúc vào sườn; Xantrô núp sau con lừa để tránh trận mưa đá đang đổ xuống đầu cả hai thầy trò. Đôn Kihôtê không sao tránh được hết, đành giơ mình hứng những hòn đá mạnh như trời giáng, cuối cùng ngã lăn xuống đất. Tù nhân có bộ mặt sinh viên xông ngay tới giật cái chậu trên đầu Đôn Kihôtê, phang ba bốn cái vào lưng chàng rồi thẳng tay quật xuống đất làm vỡ tan. Lũ bất nhân tước luôn cả áo choàng ngoài của chàng; chúng còn định lột cả chiếc quần nịt nhưng bị vướng áo giáp ngoài; Xantrô cũng bị lột mất áo ngoài. Xong xuôi, chúng chia nhau những chiến lợi phẩm rồi mỗi đứa đi một ngả, lo thoát khỏi tay đội Xanta Ermanđát hơn lo phải đeo gông xiềng đến trình diện trước nàng Đulxinêa ở Tôbôxô.

Còn trơ con lừa, Rôxinantê, Xantrô và Đôn Kihôtê. Chú lừa cúi gục đầu có vẻ suy nghĩ, đôi tai ve vẩy, tưởng đâu vẫn nghe thấy tiếng đá rít bên tai; Rôxinantê cũng bị trúng đòn nằm ngay bên cạnh chủ; Xantrô còn độc chiếc áo che thân, run lẩy bẩy nghĩ tới đội Xantra Ermanđát; còn Đôn Kihôtê thì rầu rĩ vì thấy bị những kẻ đã chịu ơn đối xử tồi tệ.

--------------------------------
1Những tội phạm bị phạt roi được đưa tới những phố đã quy định để chịu hình phạt; họ bị giải trên lưng lừa, cùng đi theo có các nhân viên của tòa án và những người thi hành bản án.

2Xervantêx đôi khi có những sơ suất trong khi viết. Trong đầu chương này, chúng ta thấy có hai người lính mang súng chứ không phải một người.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes

Chương XXIII

TRÊN DÃY NÚI MÔRÊNA, CHÀNG ĐÔN KIHÔTÊ TRỨ DANH ĐÃ GẶP MỘT TRONG NHỮNG CHUYỆN PHIÊU LƯU MẠO HIỂM LY KỲ NHẤT KỂ TRONG CUỐN SÁCH CÓ THẬT NÀY


Trước cảnh tượng thiểu não đó, Đôn Kihôtê bảo giám mã:

- Xantrô, ta thường nghe nói rằng làm ơn cho những kẻ bất nhân chẳng khác gì đổ nước xuống biển. Nếu ta nghe lời anh, chắc chắn không đến nỗi cay đắng như thế này. Nhưng thôi, sự đã rồi, ta phải biết nhẫn nại và rút ra bài học cho lần khác.

- Nếu ngài mà rút ra được bài học thì tôi thành người Thổ Nhĩ kỳ rồi. Nhưng thôi, ngài đã nói rằng nếu nghe tôi thì không xảy ra chuyện gì, vậy bây giờ ngài phải nghe tôi để tránh những chuyện rắc rối hơn. Xin thưa với ngài rằng không có dòng hiệp sĩ nào cưỡng nổi đội Xanta Ermanđát đâu; đối với đội này, tất cả các hiệp sĩ giang hồ chỉ đáng giá hai xu. Mà hình như tôi đã nghe có tiếng những mũi tên rít bên tai rồi đấy. 1

- Anh đúng là kẻ nhát gan, Đôn Kihôtê nói, nhưng để anh đừng nghĩ rằng ta ương ngạnh và không bao giờ chịu nghe lời khuyên can của anh, lần này ta sẽ nghe anh và sẽ tránh đòn sấm sét của đội Xanta Ermanđát mà anh lo sợ. Nhưng ta ra một điều kiện: dù sống hay chết, anh không bao giờ được nói với ai rằng ta lẩn tránh gian nguy vì sợ hãi, mà chỉ vì muốn chiều lòng anh thôi. Nếu anh nói khác tức là nói láo và bây giờ cũng như sau này, sau này cũng như bây giờ, ta cải chính bảo rằng anh nói láo và sẽ còn nói láo mỗi khi anh nghĩ và nói khác đi. Đừng có cãi ta làm chi; thật vậy, chỉ mới nghĩ rằng ta lẩn tránh gian nguy và có phần nào e ngại chuyện này, ta đã muốn ở lại đây một mình đối phó với đội Xanta Ermanđát đã khiến anh run sợ. Và dù có phải đương đầu với các thủ lĩnh anh em của mười hai bộ lạc Ixrael, với bảy anh em Macabêô, với Caxtor và Pôlux, với tất cả các anh hùng hào kiệt trên đời này, ta cũng sẽ chờ tại đây.

- Thưa ngài, Xantrô đáp, tránh mặt không có nghĩa là chạy trốn, còn cứ ở lại chờ cũng không phải là khôn ngoan một khi ta không có đủ sức chống đỡ. Người khôn phải biết dành sức cho ngày sau, không nên phung phí một lúc. Tôi tuy thân phận hèn mọn nhưng cũng biết cách cư xử; bởi vậy xin ngài chớ ân hận đã nghe lời tôi khuyên nhủ. Mời ngài lên ngựa đi theo tôi; nếu không đủ sức leo, tôi xin giúp một tay. Theo tôi, lúc này đôi chân cần hơn đôi tay.

Đôn Kihôtê lẳng lặng leo lên con Rôxinantê, Xantrô cưỡi lừa dẫn đường, rồi hai thầy trò đi vào trong núi Môrêna. Xantrô định bụng nương náu trong dãy núi vắng vẻ này vài hôm để tránh đội Xanta Ermanđát truy lùng, sau đó sẽ vượt núi đi Vixô hoặc Almôđôvar del Campô. Bác rất mừng thấy đám tù khổ sai trong khi cướp bóc hai thầy trò đã bỏ lại cái túi lương thực đeo trên lưng lừa, coi như một điều kỳ lạ vì bọn này đã vơ vét chẳng thiếu thứ gì.

Đêm hôm đó, hai thầy trò đã vào sâu trong núi Môrêna; Xantrô thấy có thể nghỉ lại một đêm hoặc vài ngày chừng nào còn lương ăn. Thế là hai thầy trò nằm xuống ngủ giữa hai vách đá, dưới những cây sồi điển điển. Theo những kẻ thiếu lòng tin vào Thượng đế thì mọi việc trên đời đều do số mệnh định đoạt, sắp xếp, bố trí, và chính lúc này số mệnh muốn rằng Hinêx đê Paxamôntê - tên kẻ cắp khét tiếng đã thoát khỏi xiềng xích nhờ tính hào hiệp và sự điên rồ của Đôn Kihôtê - cũng lẩn trốn trong dãy núi Môrêna vì sợ đội Xanta Ermanđát truy lùng (hắn sợ là đúng). Và chính số mệnh và sự lo sợ đã dẫn hắn tới đúng chỗ Đôn Kihôtê và Xantrô Panxa đang nghỉ. Nhìn thấy hai thầy trò chàng hiệp sĩ, Hinêx đê Paxamôntê nhận ra ngay và cứ để mặc cho họ ngủ. Thói đời, độc ác thường đi đôi với bất nhân, túng đói sinh ra bậy bạ, hiện tại làm quên mất tương lai, cho nên Hinêx vong ân và bất nhân bỗng nảy ra ý định lấy cắp con lừa của Xantrô; hắn không thèm lấy con Rôxinantê vì thấy nó gầy còm ốm yếu quá, có mang cầm cố bán chác cũng chẳng được bao nhiêu. Thế là trong lúc Xantrô ngủ, hắn cuỗm luôn con lừa, và trước khi trời sáng, hắn đã cao chạy xa bay, khó mà tìm ra.

Mặt trời đã mọc Đằng đông, mọi vật đều tưng bừng; riêng Xantrô buồn thiu vì không thấy con lừa đâu. Mất bạn, bác khóc lóc vô cùng thảm thiết; Đôn Kihôtê giật mình tỉnh giấc thì nghe thấy bác than khóc như sau:

- Hỡi đứa con rứt ruột của ta ơi! Mày sinh ra ở nhà ta, các con ta vẫn chơi đùa với mày, vợ ta yêu quý mày, hàng xóm láng giềng đều phải ghen tị vì mày, mày đỡ đần công việc cho ta, và sau hết mày góp phần nuôi dưỡng ta vì mỗi ngày mày kiếm ra hai mươi sáu xu tức là nửa số tiền chi tiêu hàng ngày của ta.

Biết vì sao Xantrô khóc, Đôn Kihôtê dùng hết lời khuyên nhủ. Chàng bảo bác phải kiên nhẫn và hứa sẽ ghi cho một tấm phiếu nhường lại cho bác ba con trong số năm con lừa của chàng ở nhà.

Nghe thấy vậy, Xantrô hết cả buồn phiền; bác lau nước mắt, ngừng khóc và cảm ơn Đôn Kihôtê về ân huệ đó.

Từ lúc vào trong núi, Đôn Kihôtê cảm thấy trong lòng khoan khoái, tin rằng nơi đây sẽ gặp nhiều cuộc phiêu lưu mạo hiểm mà chàng đang tìm kiếm. Chàng nhớ lại những sự việc kỳ diệu đã đến với những hiệp sĩ giang hồ ở những nơi hoang vu vắng vẻ như thế này; những ý nghĩ đó đã thu hút, lôi cuốn chàng khiến chàng quên hết sự đời. Từ lúc cảm thấy được núi rừng che chở, không sợ bị truy nã, Xantrô chỉ chăm chăm thỏa mãn cái bụng với số lương thực đã chiếm đoạt được của đám thầy tu. Bác đi sau chủ, vai thồ thay con lừa tất cả những vật dụng của hai người, tay thò vào túi lấy thức ăn nhét vào dạ dày. Đi như vậy sướng thật và bác sẽ không chịu mất nửa xu để đổi lấy bất cứ một cuộc phiêu lưu nào khác.

Bỗng bác ngước mắt lên, thấy chủ đang đứng lại lấy mũi giáo nâng một cái bọc ở dưới đất; bác bèn bước vội lên để xem chủ có sai bảo gì không. Lúc này, Đôn Kihôtê đã dùng mũi giáo nâng lên khỏi mặt đất một cái đệm và một chiếc rương buộc chằng vào nhau và đã rách bươm; vì cái đệm và chiếc rương quá nặng, Xantrô phải lấy tay đỡ. Thấy chủ bảo xem trong rương có gì, bác vội vã làm ngay. Chiếc rương có khóa nhưng vì đã rách nên qua những chỗ thủng nom thấy bên trong có bốn chiếc sơ mi bằng vải Hà Lan loại tốt cùng nhiều đồ may vá khác vừa đẹp vừa sạch, ngoài ra còn một chiếc khăn tay trong có một đống tiền vàng. Thấy vậy, Xantrô nói:

- Xin cảm tạ Thượng đế đã mang đến cho thầy trò ta một cuộc phiêu lưu mạo hiểm có lợi!

Tiếp tục cuộc lục lọi, bác tìm thấy một quyển lưu niệm đóng rất đẹp. Đôn Kihôtê bảo bác đưa cho quyển sách và cho bác tất cả số tiền. Xantrô hôn tay chủ cảm ơn, rồi bác vơ hết vải vóc nhét vào túi đeo của mình. Nhìn những hiện vật đó, Đôn Kihôtê nói:

- Xantrô, ta ngờ rằng (và chắc chắn không thể khác được) có một người khách nào định vượt qua núi, tới đây bị bọn cướp xông ra giết chết rồi vùi thây ở nơi vắng vẻ này.

- Không phải như vậy đâu, Xantrô đáp, vì nếu là bọn kẻ cướp, chắc chúng không bỏ tiền lại.

- Anh nói đúng; nếu vậy ta chịu, không đoán ra được chuyện gì. Nhưng hãy để xem trong quyển lưu niệm này có ghi gì không, ta sẽ có thể tìm ra những điều ta đang muốn biết.

Chàng giở sách, thấy có bản thảo một bài thơ, chữ viết nắn nót, bèn đọc cho Xantrô cùng nghe. Bài thơ như sau:

"Phải chăng vì tình yêu không có mắt hoặc tàn nhẫn, hay vì ta quá ư buồn phiền trước nỗi đau khổ có một không hai này?

Nhưng nếu tình yêu là một vị thần - điều này ai cũng biết - thần không khi nào độc ác; vậy ai đã mang đến cho ta nỗi khổ đau ghê gớm này?

Phili, ta sẽ nhầm nếu ta đổ lỗi cho nàng, vì một con người tốt đẹp không làm điều ác; và ta cũng không thể đổ tại Trời đã làm hại ta.

Ta phải chết, điều đó chắc chắn lắm rồi: một khi không biết nguyên nhân sự đau khổ, làm sao tìm được phương thuốc để ngăn ngừa".

Nghe xong, Xantrô nói:

- Bài thơ chẳng có nghĩa gì cả; may ra có chữ phin trong đó khiến ta có thể đoán rằng đây là chuyện về vải vóc gì chăng.

- Chữ phin nào kia? Đôn Kihôtê hỏi.

- Tôi chẳng vừa nghe thấy ngài đọc là gì!

- Ta vừa đọc Phili chứ; chắc đó là tên người đẹp mà tác giả nêu lên trong bài thơ này. Phải nói rằng nhà thơ này có tài đấy vì ta cũng biết đôi chút về văn thơ.

- Sao, ngài cũng biết làm thơ ư?

- Còn biết nhiều hơn anh tưởng kia. Anh sẽ thấy rõ điều đó khi nào anh mang thư của ta tới nàng Đulxinêa làng Tôbôxô, trong đó toàn là thơ hết. Xantrô, phải biết rằng thời trước, tất cả hoặc hầu hết các hiệp sĩ giang hồ đều là thi gia hoặc nhạc gia lớn. Chàng hiệp sĩ si tình nào cũng có hai tài năng chủ yếu đó, nói đúng hơn, đó là những ân huệ Trời ban cho. Có điều là thơ của các hiệp sĩ đời xưa có nội dung nhưng kém chải chuốt.

- Xin ngài đọc tiếp, Xantrô nói; có thể ta sẽ tìm ra manh mối chăng.

Đôn Kihôtê lật sang trang sau và nói:

- Đây là văn xuôi, hình như là một bức thư.

- Thư gì vậy, thưa ngài?

- Mới đọc đoạn đầu thấy có vẻ là thư tình.

- Nếu vậy, xin ngài đọc to lên, Xantrô nói; tôi rất thích nghe những chuyện tình tứ đó.

- Rất vui lòng.

Rồi, theo yêu cầu của Xantrô, Đôn Kihôtê đọc to:

"Lời hứa suông của nàng và nỗi bất hạnh không tránh khỏi của ta sẽ đưa ta đến một nơi từ đó không vọng tới tai nàng những lời than vãn của ta đâu mà trái lại sẽ vọng về tin tức về cái chết của ta. Hỡi con người phụ bạc đã lừa dối ta để đi theo một kẻ giàu sang hơn, nhưng không xứng đáng hơn ta. Nếu như đạo đức phẩm hạnh được coi là kho báu, ta sẽ không ham muốn hạnh phúc của kẻ khác và cũng sẽ không khóc than nỗi bất hạnh của ta. Nhan sắc của nàng tôn nàng lên nhưng hành động của nàng lại hạ thấp nàng xuống. Ta thờ phụng sắc đẹp của nàng bao nhiêu, ta khinh miệt việc làm của nàng bấy nhiêu. Chúc cho nàng bình an, hỡi con người đã gây đau khổ cho ta. Mong sao nàng không biết những sự lừa dối của chồng để khỏi phải hối hận về việc làm của mình. Ta không ước mong gì ở nàng nữa và ta không còn điều gì thù oán nàng cả".

Đọc xong bức thư, Đôn Kihôtê bảo Xantrô:

- Bức thư này càng không nói gì hết; có chăng chỉ đoán được rằng người viết là một kẻ bị phụ bạc.

Chàng lật hết cả quyển lưu niệm, thấy có một số bài thơ và bức thư khác, có cái đọc được, có cái đã mờ chữ. Tất cả nói lên sự trách móc, than vãn, phụ bạc, vui buồn, yêu đương, hờn ghét, khi ca ngợi, lúc khóc than. Trong lúc Đôn Kihôtê xem sách, Xantrô kiểm tra cái rương và cái đệm, lục soát không thiếu một khe kẽ nào, rạch cả các đường khâu, soi từng sợi dệt, không muốn vì bất cẩn sơ suất mà bỏ sót một vật gì. Của đáng tội, số tiền vàng trên một trăm đồng đã đánh thức lòng tham của bác, và tuy đã tìm kỹ mà không thấy gì thêm, bác coi tất cả những chuyện đã qua đều tốt lành, từ chuyện bị tung lên trời đến chuyện nôn mửa thuốc thần, bị roi vọt, ăn đấm của tên lái la, bị mất túi hai ngăn, lột áo, chịu đói, khát, khó nhọc, cực khổ trong khi hầu hạ Đôn Kihôtê. Bác nghĩ rằng số tiền vàng vừa tìm thấy và được chủ ban cho là một sự đền bù quá hậu hĩ.

Chàng hiệp sĩ Mặt Buồn rất muốn biết chủ nhân của chiếc rương là ai. Căn cứ vào bài thơ, bức thư, số tiền vàng và những chiếc áo sang trọng, chàng phỏng đoán người đó phải là một nhà thượng lưu, vì quá si tình và bị khinh miệt hắt hủi nên đã tự kết liễu cuộc đời. Nhưng ở chốn thâm sơn cùng cốc này, lấy ai để hỏi nên chàng đành bỏ qua chuyện đó và lại tiếp tục đi, mặc cho con Rôxinantê dẫn đường tùy theo ý thích của nó, hay nói đúng hơn là tùy theo khả năng sức lực của nó, đinh ninh sẽ gặp nhiều chuyện phiêu lưu mạo hiểm ở nơi hoang vu rậm rạp này.

Còn đang suy nghĩ, bỗng đâu trên đỉnh quả núi trước mặt thấy có một người thoăn thoắt chuyền từ hòn núi này sang hòn núi khác và từ bụi cây này sang bụi cây nọ. Người đó ở trần, râu đen và rậm, tóc dài và bù xù, chân đi đất, đùi hở, mặc độc một chiếc quần ngắn bằng da thú màu hung hung, rách lỗ chỗ, nom thấy cả thịt. Tuy người đó lướt qua rất nhanh nhưng chàng hiệp sĩ Mặt Buồn cũng đã nhận rõ những đặc điểm nói trên. Chàng định đuổi theo nhưng không kịp vì con Rôxinantê ốm yếu không đủ sức vượt qua những vách núi cheo leo, vả chăng nó vốn dĩ điềm đạm, bước chân lại quá ngắn. Đôn Kihôtê nghĩ ngay rằng đó là chủ nhân của chiếc rương và chàng quyết định đi tìm bằng được dù có phải lang thang suốt cả năm trên dãy núi này. Chàng bèn ra lệnh cho Xantrô đi một phía để chặng đường còn chàng đi một phía khác, hy vọng bằng cách đó sẽ bắt gặp con người vừa xuất hiện đã biến mất.

- Tôi không thể làm được việc đó, Xantrô nói, vì nếu rời ngài ra, sự sợ hãi sẽ đến ngay với tôi khiến cho tôi luôn luôn giật mình kinh hoảng. Tôi xin báo trước như vậy để từ nay về sau ngài đừng bắt tôi phải xa ngài nửa bước.

- Được thôi, hiệp sĩ Mặt Buồn đáp, và ta lấy làm hài lòng thấy anh đặt hết tin tưởng vào sự dũng cảm của ta. Nhưng anh cũng sẽ có can đảm, mặc dù thể xác anh thiếu linh hồn. Thôi, hãy đi theo ta, chậm hay nhanh tùy sức, và hãy nhìn cho kỹ. Chúng ta sẽ đi quanh những quả núi này, may ra sẽ gặp con người vừa rồi mà ta cam đoan là chủ nhân của chiếc rương kia.

- Tốt hơn cả là không nên đi tìm vì nếu ta tìm thấy người đó và nhỡ ra y lại là chủ nhân số tiền vàng thì tôi sẽ phải hoàn lại hết. Thôi, chả tội gì phải vội vàng; ta cứ nhẩn nha tìm kiếm; trong khi đó, tôi có thể ung dung giữ món tiền vàng cho tới lúc phát hiện ra người có của và nếu có tiêu hết tiền rồi mới thấy chủ nhân, chắc đức vua cũng sẽ đại xá cho.

- Xantrô, anh nhầm rồi. Một khi ta đã ngờ ngợ rằng người đó chính là chủ nhân món tiền vàng thì ta có nhiệm vụ phải tìm cho được để trao trả. Nếu ta không đi tìm thì dù chỉ mới ngờ ngợ, tội của chúng ta cũng sẽ nặng như thể chính người đó là chủ nhân thực sự vậy. Thôi, anh bạn Xantrô, hãy theo ta và chớ lấy thế làm phiền; riêng ta sẽ rất vui sướng nếu tìm thấy người đó.
Rồi Đôn Kihôtê thúc ngựa tiến lên; Xantrô đi bộ theo sau, nai lưng khuân vác đồ đạc vì tên Hinêx đê Paxamôntê đã đỡ nhẹ con lừa. Đi được gần hết một vòng quanh quả núi, thấy giữa dòng suối có xác một con la còn cả yên cương, nửa thân đã bị chó sói và quạ rỉa. Hai thầy trò càng tin rằng bóng người vừa thoáng hiện ra chính là chủ nhân con vật và chiếc rương.

Hai thầy trò còn đang xem xét bỗng đâu có một tiếng rít như tiếng còi của những người chăn gia súc; cùng lúc, bên phía tay trái hiện ra một đàn dê và ở phía sau, tít trên mỏm núi có một ông lão chăn dê. Đôn Kihôtê cất tiếng gọi; lão chăn dê cao giọng đáp:

- Ai đưa các người đến chốn này? Ở đây chỉ có vết chân dê, chó sói và các loài thú dữ khác mà thôi.

Xantrô cũng kêu ông lão xuống, hứa sẽ hậu đãi. Ông lão chăn dê bèn xuống núi; khi đã tới gần Đôn Kihôtê, lão nói:

- Tôi đánh cược rằng ngài đang nhìn con la thuê chết trong cái khe kia. Đúng là nó đã nằm đấy từ sáu tháng nay. Xin hỏi các ngài có gặp chủ nó đâu không?

- Chẳng gặp ai cả, Đôn Kihôtê đáp; chỉ thấy một cái đệm và một chiếc rương ở cách đây không xa.

- Tôi cũng đã thấy những vật đó, ông lão chăn dê nói, nhưng tôi không dám lại gần và cũng chẳng dám sờ mó sợ xúi quẩy và bị đổ cho tội ăn cắp. Phải biết rằng loài yêu quái ranh mãnh lắm, nó làm cho ta bị vướng cẳng ngã quay lơ mà không biết vì sao.

- Tôi cũng bảo thế đấy, Xantrô lên tiếng; chính tôi cũng trông thấy những vật đó nhưng tôi đã lánh xa, để nguyên không đụng tới, e lợi bất cập hại.

- Chẳng hay bác có biết chủ nhân của những vật đó là ai không? Đôn Kihôtê hỏi.

Ông lão chăn dê đáp:

- Tôi chỉ có thể kể lại với ngài rằng chừng sáu tháng trước đây, có một chàng thanh niên khôi ngô tuấn tú đến khu lều của những người chăn dê chúng tôi ở cách đây khoảng ba dặm. Chính anh ta cưỡi con la này và là chủ nhân của chiếc rương và cái đệm mà các ngài đã trông thấy và không dám đụng tới. Anh ta hỏi chúng tôi chỗ nào hiểm trở và khuất nhất trên dãy núi Môrêna. Chúng tôi chỉ vào chỗ ta đang đứng đây; quả thật như vậy vì nếu các ngài đi sâu vào chừng nửa dặm nữa, chắc chắn sẽ không tìm được lối ra. Tôi cũng lấy làm lạ không hiểu các ngài làm thế nào đến được đây vì làm gì có đường lối mà đi. Sau đó, chàng thanh niên quay lại đi về phía chúng tôi chỉ; bọn chúng tôi đều tấm tắc khen anh ta xinh trai, đồng thời cũng ngạc nhiên về câu hỏi và thái độ hối hả của anh ta khi đi vào núi. Trong mấy ngày liền, không ai thấy chàng thanh niên ấy đâu; cho tới một hôm, anh ta chặn đường đấm đá túi bụi một người chăn dê trong bọn chúng tôi, tới chỗ con lừa chở lương thực lấy hết cả bánh mì, phó mát, rồi nhanh như cắt chuồn thẳng vào núi. Khi biết chuyện, tôi và một số những người chăn dê khác bèn sục vào trong núi sâu tìm kiếm gần hai ngày liền, cuối cùng thấy anh ta nấp trong hốc một cây sồi điển điển to và chắc. Anh ta ra khỏi chỗ nấp, khoan thai đi lại phía chúng tôi. Áo quần anh ta đã rách tả tơi, mặt mày sém nắng nom khác hẳn, không nhận ra được nữa; cũng may chúng tôi còn nhớ bộ quần áo tuy nó đã rách, nên mới nhận ra đó là con người chúng tôi đang đi tìm. Anh ta lễ phép chào chúng tôi và bằng lời lẽ ngắn gọn, bảo chúng tôi không nên ngạc nhiên trước cách ăn ở của anh vì anh đang chịu đựng một hình phạt để chuộc những lỗi lầm cũ. Chúng tôi yêu cầu cho biết anh là ai nhưng anh ta không chịu nói. Chúng tôi còn hỏi chỗ ở của anh ta để khi nào anh ta có cần lương ăn để sống, chúng tôi sẽ vui lòng mang đến tận nơi; nếu như anh không muốn phiền, xin cứ việc tìm đến chỗ chúng tôi mà hỏi, không nên giở vũ lực chiếm đoạt. Anh ta cảm ơn sự giúp đỡ của chúng tôi, xin lỗi về những hành động thô bạo đã qua và hứa từ nay về sau sẽ hỏi xin tử tế, không dám dùng vũ lực với bất cứ ai; về chỗ ở, anh ta bảo không có một chỗ nào nhất định, đêm đến tiện đâu ngủ đấy. Nói xong, anh ta khóc lóc thảm thiết; nghe anh ta khóc, họa chăng có là đá mới không khóc theo vì hình dạng anh lần này khác hẳn lần trước. Như tôi đã nói, anh ta trẻ trung, khôi ngô, tuấn tú, nói năng lễ phép, lịch sự, có gia giáo, ngay những người quê mùa cục mịch như chúng tôi cũng phải nhận ra. Thế rồi, đang câu chuyện, bỗng dưng anh ta ngừng lời im bặt, mắt nhìn trừng trừng xuống đất hồi lâu. Mọi người chúng tôi đều sửng sốt, không hiểu trạng thái mê loạn này của anh ta sẽ kết thúc ra sao, trong lòng vô cùng thương xót. Thấy anh ta lúc thì mắt dán xuống đất không chớp, lúc nhắm nghiền, môi mím chặt, đôi mày nhíu lại, chúng tôi đoán ngay anh ta đang lên cơn điên. Ngay sau đó, điều dự đoán của chúng tôi đã được chứng minh: anh ta đùng đùng vùng dậy, hùng hổ xông tới một người đứng gần nhất, vừa đánh vừa kêu: "Hỡi tên phản bội Phernanđô! Mi sẽ phải đền tội ngay tại đây vì đã làm hại ta; hai bàn tay này sẽ moi tim mi ra, một quả tim chứa đựng toàn những điều bất chính, nhất là sự gian lận và sự phản bội". Anh ta còn nói nhiều, kể tội Phernanđô, kêu là đồ phản trắc. Chúng tôi phải vất vả lắm mới gỡ được hai người ra, nếu không chắc anh ta đã đấm và cắn chết người kia rồi. Sau đó, anh ta chạy biến vào rừng núi rậm rì không ai theo kịp. Chúng tôi đoán rằng anh ta thỉnh thoảng lại lên một cơn điên, và có một người nào đó tên là Phernanđô đã có hành động rất xấu đối với anh khiến anh phát điên như vậy. Điều phỏng đoán của chúng tôi đã được chứng minh rõ ràng vì sau đó, có lần anh ta tìm đến chúng tôi xin ăn tử tế, nhưng lần khác thì lại dùng vũ lực cướp đoạt. Lúc anh ta lên cơn điên thì dù chúng tôi có mời chào, anh ta cũng vẫn giở vũ lực, nhưng khi đầu óc tỉnh táo, anh nói năng lễ phép lịch sự, và khi được chúng tôi cho ăn, anh ta cảm ơn và còn khóc nữa. Thưa hai ngài, ông lão chăn dê nói tiếp, mới ngày hôm qua, tôi và bốn người chăn dê trẻ, trong đó có hai người làm thuê cho tôi và hai người bạn tôi, đã quyết định đi tìm anh ta bằng được và sau đó dù anh ta muốn hay không, sẽ đưa đến tỉnh Almôđôvar cách đây tám dặm để thuốc thang xem có khỏi không; ít ra chúng tôi cũng sẽ biết được anh ta là ai, bao giờ trở lại tỉnh táo và có họ hàng thân thích không để còn báo tin. Như vậy là tôi đã trả lời câu hỏi của các ngài; xin thưa thêm rằng chủ nhân của chiếc rương và cái đệm chính là con người mặc chiếc quần ngắn da thú, chuyền thoăn thoắt từ quả núi nọ sang quả núi kia như các ngài vừa tả lúc nãy.

Nghe ông lão chăn dê kể, Đôn Kihôtê lấy làm ngạc nhiên lắm và lại càng muốn biết kẻ bất hạnh kia là ai; chàng quyết tâm thực hiện ý định của mình, sẽ đi khắp dãy núi này, mò vào từng hang hốc để tìm bằng được. Nhưng chàng không ngờ và cũng không nghĩ rằng thần May rủi đã tới giúp chàng: ngay lúc đó hiện ra giữa hẻm núi trước mặt người thanh niên mà chàng đang tìm kiếm; con người đó vừa đi vừa nói lẩm bẩm, rất nhỏ, có đứng gần cũng chẳng nghe rõ. Cách ăn mặc của anh ta cũng giống như đã tả ở trên, nhưng khi anh ta lại gần, Đôn Kihôtê nhận thấy trên người còn có một cái áo khoác bằng da thú đắt tiền, tuy đã tả tơi nhưng còn thơm mùi long diên; chàng càng tin rằng một con người dùng đồ sang trọng như vậy không thể nào là thường dân được.

Khi đã tới gần mọi người, chàng thanh niên chào bằng một giọng khàn khàn khó nghe nhưng với thái độ rất lịch sự. Đôn Kihôtê cũng lịch sự đáp lễ, rồi chàng xuống ngựa chạy lại ôm hôn anh ta một cách thân mật niềm nở, ghì mãi trong lòng như thể đã quen biết nhau từ lâu. Đợi cho Đôn Kihôtê ôm hôn xong, chàng thanh niên - chúng ta hãy đặt tên cho anh là chàng Rách Rưới Mặt Xấu (cũng như đã gọi Đôn Kihôtê là chàng hiệp sĩ Mặt Buồn) - lùi lại một chút, để tay lên vai Đôn Kihôtê rồi nhìn thẳng vào chàng như để nhận mặt. Cũng như Đôn Kihôtê ngạc nhiên trước hình dạng của chàng Rách Rưới, anh này cũng không kém phần sửng sốt khi thấy mặt mũi, thân hình và những vũ khí của chàng hiệp sĩ. Cuối cùng, người lên tiếng đầu tiên là chàng Rách Rưới, như sẽ kể dưới đây.

--------------------------------
1Đội Xanta Ermanđát dùng cung tên để xử tử các phạm nhân.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes

Chương XXIV

TIẾP TỤC CÂU CHUYỆN TRÊN NÚI MÔRÊNA


Sách kể lại rằng Đôn Kihôtê đã để hết tâm trí nghe hiệp sĩ Sơn Lâm kể; hiệp sĩ Sơn Lâm mở đầu như sau:

- Thưa ngài, tôi không được biết ngài, nhưng dù ngài là ai, tôi cũng xin cảm tạ tấm thịnh tình của ngài đối với tôi, và tôi rất muốn ở trong một hoàn cảnh khác để đền đáp sự đón tiếp ân cần của ngài. Tiếc rằng số phận tôi hẩm hiu cho nên đối với những ai làm ơn cho tôi, tôi chỉ có tấm lòng đáp lại mà thôi.

- Với lòng mong muốn được giúp đỡ ngài, Đôn Kihôtê đáp, tôi đã quyết định chỉ rời khỏi chốn này sau khi tìm thấy ngài để xem có phương thuốc nào giúp ngài thoát khỏi nỗi đau buồn khiến ngài đã phải chịu một cuộc sống lạ lùng như vậy; và nếu cần phải tìm phương thuốc đó, ta sẽ bắt tay vào làm ngay. Còn nếu như nỗi đau khổ của ngài khôn bề khuây khỏa, tôi sẽ là người cùng ngài chia sẻ, cùng ngài khóc than; ở đời, gặp được người tâm đắc thì nỗi buồn cũng vợi được đôi phần. Nếu những ý định tốt đẹp của tôi xứng đáng được hưởng một sự đền đáp nhiệt tình, tôi cầu mong, van xin ngài hãy vì con người mà ngài yêu quý nhất đời, cho tôi được biết ngài là ai và nguyên nhân nào đã bắt ngài phải sống và chết như một con vật vô tri vô giác ở chốn hoang vu này, một nơi rất xa lạ với bản thân và đồ trang phục của ngài. Tôi tuy tài thô đức thiển nhưng cũng xin lấy danh dự của giới hiệp sĩ và của một hiệp sĩ giang hồ thề rằng nếu ngài nhận lời cho, tôi sẽ mang hết sức lực của một người như tôi ra phụng sự ngài để làm tiêu tan nỗi đau khổ của ngài nếu có cách nào làm được, hoặc để cùng ngài chia sẻ nỗi buồn thương như tôi đã hứa.

Trong lúc đó, hiệp sĩ Sơn Lâm lặng yên nhìn hiệp sĩ Mặt Buồn suốt từ đầu đến chân bằng con mắt tò mò. Sau khi đã nhìn hồi lâu, chàng mới lên tiếng:

- Nếu các ngài có gì cho tôi ăn, xin hãy vì Chúa mang ra cho tôi ngay; ăn xong, tôi sẽ xin kể tường tận để đền đáp tấm thịnh tình của các ngài.

Xantrô và ông lão chăn dê liền lấy lương thực trong túi đưa cho chàng Rách Rưới. Đang cơn đói lòng, chàng ta vồ lấy ăn ngấu nghiến, miếng trước chưa xong đã bỏ miếng sau vào mồm nuốt chửng không kịp nhai. Trong khi đó, không ai nói với ai một lời. Ăn xong, chàng ra hiệu bảo mọi người đi theo rồi dẫn họ vòng qua một quả núi đến một bãi cỏ xanh tươi; chàng nằm xuống và mọi người yên lặng làm theo; sau khi đã nằm yên chỗ, chàng Rách Rưới bắt đầu:

- Thưa các ngài, nếu các ngài muốn tôi kể vắn tắt nỗi đau khổ vô bờ bến của tôi, xin hãy hứa không ngắt quãng câu chuyện buồn thảm này bằng bất cứ một câu hỏi hay một cử chỉ gì, bởi vì nếu các ngài làm như vậy thì câu chuyện của tôi cũng sẽ phải ngừng lại tại đó.

Câu nói của chàng Rách Rưới khiến Đôn Kihôtê nhớ lại câu chuyện bỏ dở của Xantrô chỉ vì không nhớ số lượng những con dê đã được đưa qua sông. Chàng Rách Rưới nói tiếp:

- Tôi không muốn kéo dài câu chuyện về những nỗi bất hạnh của tôi nên phải dặn trước như vậy bởi vì nhắc tới bao nhiêu chỉ thêm đau lòng bấy nhiêu, cho nên nếu các ngài không hỏi nhiều thì tôi sẽ chóng kể xong. Tuy nhiên, để thỏa mãn yêu cầu của các ngài, tôi sẽ không bỏ qua những sự việc quan trọng.

Thay mặt cho mọi người, Đôn Kihôtê hứa sẽ làm đúng. Yên tâm, chàng Rách Rưới bắt đầu kể câu chuyện như sau:

- Tôi tên là Carđêniô, quê tại một trong những tỉnh lớn nhất miền Anđaluxia; tôi thuộc dòng dõi quý tộc và cha mẹ tôi giàu có. Nhưng giàu sang phú quý đã không làm giảm nhẹ nỗi bất hạnh quá to lớn của tôi, và cha mẹ, gia đình tôi chỉ còn biết khóc than chịu đựng. Thật vậy, trước những tai họa từ trên trời rơi xuống, tiền tài cũng không cứu vãn nổi. Trong tỉnh tôi có một giai nhân tuyệt thế, mọi điều hoàn hảo, đó là nàng Luxinđa cũng thuộc một gia đình quý tộc và giàu có; cô ta may mắn hơn tôi nhưng về mặt thủy chung thì không xứng đáng với những tình cảm của tôi. Từ khi mới lớn, tôi đã yêu Luxinđa, yêu say đắm; nàng cũng yêu tôi với tất cả sự ngây thơ trong trắng của tuổi trẻ. Cha mẹ đôi bên đều biết chuyện và cũng thấy không có điều gì trở ngại; các cụ nghĩ rằng rồi ra câu chuyện sẽ kết thúc bằng một cuộc hôn nhân vì xem ra đôi bên đều môn đăng hộ đối. Càng lớn, tình yêu giữa hai chúng tôi càng đằm thắm. Theo phép, cha Luxinđa buộc lòng phải bảo tôi không được lui tới gia đình, bắt chước cha mẹ nàng Tixbê được các nhà thơ ca ngợi. Chính sự ngăn cấm đó đã khiến cho ngọn lửa tình ái càng bùng lên. Cha mẹ nàng không cho chúng tôi gặp nhau chuyện trò thì chúng tôi trao đổi tâm tình bằng thư từ, và trong thư chúng tôi có thể tự do thổ lộ những tình cảm thầm kín nhất mà nhiều khi đứng trước người yêu, một con người mạnh dạn nhất cũng không dám bộc lộ ra. Lạy Chúa, tôi đã gửi cho nàng không biết bao nhiêu lá thư và đã nhận được những lời phúc đáp đầy chân tình trìu mến. Tôi đã soạn những bài ca, những vần thơ tình tứ để nói lên những cảm xúc, khát vọng, nhớ nhung, mong muốn. Tôi khát khao được gặp mặt nàng và cuối cùng, tôi quyết định giành bằng được phần thưởng mà tôi xứng đáng được hưởng, đó là xin với cha nàng gả nàng cho tôi làm vợ. Cha nàng trả lời là gia đình lấy làm vinh dự về lời cầu hôn của tôi và cũng sẵn sàng nhận nhưng vì cha tôi còn sống nên cần có lời của người, còn nếu như cha tôi còn có điều gì không tán thành ưng thuận thì Luxinđa không phải hạng người gả bán dấm dúi. Tôi ngỏ lời cảm ơn thiện chí của cha nàng, nghĩ rằng ông ta nói có lý, chắc mẩm cha tôi sẽ chấp thuận yêu cầu của tôi. Nghĩ vậy, tôi liền đi gặp cha tôi để trình bày. Khi tôi bước vào phòng cha tôi thì thấy người đang cầm trong tay một bức thư; tôi chưa kịp nói gì, cha tôi đã chìa ra và bảo: "Carđêniô, đọc thư này, con sẽ thấy công tước Ricarđô muốn làm điều tốt cho con". Chắc các ngài cũng biết tiếng vị công tước này; ông ta là một đại thần ở Tây Ban Nha, có một dinh cơ lớn nhất miền Anđaluxia. Tôi đỡ lấy bức thư và đọc, thấy lời lẽ rất thắm thiết khiến ngay bản thân tôi cũng nghĩ rằng cha tôi không thể nào từ chối yêu cầu trong thư được. Số là ngài Ricarđô yêu cầu cha tôi cho tôi lên ở với ngài vì ngài muốn tôi đánh bạn với con trai cả của ngài và sau đó, sẽ cất nhắc tôi lên một địa vị tương xứng với sự ái mộ của ngài đối với tôi. Đọc xong thư, tôi lặng người, nhất là khi nghe cha tôi nói: "Carđêniô, trong hai ngày nữa con sẽ lên đường để làm đẹp lòng công tước Ricarđô, và hãy cảm ơn Chúa đã mở cho con con đường công danh mà con xứng đáng được hưởng". Cha tôi còn dặn dò nhiều điều khác nữa. Ngày ra đi đã tới. Đêm trước, tôi gặp Luxinđa và kể hết cho nàng nghe; sau đó, tôi tìm đến cha nàng để nói lại, cầu xin cha nàng hãy thư cho dăm bữa, đừng hứa hôn với ai cho tới khi tôi biết được ý định của công tước Ricarđô. Ông ta hứa sẽ làm theo yêu cầu của tôi; Luxinđa cũng nặng lời thề thốt sẽ chờ tôi. Sau đó, tôi đi gặp công tước Ricarđô; tôi được ngài tiếp đãi rất nồng hậu ân cần đến nỗi gia nhân trong nhà phải ghen tức vì sợ tôi tranh mất phần của họ. Nhưng sự có mặt của tôi làm cho một người vui sướng nhất, đó là con thứ của ngài công tước, tên là Đôn Phernanđô, một con người đẹp trai, lịch thiệp, rộng rãi và đa tình. Y rất muốn kết thân với tôi khiến mọi người đều bàn tán. Tuy người con trưởng của ngài Ricarđô cũng rất quý mến và hậu đãi tôi nhưng Phernanđô còn tỏ ra quý mến tôi hơn. Giữa bạn bè với nhau thường không có điều gì giấu giếm, vả chăng quan hệ giữa tôi với Đôn Phernanđô đã trở thành tình bằng hữu cho nên có chuyện gì Phernanđô cũng tâm sự với tôi, trong đó có một chuyện yêu đương khiến y phải vấn vương. Y yêu một cô thôn nữ sống dưới quyền cai trị của cha y; bố mẹ cô rất giàu có, bản thân cô vừa xinh đẹp, vừa nhũn nhặn, khôn ngoan, nết na khiến cho bà con xung quanh không biết trong những ưu điểm đó của cô, cái gì trội hơn cả. Cô gái quê vừa đẹp người vừa đẹp nết này đã làm cho Đôn Phernanđô mê mẩn và cuối cùng, sau khi đã dùng hết cách không xong, y định tâm hứa bừa sẽ cưới làm vợ, những mong chinh phục trái tim và thể xác cô gái. Vì tình bạn, tôi dùng hết lời và đưa ra nhiều ví dụ trong cuộc sống để khuyên ngăn y. Thấy vô hiệu, tôi định bụng sẽ thưa lại chuyện này với cha y là công tước Ricarđô. Vốn tinh khôn, Đôn Phernanđô đoán được ý định của tôi vì y nghĩ rằng tôi hầu hạ công tước, tất không che đậy những việc làm có phương hại đến danh dự của ngài. Để lừa cho tôi quên chuyện đó, y bảo tôi: "Muốn quên được hình ảnh con người đẹp đã ám ảnh tâm trí tôi, cách tốt nhất là hãy đi xa nơi này vài tháng. Bởi vậy, tôi muốn chúng ta trở về nhà cha anh. Tôi sẽ thưa với công tước cha tôi rằng tôi muốn đi tìm mua mấy con ngựa ở tỉnh anh là nơi có giống ngựa hay nhất thế giới". Nghe y nói, tôi thấy thương hại, và tuy ý kiến của y không hay lắm, tôi coi như là diệu kế vì tôi sẽ có dịp gặp lại nàng Luxinđa của tôi. Với ý nghĩ và mong muốn riêng như vậy, tôi ưng thuận ngay và còn tán dương thêm; tôi khuyên y thực hiện càng sớm càng tốt vì sự xa cách nhất định sẽ có tác dụng, dù tình cảm con người ta mãnh liệt đến mấy. Về sau này tôi mới vỡ lẽ ra rằng khi Đôn Phernanđô nói với tôi điều đó, y đã lợi dụng được cô gái quê bằng cách hứa hẹn sẽ lấy cô ta làm vợ, và lúc này y đang mưu toan lẩn tránh, e tới khi ngài công tước biết chuyện bậy bạ đó thì sẽ trừng phạt y. Thói thường, trong số đông thanh niên, tình yêu chỉ là sự thèm muốn, mục đích cuối cùng là sự khoái lạc, và một khi đã được thỏa mãn thì sự thèm muốn cũng không còn nữa, còn tình yêu chân chính không như vậy. Thế là sau khi Đôn Phernanđô đã lợi dụng được cô thôn nữ, những khát vọng ao ước của y cũng nhạt dần. Nếu trước kia y làm ra vẻ muốn đi xa để quên cô ta thì lúc này y muốn ra đi thực sự để khỏi phải thực hiện những lời đã hứa. Ngài công tước cho phép và bảo tôi đi cùng với y. Hai đứa trở về tỉnh tôi. Vì là con của ngài Ricarđô nên y được cha tôi đón tiếp rất long trọng. Sau đó, tôi gặp lại Luxinđa; tôi vẫn yêu nàng vì tình cảm của tôi đối với nàng vẫn như trước. Hại thay, tôi đã kể hết nỗi lòng với Đôn Phernanđô, nghĩ rằng y đã tâm sự với tôi trên tình bạn thì tôi cũng không được giấu giếm điều gì. Tôi không tiếc lời ca ngợi nhan sắc kiều diễm và trí tuệ của Luxinđa khiến cho y nảy ra ý muốn xem mặt một người đức tài như vậy. Thật vô phúc cho tôi đã nhận lời. Một đêm, tôi dẫn y tới bên cửa sổ, nơi Luxinđa và tôi vẫn thường hẹn hò với nhau; trong phòng Luxinđa thắp một ngọn nến và y đã nhìn thấy nàng khoác một cái áo choàng. Từ phút đó, y không còn nhớ tới một người đẹp nào mà y đã gặp trước kia. Y như câm như dại, rồi đâm ra phải lòng Luxinđa như các ngài sẽ thấy trong quá trình câu chuyện bất hạnh này của tôi. Rủi thay, ngọn lửa trong lòng y (mà y giấu tôi, chỉ có Trời biết) càng bốc cao vì một hôm, y bắt được bức thư của Luxinđa viết cho tôi nhắn đến gặp cha nàng để xin cưới. Lời lẽ trong thư thật tế nhị, chân thật và tình tứ khiến Phernanđô phải thốt ra rằng riêng nhan sắc và trí tuệ của Luxinđa bằng tất cả các cô gái khác trên đời gộp lại. Thú thật, tuy lúc đó tôi thấy những lời ca tụng của Đôn Phernanđô rất đúng nhưng cũng có cảm giác khó chịu khi nghe y nói. Tôi bắt đầu e ngại và nghi ngờ vì lúc nào y cũng nhắc tới Luxinđa, tìm mọi cách để lái câu chuyện xoay quanh nàng. Tôi nảy ra ý nghĩ ghen tuông; tôi không hề lo ngại rằng Luxinđa có thể thay lòng đổi dạ nhưng số mệnh đã bắt tôi phải lo sợ điều chẳng lành sẽ đến với tôi. Trong khi đó, Đôn Phernanđô vẫn tìm cách đọc những bức thư của tôi và của Luxinđa, viện lý rằng những lời lẽ trong thư của chúng tôi làm y thích thú. Có một hôm, Luxinđa hỏi mượn tôi một cuốn sách kiếm hiệp mà nàng rất thích đọc là quyển Amađix nước Gôlơ.

Nghe nhắc đến tên quyển sách kiếm hiệp đó, Đôn Kihôtê vội nói:

- Ví thử ngài kể ngay từ đầu câu chuyện rằng nàng Luxinđa mê đọc truyện kiếm hiệp, chắc chắn không cần ngài phải ca ngợi nhiều tôi cũng có thể biết được nàng là một con người thông minh tuyệt vời, bởi vì nàng không thể nào tốt đẹp như ngài đã tả nếu không ham thích loại sách đó. Đối với tôi, không cần phải dùng nhiều lời để giới thiệu nhan sắc, đức hạnh và trí tuệ của nàng; chỉ cần cho biết sở thích của nàng, tôi có thể công nhận ngay là một người đàn bà xinh đẹp và hiểu biết nhất đời. Tuy nhiên, thưa ngài, tôi mong ngài gửi kèm theo quyển Đôn Ruhêl nước Hy Lạp; tôi chắc rằng nàng sẽ rất thích hai nhân vật Đaraiđa và Garaia cùng chàng chăn cừu Đarinel và những câu thơ ca ngợi cảnh đồng nội mà chàng đã soạn ra và ngâm một cách rất duyên dáng, tự nhiên. Nhưng sẽ có ngày để sửa sai và ngày đó không xa nếu ngài vui lòng rời gót về quê tôi; ở đó, tôi có thể tặng ngài hơn ba trăm cuốn sách là món ăn dinh dưỡng tinh thần và cả cuộc đời của tôi. Tuy nhiên, hình như tôi không còn một cuốn nào vì lũ pháp sư độc ác và xấu bụng đã đốt hết của tôi rồi. Tôi cũng xin ngài tha lỗi vì tôi đã không giữ đúng lời hứa và đã ngắt quãng câu chuyện của ngài; mỗi khi nghe ai nhắc tới những chuyện phiêu lưu kiếm hiệp và hiệp sĩ giang hồ, nếu tôi không góp được một vài câu thì thật chẳng khác gì ánh sáng mặt trời không tỏa được nhiệt lượng hoặc ánh sáng mặt trăng không phát ra được khí ẩm 1. Thôi, tôi xin lỗi và mong ngài hãy kể tiếp vì đoạn này mới là quan trọng.

Trong lúc Đôn Kihôtê nói, Carđêniô gục đầu xuống ngực có vẻ suy nghĩ lung lắm. Hai lần Đôn Kihôtê nhắc chàng kể tiếp mà chàng vẫn không ngửng đầu và cũng không đáp. Một lúc lâu, chàng ngồi thẳng người lên và nói:

- Có một điều tôi vẫn để trong bụng, không ai có thể gỡ ra được hoặc làm cho tôi thay đổi ý kiến và kẻ nào nghĩ ngược lại là đồ ngốc, đó là việc lão thầy thuốc đốn mạt Êlixabát đã lấy bà hoàng Mađaxima làm nàng hầu.

- Không phải thế! Đôn Kihôtê nổi nóng đáp (chàng vẫn hay phát khùng như vậy); nói thế là sai, là láo. Thực ra bà hoàng Mađaxima là một con người rất đứng đắn, không thể nói một mệnh phụ cao quý như vậy lại đi làm lẽ một anh thầy thuốc quèn. Kẻ nào nghĩ khác chỉ là một tên súc sinh nói láo và ta sẽ cho biết tay dù đánh nhau bằng ngựa hay không có ngựa, dù có vũ khí hay tay không, dù ngày hay đêm, hay bằng cách nào khác cũng được.

Bỗng dưng, Carđêniô nhìn trừng trừng vào Đôn Kihôtê; lúc này, cơn điên của chàng tái phát và chàng không còn tỉnh táo để kể tiếp câu chuyện. Đôn Kihôtê cũng chẳng còn tai nào để nghe nữa vì còn đang bực mình về việc bà hoàng Mađaxima bị xúc phạm. Kể cũng lạ, chàng bênh bà Mađaxima như thể bà chính là tình nương của chàng vậy; đó chẳng qua cũng do ảnh hưởng của những cuốn kiếm hiệp chết tiệt. Lại nói về Carđêniô lúc này đã bắt đầu lên cơn điên, lại bị Đôn Kihôtê xỉ vả là đồ súc sinh nói láo, cùng những lời lẽ thậm tệ khác, chàng không nhịn được nữa, nhặt ngay một hòn đá to dang thẳng cánh ném vào giữa ngực hiệp sĩ Mặt Buồn khiến chàng ngã ngửa ra đất. Thấy chủ bị đòn đau, Xantrô Panxa hùng hổ xông vào chàng Rách Rưới, bị thoi luôn một quả như trời giáng, ngã lăn quay; anh chàng điên còn nhảy lên người bác, nhè xương sườn mà dần thích chân; ông lão chăn dê định chạy lại cứu Xantrô cũng bị một trận nhừ tử. Sau khi đánh quỵ cả ba người, chàng Rách Rưới bỏ mặc họ, ung dung rút lui vào núi... Lúc này Xantrô đã đứng dậy được; thấy mình bị đòn oan, bác phát khùng quay sang vặc với ông lão chăn dê, trách sao không cho biết trước rằng Carđêniô thường lên cơn điên, để cho thầy trò bác còn liệu đề phòng. Ông lão đáp: "Tôi đã dặn rồi, nếu anh không nghe thấy thì lỗi đâu phải tại tôi". Lời qua tiếng lại, hai bên đi đến chỗ túm râu và thụi nhau. Cũng may có Đôn Kihôtê can nếu không họ sẽ đánh nhau tan xương. Xantrô vừa nắm chặt tay ông lão chăn dê, vừa nói:

- Xin ngài hiệp sĩ Mặt Buồn cứ để mặc tôi. Lão này cũng thân phận hèn kém như tôi và cũng chưa được phong tước hiệp sĩ, cho nên tôi có thể được tự do rửa mối nhục, đánh nhau tay đôi, diện đối diện một cách đàng hoàng.

- Đúng vậy, Đôn Kihôtê đáp, nhưng ta biết rằng ông lão không có lỗi gì về việc mới xảy ra.

Sau khi đã dàn xếp đôi bên, Đôn Kihôtê hỏi ông lão chăn dê có cách gì để tìm được Carđêniô vì chàng rất muốn biết câu chuyện kết thúc ra sao. Ông lão nhắc lại là không biết Carđêniô ở chỗ nào nhưng nếu cứ tiếp tục đi tìm khắp dãy núi Môrêna, chắc sẽ gặp lại con người đó, hoặc tỉnh hoặc điên.


--------------------------------
1Dưới thời Xervantêx, người ta cho rằng mặt trăng phát ra khí ẩm.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes


Chương XXV

HIỆP SĨ DŨNG CẲM XỨ MANTRA ĐÃ GẶP NHỮNG CHUYỆN KỲ LẠ TRÊN NÚI MÔRÊNA, SAU ĐÓ TỰ HÀNH PHẠT THEO KIỂU CỦA CHÀNG BELTÊNÊBRÔX.



Đôn Kihôtê từ biệt ông lão chăn dê, nhảy lên con Rôxinantê và bảo giám mã đi theo; cực chẳng đã, Xantrô đành leo lên con lừa của mình 1, rồi hai thầy trò đi sâu vào trong núi. Xantrô muốn nói chuyện với chủ quá nhưng không dám vì đã bị Đôn Kihôtê cấm; bác chỉ mong sao chủ mở đầu trước. Cuối cùng, không chịu được sự yên lặng, bác lên tiếng:

- Thưa ngài Đôn Kihôtê, mong rằng ngài rủ lòng thương cho phép tôi nghỉ việc. Tôi muốn quay về nhà với vợ con tôi để được tự do chuyện trò; bắt tôi ngày đêm theo hầu ngài ở những nơi vắng vẻ này, muốn nói không được nói, có khác nào đem chôn sống tôi đi. Ví phỏng loài vật kia biết nói như dưới thời Ghixôpêtê thì còn đỡ vì khi nào cần, tôi có thể nói với con lừa của tôi cho khuây khỏa nỗi buồn. Thật là gay go không chịu nổi vì cả đời đi tìm kiếm những chuyện phiêu lưu mạo hiểm mà chẳng thấy đâu, chỉ thấy đấm đá, gậy gộc và bị tung lên vật xuống mà thôi; đã thế, còn phải khâu mồm lại, không được thổ lộ can tràng, khác nào một người câm.

- Xantrô, ta hiểu rồi, Đôn Kihôtê nói; anh muốn ta bãi bỏ cái mệnh lệnh mà ta đã ấn vào lưỡi anh chứ gì. Thôi được, cứ coi như lệnh đã được hủy và hãy nói đi với điều kiện là chỉ được phép nói chừng nào chúng ta còn ở trên dãy núi này.

- Được phép nói thì cứ nói đã, Xantrô đáp, còn sau này ra sao, có Chúa biết mà thôi. Bây giờ, để bắt đầu tôi xin hỏi ngài: tại sao ngài phải quan tâm quá mức đến cái bà hoàng Mahimaxa nào đó? Và việc cái lão nào lấy bà ta làm lẽ hay không có liên quan gì tới ngài? Ngài có là ông quan tòa đâu, và nếu ngài đừng nêu ra, chắc rằng anh chàng điên kia đã kể tiếp câu chuyện, ngài không bị quẳng đá vào ngực, và tôi cũng không đến nỗi bị bao nhiêu đấm đá vào người.

- Xantrô, thực ra nếu anh cũng biết như ta rằng bà hoàng Mađaxima là một người rất đứng đắn đoan trang, ta nghĩ rằng anh sẽ phải công nhận là ta đã quá kiên nhẫn không vả vỡ mồm tên nói láo. Thật là một sự phỉ báng khi nghĩ và nói rằng một bà hoàng lấy lẽ một thầy thuốc. Sự thật câu chuyện đó như sau: Êlixabát mà anh chàng điên kia nhắc tới, vốn rất thận trọng và khôn ngoan, cho nên ông ta vừa là quân sư vừa là thầy thuốc của bà hoàng. Nghĩ rằng bà ta lăng nhăng với ông thầy thuốc là bậy, là có tội. Tuy nhiên trong khi nói, Carđêniô không hiểu mình nói gì; ta cần phải nhận rằng lúc đó anh ta đã bắt đầu mất trí.

- Tôi cũng nghĩ thế, Xantrô nói, ta chả nên chấp những lời nói của một người điên. Vả chăng, phúc cho ngài chỉ bị hòn đá văng vào ngực chứ nếu trúng đầu thì thật đẹp mặt cho thầy trò ta; chẳng qua chỉ tại ngài bênh vực con mụ trời đánh thánh vật đó. Nhưng thôi, đằng nào cũng không trách Carđêniô được vì anh ta điên.

- Chống những kẻ xấu mồm, dù chúng tỉnh hay điên, bất cứ hiệp sĩ giang hồ nào cũng đều có nhiệm vụ bảo vệ danh dự của bất cứ người đàn bà nào, và lại càng phải bênh vực những bà hoàng cao quý như bà hoàng Mađaxima, một người mà ta rất ái mộ vì những đức tính hiếm có. Bà ta vừa xinh đẹp vừa nết na, biết chịu đựng trước muôn vàn đau khổ. Những lời khuyên nhủ và sự có mặt của ông thầy Êlixabát rất bổ ích cho bà khiến bà nhẫn nại vượt qua mọi nỗi buồn bực. Thế mà có những kẻ ngu xuẩn xấu bụng nghĩ và nói rằng bà làm lẽ ông ta. Ta nói thật: tất cả những kẻ nào nghĩ và nói như vậy đều nói láo và chúng sẽ còn nói láo hai trăm lần nữa.

- Tôi không hề nghĩ hoặc nói như vậy, Xantrô đáp; đèn nhà ai nhà ấy rạng; họ có ăn nằm với nhau hay không, đã có Chúa soi xét; tôi ăn hiền ở lành, không thích dòm ngó đời tư kẻ khác; kẻ nào buôn gian bán lận hãy nắn túi mình sẽ biết. Vả chăng, tôi sinh ra tay trắng và bây giờ vẫn trắng tay; tôi không mất gì và cũng chẳng được gì; có ai ở tốt với tôi, tôi cũng chẳng cần. Lắm người cứ tưởng ở đời này béo bở lắm, nhưng thử hỏi có ai đổ của ra giữa đồng không? Ngay Chúa cũng còn bị chê trách nữa là.

- Trời ơi, anh nói những chuyện lẩn thẩn gì vậy, Xantrô! Công việc chúng ta đang làm có liên quan gì đến những câu tục ngữ anh vừa tuôn ra. Muốn sống hãy im mồm và từ nay trở đi, hãy lo thúc con lừa của anh thì hơn, đừng can thiệp vào những việc không liên quan tới mình. Hãy vận dụng cả ngũ quan ra để hiểu được rằng mọi việc ta đã làm, đang làm và sẽ làm đều đúng và phù hợp với luật lệ của hiệp sĩ đạo vì ta nắm những luật lệ đó còn vững hơn tất cả các hiệp sĩ khác trên đời này.

- Thưa ngài, luật lệ hiệp sĩ đạo có bảo ta đi lang thang trong núi, không đường không lối, để tìm kiếm một người điên không? Và một khi ta tìm thấy, người điên ấy có thể sẽ kết liễu, không phải câu chuyện kể nửa chừng đâu, mà là kết liễu cái đầu của ngài và bộ xương sườn của tôi.

- Xantrô, một lần nữa ta bảo anh hãy im mồm. Phải biết rằng ta tới đây không phải chỉ để tìm anh chàng điên mà còn để lập nên một chiến công khiến cho tên tuổi tiếng tăm của ta mãi mãi vang dội khắp non sông, một chiến công khiến cho ta trở nên một hiệp sĩ giang hồ tài đức kiêm toàn.

- Chẳng hay lập được chiến công đó có nguy hiểm lắm không? Xantrô Panxa hỏi.

- Không, hiệp sĩ Mặt Buồn đáp; tuy nhiên, còn trông vào sự may rủi nữa và cũng có thể ta không gặp vận. Nhưng tất cả tùy thuộc vào sự mẫn cán của anh đấy.

- Vào sự mẫn cán của tôi ư? Xantrô hỏi.

- Phải, Đôn Kihôtê đáp. Ta sẽ phái anh đi công cán cho ta, anh trở về sớm chừng nào, ta sẽ đỡ đau khổ và chóng có tiếng tăm chừng nấy. Để anh khỏi phải hồi hộp chờ xem ta nói gì, ta bảo cho anh biết rằng chàng Amađix nước Gôlơ là một trong những hiệp sĩ giang hồ hoàn hảo nhất. Ta nói "một trong những hiệp sĩ" là sai; chàng là hiệp sĩ số một, duy nhất hoàn hảo trên đời trong số tất cả hiệp sĩ thời đó. Ta phê phán Đôn Bêlianix và tất cả những ai đã nhầm bảo chàng có thể sánh ngang với Amađix nước Gôlơ. Một họa sĩ muốn trở nên lừng lẫy trong nghề phải bắt chước những nguyên tắc của các họa sĩ danh tiếng nhất. Quy luật này áp dụng cho tất cả các ngành nghề khác trong một quốc gia. Kẻ nào muốn được khen là thận trọng và cần cù thì phải học Ulixê, một nhân vật đã được Ômêrô mô tả một cách sinh động như một người thận trọng và nhẫn nại trong đau khổ. Virhiliô cũng đã đưa ra nhân vật Ênêax, giới thiệu đức tính của một người con hiếu thảo và sự sáng suốt của một vị tướng dũng cảm thông minh. Hai thi hào nói trên đã phác họa ra những nhân vật lý tưởng, với tất cả những đức tính, để làm gương cho hậu thế. Amađix cũng đã được mô tả như một người dẫn đường, ngôi sao, mặt trời của các hiệp sĩ dũng cảm si tình; tất cả những ai chiến đấu dưới lá cờ của tình yêu và của giới hiệp sĩ đều phải noi gương chàng. Anh bạn Xantrô, ta nghĩ rằng hiệp sĩ giang hồ nào bắt chước Amađix đúng nhất sẽ chóng đạt tới đỉnh cao của giới hiệp sĩ. Ta nhớ tới một trong những hành động của Amađix nói lên những đức tính thận trọng, dũng cảm, nhẫn nại, chịu đựng gian khổ và chung thủy trong tình yêu của chàng. Số là sau khi bị nàng Ôriana hắt hủi, chàng đã tự hành phạt, ra ở ngoài đảo Nghèo, đổi tên là Beltênêbrôx, một cái tên thật có ý nghĩa, phù hợp với cách sống mà chàng đã tự chọn lấy. Đối với ta, làm như Amađix đã làm còn dễ hơn là chém đứt đôi những tên khổng lồ, chặt đầu những con mãnh xà, giết những quái vật, đánh tan các đạo quân, phá vỡ các đội chiến thuyền và giải trừ những phép yêu ma. Vả chăng nơi đây rất thích hợp để làm việc đó; ta không nên bỏ lỡ một cơ hội đầy thuận lợi như thế này.

- Chẳng hay ngài định làm gì ở nơi vắng vẻ này? Xantrô hỏi.

- Ta đã chẳng nói rồi đó sao! Đôn Kihôtê đáp. Ta định bắt chước Amađix làm một anh chàng thất tình, ngớ ngẩn, điên khùng; đồng thời, ta cũng muốn làm như Đôn Rôlđan khi chàng tìm thấy bên bờ suối những dấu hiệu chứng tỏ rằng Anhêlica Xinh Đẹp đã ăn nằm với Mêđôrô khiến chàng buồn phiền phát điên, nhổ bao nhiêu cây cối trong rừng, khuấy đục các dòng suối trong, giết hại những người chăn cừu, phá phách các đàn gia súc, đốt lều, phá nhà, hành hạ những con ngựa và còn làm bao nhiêu điều ngang trái khác đáng được ghi vào sử sách. Nhưng ta không định bắt chước thật đúng tất cả những ý nghĩ, lời nói và việc làm cuồng dại của Rôlđan, hay Orlanđô, hay Rôtôlanđô (vì chàng có ba tên); ta chỉ lọc ra một số hành động ngông cuồng chính để làm theo thôi. Cũng có thể ta chỉ bắt chước Amađix, không phá phách lung tung, chỉ khóc lóc, than thở, và cuối cùng vẫn nổi danh chẳng kém ai.

- Theo tôi hiểu, Xantrô nói, sở dĩ các hiệp sĩ đó làm như vậy vì họ bị khiêu khích, cho nên họ có lý do làm những việc ngốc nghếch để tự hành hạ mình. Nhưng thử hỏi ngài có lý do gì để hóa điên? Có bà nào hắt hủi ngài đâu và có dấu hiệu gì chứng tỏ bà Đulxinêa làng Tôbôxô đã lăng nhăng với một người Môrô hay một tín đồ Kitô giáo nào đâu?

- Đó mới là điều cốt yếu và tế nhị trong việc làm của ta, Đôn Kihôtê đáp. Nếu một hiệp sĩ hóa điên vì có nguyên nhân, điều đó không có gì đáng chú ý cả. Cái khó là ở chỗ vô cớ mà điên khiến cho người đẹp của ta sẽ phải tự hỏi: "Không duyên cớ gì mà chàng cũng hóa điên, vậy một khi có nguyên nhân, chàng còn rồ dại đến mức nào?" Vả chăng, ta xa cách nàng Đulxinêa của ta cũng khá lâu rồi, và đó cũng đủ là một nguyên nhân vì hôm nọ anh đã nghe chàng chăn cừu Ambrôxiô 2 nói rằng sự xa vắng gây ra nhiều tai họa. Thôi, Xantrô, chớ mất thời giờ ngăn cản ta bỏ lỡ một việc làm hiếm có, tốt đẹp chưa từng thấy. Ta sẽ điên, ta phải điên trong thời gian anh mang thư của ta đến cho nàng Đulxinêa và mang thư phúc đáp của nàng về đây. Và nếu trong thư phúc đáp, nàng tỏ ra xứng đáng với lòng trung thành của ta, khi đó sẽ kết thúc cơn điên và hình phạt của ta, nếu không ta sẽ hóa điên thực sự và sẽ không còn cảm giác gì nữa. Tùy theo thư trả lời của nàng, ta sẽ thoát khỏi sự giày vò đau khổ, trở lại bình thường để hưởng hạnh phúc do anh mang về đây cho ta, hoặc ta sẽ điên và không cảm thấy nỗi đau khổ do anh đem lại cho ta. À, ta muốn hỏi anh điều này: khi tên vô ơn bạc nghĩa định đập tan chiếc mũ sắt của Mambrinô, ta có nhìn thấy anh nhặt lên, vậy anh vẫn giữ cẩn thận đấy chứ? Chiếc mũ tốt thật, đập như thế mà cũng không vỡ.

Nghe chủ hỏi, Xantrô đáp:

- Thưa ngài hiệp sĩ Mặt Buồn, tôi không nghe nổi và cũng không chịu đựng nổi những ý kiến của ngài. Qua những lời vừa rồi, tôi nghĩ rằng tất cả những lời ngài đã nói về nghề hiệp sĩ, nào là đánh chiếm các vương quốc, nào là thưởng cho đảo này đảo nọ, nào là ban ân ban chức theo kiểu hiệp sĩ giang hồ, tất cả chỉ là mây gió hão huyền. Khi nghe ngài gọi cái chậu cạo râu là mũ sắt của Mambrinô và từ bốn ngày hôm nay vẫn cứ nhầm lẫn như vậy, người ta sẽ phải nghĩ rằng kẻ nói và khẳng định điều đó đã lú lẫn ruột gan rồi. Tôi vẫn cất cái chậu cạo râu đã bẹp dúm ở trong túi, định bụng mang về nhà gò lại để dùng vào việc cạo râu nếu như một ngày kia, Chúa phù hộ cho tôi được trở về gặp mặt vợ con.

- Xantrô, ta cũng xin thề với Chúa rằng anh là một giám mã thiển cận nhất đời. Anh theo hầu ta đã bao lâu nay mà vẫn không biết rằng mọi hiện tượng diễn ra trước mắt người hiệp sĩ giang hồ đều là huyền hoặc, hư ảo và bị đảo ngược hết ư? Chính là vì xung quanh ta luôn luôn có một bầy phù thủy đổi trắng thay đen tùy theo ý thích của chúng muốn làm lợi hay làm hại cho ta. Vì vậy, cái vật anh gọi là chậu cạo râu đối với ta là chiếc mũ sắt của Mambrinô, còn đối với người thứ ba, nó lại biến thành một vật khác. Thánh hiền phù trợ ta nên đã khiến cho mọi người nhìn chiếc mũ sắt của Mambrinô tưởng là một cái chậu cạo râu, vì nếu họ biết chân giá trị của vật đó, họ sẽ theo đuổi ta để chiếm bằng được. Vì tưởng nó chỉ là một cái chậu của thợ cạo nên không ai buồn nhặt; chính vì thế mà tên vô ơn bạc nghĩa kia đã định đập tan nó ra rồi bỏ lăn lóc dưới đất; nếu nó biết giá trị của chiếc mũ đó, chắc chắn nó sẽ không vứt lại. Anh bạn Xantrô, hãy giữ lấy nó cho ta; ta chưa cần tới vì bây giờ ta phải trút bỏ tất cả bộ áo giáp này và ở trần truồng như khi ta mới lọt lòng nếu ta muốn bắt chước hệt như Rôlđan trong thời gian chịu hình phạt.

Lúc này, hai thầy trò đi tới chân một hòn núi đá cao chót vót, thẳng tuột, đứng tách riêng giữa những quả núi khác. Bên sườn núi có một dòng suối trong veo và xung quanh là một đồng cỏ xanh mượt, nom rất ngoạn mục; đó đây có những cây rừng và hoa lá, cảnh vật thật là êm đềm. Nhìn thấy cảnh đó, hiệp sĩ Mặt Buồn chọn ngay làm nơi để chịu hình phạt; chàng cất cao giọng như thể đã mất trí:

- Trời hỡi! Đây là nơi con tự chọn để khóc than nỗi khổ đau mà Người đã mang lại cho con. Đây là nơi mà những giọt nước mắt của con sẽ làm dâng nước của con suối nhỏ kia; và những lời than thở thảm thiết của con sẽ làm rung động lá cây rừng, nói lên nỗi khổ đau đang giày vò một trái tim đã rạn nứt. Hỡi thánh thần ngự trị ở nơi hoang vắng này! Dù các vị là ai, xin hãy lắng nghe những lời than vãn của một kẻ thất tình, vì lâu ngày xa vắng người yêu và do những ý nghĩ ghen tuông tưởng tượng, đang khóc than ở nơi rừng rú, oán trách con người đẹp bội bạc có một nhan sắc tuyệt trần. Hỡi các nữ thần thường qua lại chốn sơn lâm này! Nếu các vị cùng tôi chia sẻ nỗi bất hạnh này, hoặc ít nhất cũng chú ý nghe những lời than thở của tôi, tôi sẽ cầu cho lũ xatirô 3 lanh lẹ và hiếu sắc kia không đến phá rối cuộc sống êm đềm của các vị. Hỡi nàng Đulxinêa làng Tôbôxô, mặt trời giữa đêm tối của ta, niềm vinh quang trong đau khổ của ta, kim chỉ đường cho ta, ngôi sao hạnh phúc của ta! Nếu nàng đoái hoài tới tình cảnh khốn khổ của ta phải xa cách nàng và nếu nàng đền đáp tấm lòng chung thủy của ta, cầu Trời chấp nhận tất cả những lời thỉnh cầu của nàng và mang hạnh phúc đến cho nàng. Hỡi cây rừng lẻ loi từ nay sẽ phải làm bạn với cảnh cô đơn của ta! Hãy rung cành lên để tỏ rằng các ngươi không phản đối sự có mặt của ta. Hỡi giám mã, người bạn đồng hành vui buồn có nhau của ta! Hãy nhớ kỹ những việc ta sắp làm để kể lại cho con người đã gây ra chuyện này.

Nói xong, Đôn Kihôtê nhảy xuống đất, tháo hàm thiếc và yên ngựa cho con Rôxinantê, lấy tay vỗ vào mông nó, nói tiếp:

- Chính con người không có tự do đang mang lại tự do cho mi. Hỡi tuấn mã của ta! Mi có công bao nhiêu thì lại gặp bất hạnh bấy nhiêu. Bây giờ, mi muốn đi đâu tùy ý. Trên trán mi có ghi rằng không có một con vật nào phi nhanh hơn mi, từ con quái ưng mã của Axtôlphô tới con Phrôntinô nổi tiếng mà Brađamantê đã phải trả giá rất cao.

Thấy chủ không tiếc lời ca tụng con Rôxinantê, Xantrô nói:

- Cảm ơn tên kẻ trộm đã đánh cắp con lừa nên lúc này tôi không phải tháo yên cương cho nó; nếu nó còn đây, tôi cũng sẽ không thiếu những lời tốt đẹp để ca tụng. Nhưng nếu tôi còn con lừa đó, tôi sẽ không để cho ai tháo yên cương của nó vì làm như vậy để làm gì. Nó có dính dáng tới những chuyện yêu đương thất tình gì đâu vì Chúa muốn rằng chủ nó - tức là tôi đây - cũng không dính dáng tới những chuyện đó kia mà. Vả chăng, thưa ngài hiệp sĩ Mặt Buồn, nếu quả thật tôi phải ra đi và ngài hóa điên thực sự, tôi nghĩ rằng cần thiết phải thắng lại yên cương cho con Rôxinantê. Tôi sẽ cưỡi nó thay con lừa để đi về được nhanh chóng hơn; nếu tôi phải đi bộ, không biết bao giờ tôi mới tới nơi đó và bao giờ mới trở về đây vì tôi không quen đi bộ.

- Việc đó tùy anh, Đôn Kihôtê nói; kể ra ý kiến của anh cũng hay đấy. Dù sao, trong ba ngày nữa anh mới ra đi được vì ta muốn rằng trong thời gian đó anh được chứng kiến những việc ta làm và nghe những lời ta nói để còn kể lại với nàng.

- Sao, ngoài những sự việc đã nhìn thấy rồi, tôi còn phải chứng kiến những gì khác nữa?

- Chưa hết đâu; bây giờ mới đến lúc ta xé quần áo, vứt tung bộ áo giáp, lấy đầu húc vào đá và làm các việc khác tương tự khiến anh phải khâm phục.

- Lạy Chúa, xin ngài hãy cẩn thận trong khi húc đầu vào đá, nếu húc không khéo vào một tảng đá nào đó, có khi chỉ một lần cũng đã đủ kết thúc cuộc hình phạt của ngài. Theo ý tôi, nếu ngài thấy việc đó thật cần thiết, không thể thiếu được, xin hãy tạm húc đầu vào nước hay vào một cái gì mềm như bông chẳng hạn, vì đây chỉ là chuyện giả vờ, làm phép mà thôi. Còn khi nào gặp bà Đulxinêa, tôi sẽ nói rằng ngài đã húc đầu vào một tảng đá nhọn hoắt rắn hơn kim cương.

- Anh bạn Xantrô, ta cảm ơn tấm lòng tốt của anh, nhưng ta muốn cho anh thấy rằng tất cả những chuyện ta làm đều hoàn toàn có thật, không phải chuyện chơi; nếu làm khác là trái với luật lệ của hiệp sĩ đạo. Luật lệ đó cấm dối trá, ai dối trá sẽ bị coi là tà giáo. Nếu ta làm sai tức là dối trá. Bởi vậy, ta phải húc đầu vào đá thực sự, không được giả vờ, làm phép. Anh nên để lại cho ta một ít vải xơ để băng bó vì, tai hại thay, chúng ta đã đánh mất lọ thuốc thần.

- Mất con lừa còn tai hại hơn vì như vậy là mất cả vải băng bó và bao nhiêu thứ khác. Nhưng tôi van ngài đừng nhắc tới món thuốc thần chết tiệt kia nữa. Chỉ mới nghe nói tới, tôi đã thấy lộn mửa và lộn cả tiết nữa. Tôi cũng van ngài hãy coi như tôi đã chứng kiến những hành động điên rồ của ngài trong ba ngày rồi. Cứ cho là tôi đã nhìn thấy hết mọi sự việc trong ba ngày đó rồi và tôi sẽ kể lại đầy đủ với bà chủ tôi. Thôi, ngài hãy viết thư để tôi đi ngay vì tôi rất muốn sớm trở về đây giải thoát cho ngài khỏi cảnh đày ải này.

- Xantrô, sao lại gọi là đày ải? Sao không gọi là địa ngục hoặc bằng một danh từ gì tồi tệ hơn thế nữa đi!

- Tôi nghe nói rằng kẻ nào ở dưới địa ngục sẽ không bao giờ và không thể nào ra khỏi. Trường hợp của ngài khác, trừ phi tôi không biết cách thúc con Rôxinantê chạy (nếu chân tôi có đinh thúc ngựa). Hãy để cho tôi về làng Tôbôxô và đến trình diện trước bà Đulxinêa; tôi sẽ dùng những lời lẽ thật hay thật đẹp tả lại những sự việc ngớ ngẩn và điên rồ mà ngài đã và đang làm khiến bà ta phải lay chuyển mặc dù lúc mới gặp tôi, bà tỏ ra cứng rắn như đá. Rồi tôi sẽ cưỡi mây đạp gió trở về đây như một phù thủy mang theo những lời phúc đáp dịu dàng, ngọt ngào của bà ta, và tôi sẽ giải thoát cho ngài ra khỏi cảnh đày ải chẳng khác gì địa ngục này. Như tôi đã nói, ta vẫn có hy vọng ra thoát vì chỉ có những kẻ ở dưới địa ngục mới phải chịu bó tay. Tôi chắc ngài không có điều gì phản đối.

- Quả thật như vậy, hiệp sĩ Mặt Buồn đáp; nhưng làm thế nào viết được thư bây giờ?

- Xin ngài viết cả phiếu nhượng mấy con lừa con cho tôi nữa như ngài đã hứa, Xantrô nhắc.

- Sẽ có đủ. Thôi được, không có giấy, ta bắt chước người xưa viết lên lá cây hoặc sáp ong mặc dù lúc này sáp ong cũng khó kiếm như giấy vậy. Nhưng ta sực nảy ra một ý kiến cũng hay hoặc còn hay hơn cả viết thư: đó là quyển lưu niệm của chàng Carđêniô. Ta sẽ viết vào đó, tới chỗ nào có thầy giáo trường làng hay người trông coi nhà thờ, anh nhờ chép lại ngay bằng chữ thật đẹp lên giấy trắng cho ta; chớ nhờ bọn chưởng bạ vì họ viết lem nhem lắm, quỷ cũng chẳng đọc nổi đâu.

- Nhưng làm thế nào để lấy được chữ ký của ngài?

- Amađix có bao giờ ký dưới những bức thư của mình đâu.

- Thế cũng được, nhưng phiếu nhượng lừa thì phải có chữ ký chứ? Nếu sao chép lại, người ta sẽ bảo là chữ ký giả và tôi sẽ mất lừa.

- Ta sẽ viết phiếu nhượng lừa và ký vào quyển sách của Carđêniô; anh cứ đưa cho cháu gái ta, nó sẽ thi hành ngay. Còn về bức thư tình của ta, thay cho chữ ký anh hãy ghi như sau: "Vì nàng, phụng sự tới lúc chết, hiệp sĩ Mặt Buồn". Ai viết thư đó cũng được vì nếu ta không nhớ nhầm, Đulxinêa không biết đọc biết viết và cả đời nàng chưa hề đọc thư của ta bao giờ. Vả chăng, tình yêu giữa ta với nàng hoàn toàn trong trắng, liếc mắt nhìn nhau đã là quá lắm rồi, và cũng chỉ một đôi lần thôi. Cho nên ta có thể nói chắc chắn rằng suốt mười hai năm trời ta yêu nàng - yêu hơn cả đôi mắt của ta một ngày kia sẽ bị vùi sâu dưới đất - ta chỉ nhìn nàng có bốn lần và có lẽ trong bốn lần đó, không lần nào nàng biết rằng ta đã nhìn nàng; điều đó chứng tỏ cha nàng - ông Lôrenxô Corchuêlô - và mẹ nàng - bà Alđônxa Nôgalêx - đã tỏ ra rất nghiêm khắc trong việc dạy dỗ nàng.

- Sao? Xantrô hỏi. Con gái Lôrenxô Corchuêlô là bà Đulxinêa làng Tôbôxô đó ư? Có phải người ta còn gọi là Alđônxa Lôrenxô không?

- Đúng đấy, Đôn Kihôtê đáp, nàng xứng đáng là đệ nhất phu nhân trên thế gian này.

- Thế thì tôi còn lạ gì nữa. Nó ném lao không thua gì những trai tráng trong làng. Lạy Chúa, thật là một đứa con gái gan dạ, khỏe mạnh, cứng cỏi; hiệp sĩ giang hồ nào lấy nó về sẽ bị xỏ mũi ngay. Con quỷ sứ đó khỏe như vâm, tiếng nói như lệnh vỡ! Tôi biết có lần nó leo lên tận gác chuông nhà thờ làng để gọi những người tá điền đang cày ruộng cho cha nó ở cách đấy nửa dặm, thế mà họ cũng nghe thấy tiếng nó như thể họ đứng ngay dưới chân gác chuông vậy. Tuy nhiên, nó không làm bộ chút nào, mà trái lại, rất tự nhiên; nó đùa với tất cả mọi người và thích bông phèng. Thưa ngài hiệp sĩ Mặt Buồn, nếu là con bé đó, ngài có thể và nên làm những chuyện điên rồ; hơn thế nữa, ngài cứ việc tuyệt vọng và treo cổ tự tử; ai biết chuyện này cũng sẽ nói rằng ngài đã làm đúng dù ngài có bị quỷ tha ma bắt. Tôi chỉ mong lên đường ngay để được nhìn mặt nó; đã lâu tôi không gặp nó và chắc bây giờ nó thay đổi nhiều vì đàn bà phải dầm mưa dãi nắng luôn ngoài đồng thì chóng tàn lắm. Thưa ngài Đôn Kihôtê, xin thú thực với ngài là cho tới nay, tôi chẳng biết gì cả; tôi cứ đinh ninh bà Đulxinêa mà ngài say mê phải là một công chúa hay một công nương quyền quý nào xứng đáng được hưởng những quà tặng quý giá của ngài, ví thể như phái kỵ sĩ tỉnh Vixcaia hay những tên tù khổ sai đến trình diện trước mặt nàng, không kể bao nhiêu món quà khác nữa vì chắc rằng ngài đã lập được nhiều chiến công từ khi tôi chưa đi theo hầu ngài. Nhưng nghĩ cho cùng, thử hỏi bà Alđônxa Lôrenxô, à... bà Đulxinêa làng Tôbôxô được lợi lộc gì một khi ngài bắt và sẽ còn bắt những kẻ bại trận đến quỳ gối trước mặt bà ta? Có thể khi họ tới nơi, bà đang bận chải những sợi gai hoặc đang đập lúa, và bà sẽ cười và bực mình vì món quà tặng của ngài.

- Ta đã nhiều lần bảo anh là một kẻ rất ba hoa, Đôn Kihôtê nói, và tuy đầu óc đần độn, lắm khi anh muốn tỏ ra có trí khôn. Nhưng để cho anh nhận ra sự ngu ngốc của mình và sự khôn ngoan của ta, ta muốn kể cho anh nghe một câu chuyện: Có một người đàn bà góa trẻ, đẹp, giàu, phóng khoáng và đặc biệt rất vui tính, phải lòng một anh thầy tu bậc dưới béo trục béo tròn. Biết chuyện đó, một hôm có một cha bề trên của anh thầy tu kia khuyên can người đàn bà góa: "Thưa bà, tôi có nhiều lý do để ngạc nhiên vì thấy một người đàn bà đoan trang, xinh đẹp và giàu có như bà, đi yêu một kẻ thô bỉ, hạ lưu và ngu ngốc như vậy trong lúc ở đây không thiếu những vị giáo sư, tiến sĩ và nhà thần học để bà tự do kén chọn; bà có thể nói: "Tôi thích người này, tôi không ưng người kia". Người đàn bà góa đáp lại một cách rất tự nhiên thoải mái: "Thưa cha, cha nhầm to và suy nghĩ theo lối cổ nếu cho rằng tôi không biết kén chọn tuy trông anh ta có vẻ ngu đần; tôi yêu anh ta vì anh ta giỏi triết lý hơn cả Arixtôtêlêxê". Cho nên, anh Xantrô ạ, ta yêu Đulxinêa làng Tôbôxô vì nàng đáng giá như một công chúa cao quý nhất trần gian. Khi thấy một thi sĩ ca ngợi và đặt tên cho một người đẹp, ta chớ nên nghĩ rằng chàng đã yêu người đó. Chớ tưởng rằng Amarilix, Philix, Xilvia, Điana, Galatêa, Philiđa và tên những cô nàng khác đầy rẫy trong sách vở, trong các tiệm cắt tóc và các rạp hát là những người bằng xương bằng thịt và là tình nhân của những thi sĩ đã ca ngợi họ. Không phải thế đâu. Một phần lớn do các nhà thơ tưởng tượng ra để làm đề tài và để cho mọi người nghĩ rằng họ yêu thật hoặc có thể yêu được. Cho nên chỉ cần ta tưởng tượng rằng Alđônxa Lôrenxô là một cô gái xinh đẹp nết na. Vấn đề dòng dõi không quan trọng lắm; chẳng cần phải đi điều tra để biết nàng sinh trưởng trong một gia đình nào; ta sẵn sàng coi nàng là một công chúa cao quý nhất thế gian. Xantrô, nếu anh chưa biết thì cần phải biết rằng có hai điều khiến cho người khác phải say mê: một là nhan sắc, hai là tiếng tăm. Đulxinêa có cả hai ở mức độ cao; sắc đẹp của nàng không ai sánh kịp, tiếng tăm nàng cũng ít người bì. Tóm lại, ta nghĩ rằng ta đã giới thiệu nàng đúng mức, không thêm cũng không bớt; ta mô tả sắc đẹp và đức tính của nàng bằng tất cả mối tình của ta đối với nàng, và dù là Êlêna, Lucrêxia hay bất cứ một người đàn bà đẹp nào thời Hy Lạp, La Mã cổ xưa đều không ăn đứt. Mặc ai nói ngả nói nghiêng; nếu ta bị kẻ ngu xuẩn chê trách, trái lại ta được những người thức thời khen ngợi.

- Những lời ngài nói đều đúng, Xantrô đáp, và tôi chỉ là con lừa. Nhưng không hiểu tại sao tôi buột mồm tự gọi như vậy vì không nên nhắc tới sợi dây thừng trong nhà người treo cổ 4. Thôi, ngài đưa thư đây cho tôi đi.

Đôn Kihôtê lấy quyển lưu niệm của Carđêniô, ngồi một chỗ ung dung viết; viết xong, chàng gọi Xantrô tới, ngỏ ý muốn đọc một lượt cho bác nhớ, nhỡ khi đi đường đánh lạc mất thư, đề phòng mọi sự không may có thể xảy ra. Xantrô đáp:

- Xin ngài viết đi viết lại vài ba lần vào quyển sổ này cho, tôi xin giữ cẩn thận; còn nghĩ rằng tôi phải thuộc lòng thì thật là nực cười. Trí nhớ tôi kém đến nỗi nhiều lúc tôi quên cả tên tôi. Dù sao, xin ngài cứ đọc lên vì tôi thích nghe lắm; chắc là phải văn hay chữ tốt.

- Nếu vậy, hãy nghe đây, Đôn Kihôtê nói rồi bắt đầu đọc:

Thư của Đôn Kihôtê gửi nàng Đulxinêa làng Tôbôxô

"Thưa quý nương,

Hỡi nàng Đulxinêa làng Tôbôxô vô cùng dịu hiền, đây con người đau khổ vì xa vắng, con người mang một vết thương tận đáy lòng, xin chúc nàng sức khỏe, sức khỏe mà chính bản thân kẻ đó không có. Nếu nhan sắc của nàng miệt thị ta, nếu đức hạnh của nàng không phù trợ ta, nếu sự khinh rẻ của nàng làm cho ta buồn phiền mặc dù ta đã quá đau khổ rồi, chắc rằng ta khó lòng chịu đựng được nỗi khổ cực ghê gớm và dai dẳng này. Hỡi người đẹp phụ bạc, kẻ thù yêu dấu của ta! Xantrô, giám mã trung thành của ta, sẽ kể lại rành rọt tình cảnh ta đang phải chịu đựng vì muốn phụng sự nàng. Nếu nàng rủ lòng thương tới ta, ta sẽ thuộc về nàng; bằng không, nàng muốn làm chi xin tùy ý. Ta sẽ kết liễu cuộc đời để thỏa mãn sự độc ác của nàng và làm đẹp ý muốn của ta.

Vì nàng, phụng sự suốt đời

Hiệp sĩ Mặt Buồn"

Nghe xong, Xantrô kêu lên:

- Cha mẹ ôi! Tôi chưa hề thấy một bức thư nào tuyệt diệu như vậy! Khiếp thật, làm sao ngài có thể nói được những ý nghĩ của mình bằng những lời lẽ hay ho đến thế! Và cái tên hiệp sĩ Mặt Buồn ký dưới bức thư mới hợp làm sao! Tôi nói thật, ngài còn tinh hơn cả quỷ, việc gì cũng biết.

- Đối với nghề nghiệp của ta, việc gì cũng cần phải biết, Đôn Kihôtê đáp.

- À, xin ngài viết luôn phiếu nhượng ba con lừa con vào mặt sau tờ giấy này và ký tên thật rõ ràng để cho người ta nhận được chữ ngài.

- Được thôi.

Sau khi viết xong giấy nhượng lừa cho Xantrô, Đôn Kihôtê đọc lên, nội dung như sau:

"Cháu gái của ta, chiểu theo văn tự đầu tiên này về nhượng lừa con, hãy trao cho giám mã của ta là Xantrô Panxa ba trong số năm con mà ta đã ủy nhiệm cho cháu trông nom ở nhà. Ta đã yêu cầu Xantrô trao cho ta một số lừa tương đương tại đây rồi. Giấy nhượng lừa này và giấy biên nhận của Xantrô sẽ dùng làm chứng từ thanh toán.

Làm tại giữa lòng núi Môrêna, ngày hai mươi hai tháng Tám năm nay".

- Tốt lắm, xin ngài ký tên vào cho.

- Không cần ký tên mà chỉ ký tắt cũng đủ để trao cả ba trăm con huống chi là ba con.

- Thôi được, tôi tin vào ngài. Bây giờ, để tôi đi đóng yên cương cho con Rôxinantê và ngài hãy chuẩn bị ban phúc cho tôi. Tôi muốn đi ngay để khỏi phải nhìn những việc làm ngớ ngẩn của ngài; có thể nói rằng tôi đã nhìn quá đủ rồi, chẳng cần nhìn nữa làm gì.

- Xantrô, ít ra ta cũng muốn anh nhìn thấy ta trần truồng làm một vài việc điên rồ vì điều này cần thiết; chỉ trong nửa tiếng đồng hồ thôi. Sau khi đã được mục kích, tha hồ cho anh thêm thắt trong khi kể lại. Tuy nhiên, ta chắc rằng anh cũng không kể lại được hết sự thật đâu.

- Lạy Chúa đừng bắt tôi phải thấy ngài trần truồng; trông thương tâm lắm và tôi sẽ không cầm được nước mắt đâu. Đêm qua, tôi đã khóc con lừa hết cả nước mắt rồi và bây giờ tôi không muốn phải khóc nữa. Nếu quả thật ngài muốn tôi chứng kiến một vài hành động điên rồ của ngài, xin cứ để nguyên quần áo và làm qua loa thôi, nhớ tới đâu làm tới đó. Vả chăng, việc này đối với tôi không cần thiết vì, như tôi đã nói, ta sẽ rút bớt được thời gian và tôi sẽ sớm mang về đây những tin vui mà ngài mong đợi và xứng đáng được nhận. Nếu không được như vậy, bà Đulxinêa kia hãy coi chừng; nếu không tỏ ra biết điều, tôi xin long trọng thề rằng tôi sẽ thượng cẳng chân hạ cẳng tay, moi từ trong ruột bà ra một câu trả lời tử tế. Bởi vì làm sao có thể để cho một hiệp sĩ giang hồ trứ danh như vậy vô cớ trở nên rồ dại chỉ vì một con mụ...! Lạy Chúa, mong rằng bà ta đừng để tôi phải nói vì tôi sẽ tuôn ra những lời chẳng đẹp đẽ gì đâu. Về ngón này, tôi chẳng thua ai. Bà ta chưa biết tay tôi đấy thôi, một khi đã biết, chắc chắn sẽ phải nể.

- Xantrô, ta thấy anh cũng chẳng khôn ngoan gì hơn ta.

- Tôi không quá rồ dại như ngài nhưng nóng tính hơn. Nhưng thôi, ta hãy xếp chuyện đó lại, xin hỏi ngài ăn uống ra sao trong khi vắng tôi? Liệu ngài có bắt chước Carđêniô đón đường những người chăn cừu để cướp lương thực không?

- Anh không phải lo; dù ta có đủ lương thực ta cũng chỉ ăn cây cỏ hoặc hoa quả ở ngoài đồng và trên những cành cây kia thôi. Bí quyết trong việc làm của ta là không ăn uống gì cả và chịu đựng những kham khổ khác tương tự.

- Ngài có biết tôi đang lo ngại điều gì không? Tôi lo không trở về đúng chỗ này vì nó quá hẻo lánh.

- Hãy chú ý đến cảnh vật xung quanh để làm mốc, ta sẽ chỉ quanh quẩn ở đây thôi; không những thế, ta sẽ leo lên những ngọn núi cao nhất để ngóng khi nào anh trở về. Tuy nhiên, có một cách tốt nhất để khỏi lạc đường và tìm thấy ta: hãy bẻ những cành kim tước ở quanh đây rồi trên đường đi, cứ cách một quãng lại rắc xuống đất một vài cành cho tới khi đến đồng bằng; những cành cây đó sẽ là những cái mốc để cho anh trở về tìm thấy ta, giống như chàng Têxêô thời xưa cầm sợi dây ra khỏi mê cung.

- Tôi xin làm theo, Xantrô Panxa đáp.

Sau khi đã ngắt một ít cành cây, Xantrô xin chủ ban phúc cho; cả hai thầy trò cùng khóc, rồi bác từ biệt chủ, leo lên mình con Rôxinantê; Đôn Kihôtê còn căn dặn bác phải chăm nom con ngựa hơn chính bản thân mình. Xantrô nhằm thẳng hướng đồng bằng mà đi, cách một quãng lại rắc một vài cành kim tước theo lời chủ bảo. Xantrô đi rồi, Đôn Kihôtê vẫn hậm hực vì bác chưa được chứng kiến thêm một vài hành động điên rồ nữa của mình. Mới đi chừng một trăm bước, Xantrô đã quay trở lại nói với chủ:

- Thưa ngài, ngài đã nói rất đúng; để tôi có thể yên tâm nói với bà Đulxinêa rằng tôi đã nhìn thấy tất cả những hành động điên rồ của ngài, xin ngài cho tôi chứng kiến một việc mặc dù chỉ riêng quyết định ở lại trên núi này đã là một sự điên rồ quá lớn rồi.

- Ta đã bảo mà! Đôn Kihôtê đáp. Xantrô, anh hãy chờ đấy, ta sẽ làm xong ngay, chỉ bằng thời gian đọc một bài kinh Tin kính thôi.

Nói rồi, chàng cởi phăng quần lót, mặc độc chiếc sơ-mi, phi ngược hai chân lên trời, lộn đầu xuống đất; chiếc áo của chàng cũng tốc ngược theo để hở những bộ phận kín đáo nhất khiến Xantrô phải quay ngựa đi ngay để khỏi nhìn thấy. Tuy nhiên, bác lấy làm hài lòng vì bây giờ bác có thể kể với bà Đulxinêa rằng chủ bác đã hóa điên. Đến đây, ta hãy tạm biệt Xantrô cho tới khi bác quay về, thời gian cũng ngắn thôi.

--------------------------------
1Tác giả Xervantêx quên rằng ở chương XXIII, Xantrô đã bị kẻ cắp lấy mất lừa.
2Bạn thân của chàng Grixôxtômô si tình xấu số - Xem chương XII, XIII, XIV.
3Nhân vật thần thoại, mình người chân dê.
4Tục ngữ Tây Ban Nha, có nghĩa là: không nên nhắc tới chuyện gì làm cho đau lòng.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes


Chương XXVI

KỂ TIẾP VỀ NHỮNG HÀNH ĐỘNG SI TÌNH CỦA CHÀNG ĐÔN KIHÔTÊ TRÊN DÃY NÚI MÔRÊNA



Kể lại những hành động của hiệp sĩ Mặt Buồn lúc còn có một mình trên núi, sách đã ghi: sau khi phi ngược hai chân lên trời, đầu lộn xuống đất, nửa thân trên mặc áo, nửa dưới trần truồng, và thấy Xantrô không buồn ở lại xem những việc làm điên rồ khác của mình, Đôn Kihôtê leo lên một mỏm núi đá cao chót vót, ngồi nghĩ tới một chuyện đã bao lần làm chàng phải đắn đo mà vẫn chưa quyết định được; vấn đề đặt ra là bắt chước những hành động điên rồ của ai hay hơn và hợp hơn: bắt chước những hành động phá phách lung tung của Rôlđan hay những hành động ủy mị của Amađix? Chàng tự nhủ: "Nếu Rôlđan đã được người đời ca ngợi là một hiệp sĩ dũng cảm, điều đó không có gì lạ cả vì chàng được pháp sư phù trợ; muốn giết được chàng, chỉ có một cách là dùng một cái kim màu trắng đâm vào gan bàn chân, nhưng khốn nỗi chàng luôn luôn đi giày có đế bằng sắt dày. Tuy nhiên, Bernarđô đel Carpiô đã trị được mọi pháp thuật của Rôlđan và đã dùng hai cánh tay kẹp chết chàng hiệp sĩ tại đèo Rônxexvaiex. Nhưng ta không bàn về sự dũng cảm của chàng mà muốn nói tới sự điên rồ của chàng; đúng là chàng đã mất trí sau khi nhìn thấy những dấu hiệu của sự phản bội ở bên bờ suối và sau khi có một người chăn cừu kể lại rằng nàng Anhêlica của chàng đã ngủ trên hai buổi trưa với Mêđôrô, tên Môrô bé loắt choắt, tóc quăn, vẫn đi theo hầu Agramantê. Và một khi chàng đã tin vào lời của người chăn cừu và tin rằng người yêu đã lừa dối mình thì việc chàng phát điên là tất nhiên. Về phần ta làm sao có thể bắt chước chàng được vì ta có lý do gì để phát điên đâu? Ta có thể khẳng định rằng nàng Đulxinêa làng Tôbôxô của ta suốt đời chưa nhìn thấy một người Môrô nào như tên Môdêrô và cho tới ngày nay nàng vẫn tiết hạnh như người mẹ đã sinh ra nàng. Nếu ta nghĩ khác về nàng để cũng phát điên theo kiểu của chàng Rôlđan điên rồ thì thật là một sự xúc phạm trắng trợn đối với nàng. Mặt khác, ta nhận thấy chàng Amađix nước Gôlơ tuy không mất trí và cũng không làm điều gì điên rồ mà vẫn nổi tiếng là một chàng si tình hơn ai hết. Theo sách kể lại, khi nhìn thấy mình bị nàng Ôriana hắt hủi không cho gặp mặt chừng nào nàng chưa muốn, chàng đã bỏ ra đảo Nghèo cùng với một tu sĩ; tại đó, chàng không ngớt than vãn và cầu Chúa, và cuối cùng Chúa đã đến với chàng trong cơn đau khổ cùng cực. Nếu quả thật như vậy - mà cũng đúng như vậy-, việc gì ta phải tự lột trần truồng và làm tình làm tội những cây cối này trong lúc chúng không hề đụng chạm đến ta? Việc gì ta phải khuấy đục dòng nước trong trẻo của những con suối sẵn sàng cho ta nước uống khi ta cần tới? Chàng Amađix sẽ sống mãi! Đôn Kihôtê xứ Mantra này xin gắng noi theo chàng và người đời sẽ nói về ta như đã nói về chàng; họ sẽ bảo: nếu chàng không làm nên nghiệp lớn, ít ra chàng đã chết vì có ý định muốn làm. Ta không bị nàng Đulxinêa làng Tôbôxô hắt hủi và làm nhục nhưng ta cũng đã phải xa cách nàng. Thôi, hãy bắt tay vào việc! Hỡi những hành động đẹp đẽ của Amađix, hãy lại đây chỉ cho ta phải bắt đầu như thế nào! Ta biết rằng chàng chỉ cầu nguyện và kêu cứu Thượng đế, khốn nỗi ta không có tràng hạt".

Bỗng Đôn Kihôtê nảy ra một sáng kiến: chàng xé vạt áo, tết mười một cái nút trong đó có một cái to hơn cả, thế là thành một tràng hạt để cho chàng có thể đọc một triệu bài kinh Kính mừng trong suốt thời gian ở trên núi. Có một điều làm chàng rất áy náy là thiếu thầy tu để rửa tội và khuyên nhủ chàng. Có tràng hạt rồi, chàng bắt đầu đi đi lại lại trên cánh đồng, thỉnh thoảng dừng chân viết lên cát hoặc khắc vào thân cây một bài thơ mô tả nỗi buồn của mình và ca ngợi nàng Đulxinêa. Trong số những bài thơ, người ta chỉ tìm được một bài còn nguyên vẹn, nét chữ rõ ràng, bài đó như sau:

"Hỡi cỏ cây cao vút, xanh tươi! Nếu các ngươi xót thương nỗi bất hạnh của ta, xin hãy lắng nghe những lời than vãn chính đáng này.

Nỗi đau khổ của ta thật ghê gớm, nhưng mong rằng nó không làm các ngươi bận lòng; và để đền đáp tấm lòng của các ngươi, nơi đây Đôn Kihôtê khóc than vì phải xa cách nàng Đulxinêa làng Tôbôxô.

Nơi đây có một tình nhân chung thủy nhất đang lánh mặt người yêu; chàng đã gặp bao nỗi đắng cay mà không hiểu duyên cớ vì đâu.

Một mối tình vô cùng ác nghiệt đang giày vò tâm can chàng; nước mắt tràn đầy, nơi đây Đôn Kihôtê khóc than vì phải xa cách nàng Đulxinêa làng Tôbôxô.

Chàng đi tìm kiếm chuyện phiêu lưu mạo hiểm trên núi cao chót vót, trong rừng thẳm khe sâu, và đã gặp những điều bất hạnh.

Tình yêu không dịu dàng đối với chàng và đã dùng gậy cứng quật vào đầu chàng; nơi đây Đôn Kihôtê khóc than vì phải xa cách nàng Đulxinêa làng Tôbôxô".

Những người tìm ra bài thơ này đã không nhịn được cười vì thấy Đôn Kihôtê thêm hai chữ làng Tôbôxô sau tên Đulxinêa; họ đoán rằng chàng phải ghi thêm làng Tôbôxô sau tên Đulxinêa để cho bài thơ dễ hiểu. Quả thật như vậy vì sau đó, chính tác giả cũng đã tự nhận. Như đã nói, chàng làm nhiều bài nhưng chỉ có bài này còn nguyên vẹn.

Đôn Kihôtê cứ tha thẩn trên núi, lúc làm thơ, lúc thở vắn than dài, lúc kêu gọi thần đất, thần rừng, thần suối, thần Êcô đau khổ và sướt mướt, cầu xin các vị đó lắng tai nghe, giải đáp và an ủi chàng; có lúc chàng đi hái cỏ để ăn trong khi chờ Xantrô quay trở về. Và nếu bác giám mã về chậm không phải ba ngày mà ba tuần, chắc chắn mặt mũi chàng hiệp sĩ Mặt Buồn sẽ quắt queo lại, đến mẹ đẻ của chàng cũng chẳng nhận ra được.

Nhưng thôi, mặc cho chàng làm thơ và than vãn; bây giờ hãy kể về Xantrô và sứ mệnh của bác. Ra khỏi dãy núi Môrêna, Xantrô theo đường cái quan nhằm hướng làng Tôbôxô thẳng tiến; ngày hôm sau, bác tới cái quán trọ mà mấy ngày trước chẳng may bác đã bị tung lên vật xuống. Thoạt nhìn thấy nó, bác đã tưởng như mình đang bay bổng trên trời; bác không muốn vào mặc dù giờ này nên vào và phải vào vì là giờ ăn; đã thế, bác đang thèm một bữa ăn nóng sốt vì đã bao ngày nay phải ăn toàn đồ nguội.

Bụng đói bắt buộc Xantrô phải đi lại cái quán trọ đó mặc dù bác vẫn chưa biết có nên vào hay không; còn đang phân vân, bỗng từ trong quán có hai người bước ra; họ nhận ra bác ngay và nói với nhau:

- Này, ngài cử, người cưỡi ngựa kia mà bà quản gia của chàng hiệp sĩ nhà ta bảo là đã đi theo chủ, làm giám mã, phải chăng là Xantrô Panxa?

- Đúng rồi, ông cử đáp; và con ngựa kia chính là của chàng Đôn Kihôtê của chúng ta đó.

Họ tỏ ra rất thông thạo vì hai người này chính là Cha xứ và bác phó cạo cùng làng với Đôn Kihôtê, những người đã lục soát và kiểm tra tủ sách của chàng. Sau khi đã nhận ra Xantrô Panxa và con Rôxinantê, hai người chạy vội tới để hỏi tin tức về Đôn Kihôtê. Cha xứ gọi đích danh bác giám mã:

- Chào anh bạn Xantrô Panxa, tình hình ông chủ anh ra sao?

Xantrô Panxa cũng đã nhận ra hai người và bác định bụng không cho biết chỗ ở và tình hình của chủ. Bác chỉ đáp rằng chủ bác đang ở một nơi nọ và đang làm một việc gì đó rất quan trọng, bác không thể tiết lộ được vì còn muốn giữ đôi mắt ở trên mặt mình.

- Thôi đi Xantrô Panxa, bác phó cạo nói, nếu không cho chúng ta biết ông ấy ở đâu, chúng ta sẽ bảo và có quyền bảo rằng anh đã giết chủ để ăn cướp vì anh đang cưỡi con ngựa của ông ta. Thôi, hãy báo cáo về chủ nhân con vật này đi, nếu không hãy liệu hồn.

- Không việc gì phải dọa dẫm tôi cả vì tôi không cướp của giết người. Con người ta sống chết đều do trời định. Ông chủ tôi đang tự hành phạt trong núi kia kìa.

Rồi bác thao thao kể về tình hình Đôn Kihôtê, về những chuyện phiêu lưu mạo hiểm đã xảy ra, về bức thư bác mang tới cho nàng Đulxinêa làng Tôbôxô, con gái Lôrenxô Corchuêlô, người yêu ngàn đời của Đôn Kihôtê. Nghe Xantrô kể, hai người lấy làm kinh ngạc lắm mặc dù họ chẳng lạ gì tính nết điên rồ của Đôn Kihôtê. Họ bảo Xantrô cho xem bức thư gửi nàng Đulxinêa làng Tôbôxô. Bác giám mã kể thêm là thư viết trong một quyển lưu niệm và chủ dặn khi tới một làng nào, phải nhờ người chép lại ngay. Được Cha xứ nhận lời chép hộ thật sạch sẽ, Xantrô bèn thò tay vào ngực tìm quyển sổ nhưng chẳng thấy đâu - ví thử bác có tìm đến bây giờ thì cũng chẳng thấy - bởi vì Đôn Kihôtê vẫn giữ có đưa cho bác đâu, mà bác cũng quên không hỏi lúc ra đi.

Không tìm thấy sổ, mặt Xantrô tái nhợt như người chết rồi; sau khi đã nắn bóp khắp người vẫn không thấy, bác lấy hai tay túm bộ râu vặt trụi hết nửa rồi thụi luôn sáu bảy quả đấm vào mặt mũi hộc cả máu ra. Cha xứ và bác phó cạo hỏi duyên cớ vì sao mà tự hành hạ như vậy, bác đáp:

- Duyên cớ vì sao ư? Thế là chỉ trong nháy mắt tôi mất toi ba con lừa con, mỗi con đáng giá cả một tòa lâu đài.

- Thế là thế nào? Bác phó cạo hỏi.

- Tôi đã đánh mất quyển lưu niệm trong có bức thư gửi Đulxinêa và một tấm phiếu do ông chủ tôi ký trong đó ngài dặn cô cháu gái trao cho tôi ba con trong số bốn, năm con lừa con nuôi ở nhà.

Xantrô kể cả vụ mất trộm con lừa. Cha xứ phải dỗ dành bác và bảo:

- Khi nào tìm thấy chủ anh, ta sẽ bảo ông ta làm lại một tấm phiếu khác viết trên giấy trắng cho hợp lệ vì không ai công nhận và thi hành những mệnh lệnh ghi trong sổ lưu niệm đâu.

Nghe nói vậy, Xantrô cũng nguôi dần; bác cũng chẳng lo đã đánh mất bức thư gửi cho Đulxinêa vì bác đã gần thuộc lòng và có thể đọc cho người khác chép lại bất cứ ở nơi nào và lúc nào.

- Xantrô, anh hãy đọc đi, bác phó cạo nói, chúng ta sẽ chép lại cho.

Xantrô gãi đầu gãi tai cố nhớ lại bức thư; bác co chân trái lên, rồi lại co chân phải, khi nhìn xuống đất, lúc ngước lên trời; cuối cùng, sau khi đã gặm hết nửa cái móng tay, khiến Cha xứ và bác phó cạo hết sức hồi hộp vì phải chờ đợi lâu, bác mới lên tiếng:

- Lạy Chúa, thưa ngài cử, tôi chỉ mong cho quỷ sứ tha hết chữ nghĩa trong thư mà tôi còn nhớ được. Tuy nhiên, bức thư mở đầu bằng câu: "Thưa quái nương".

- Không phải quái nương, bác phó cạo nói, chắc là quý nương đấy.

- Đúng rồi, Xantrô đáp. Nếu tôi không nhớ nhầm, bức thư viết tiếp như sau: "Kẻ mang nhiều vết thương, thiếu ngủ và đau khổ này xin hôn tay nàng, hỡi con người bạc bẽo và kém nhan sắc". Sau đó, hình như trong thư còn nói tới sức khỏe và bệnh tật gì đó, rồi dần dần đi tới kết thúc bằng câu: "Vì nàng phụng sự suốt đời, hiệp sĩ Mặt Buồn".

Cha xứ và bác phó cạo rất phục trí nhớ của Xantrô Panxa, tấm tắc khen mãi, và yêu cầu bác đọc lại bức thư hai lần nữa để họ học thuộc lòng, khi nào có dịp sẽ chép lại. Xantrô đọc luôn ba lần không lần nào giống lần nào. Sau đó, bác kể tiếp những chuyện phiêu lưu của chủ nhưng không hề đả động tới việc bác bị tung hê lên trời trong cái quán trọ này mà bác không muốn vào nữa. Bác còn nói thêm rằng sau khi chủ bác nhận được thư phúc đáp tốt lành của nàng Đulxinêa làng Tôbôxô, chàng sẽ lên đường mưu cầu trở thành hoàng đế hay xoàng ra cũng làm vua như hai thầy trò đã thỏa thuận với nhau. Theo bác, với một con người dũng cảm và một cánh tay dũng mãnh như Đôn Kihôtê, điều đó không có gì khó; rồi một khi đã lên ngôi, chủ bác sẽ cưới xin cho bác vì đến lúc đó, chắc là vợ bác đã chết rồi, không thể nào khác được; vợ mới của bác sẽ là cô hầu gái của hoàng hậu, ăn thừa tự một lãnh địa lớn trong đất liền chứ không phải ở giữa biển vì bác không thích sống ở đảo. Xantrô thốt ra những lời điên dại như vậy với một vẻ rất nghiêm trang, thỉnh thoảng lại chùi mũi, khiến Cha xứ và bác phó cạo lại một phen nữa kinh ngạc; họ cho rằng sự điên rồ của Đôn Kihôtê phải tới mức độ cao lắm nên mới lây sang cả bác giám mã đáng thương này. Tuy nhiên, hai người cũng chẳng buồn giải thích cho bác tỉnh ngộ vì để bác nói năng ngớ ngẩn như vậy cũng không làm hại gì mà lại vui tai. Họ bảo bác hãy cầu Chúa ban sức khỏe cho chủ với thời gian rất có thể chủ bác sẽ trở thành hoàng đế hay ít ra cũng giữ chức tổng giám mục hoặc một chức tước gì tương đương. Nghe thấy vậy, Xantrô nói:

- Thưa hai ngài, nếu chẳng may mọi sự việc đảo lộn và tự nhiên ông chủ tôi lại muốn làm tổng giám mục, không làm hoàng đế nữa, tôi muốn biết các vị tổng giám mục thường hay cho giám mã của họ những cái gì?

- Họ thường ban cho giám mã của họ một vài chức vụ, Cha xứ nói, hoặc giao cho trông coi phòng đồ thánh với một số lợi tức thường xuyên và một số bổng ngoại tương đương.

- Vậy thì người giám mã không được lấy vợ và ít nhất phải biết giúp lễ. Nếu quả như thế thì thật vô phúc quá vì tôi đã có vợ lại không biết một chữ cái nào kể từ chữ đầu tiên. Rồi đây, thân phận tôi sẽ ra sao một khi ông chủ tôi không muốn trở thành hoàng đế theo tục lệ của các hiệp sĩ giang hồ mà lại muốn làm tổng giám mục?

- Anh bạn Xantrô chớ lo, bác phó cạo nói; chúng tôi sẽ khuyên can chủ anh; nếu cần, chúng tôi sẽ làm cho ông ta phải suy nghĩ và quyết định làm hoàng đế chứ không làm tổng giám mục. Chúng tôi sẽ bảo ông ta: "Ông là một người dũng cảm hơn là một nhà thông thái, vì vậy làm hoàng đế hợp hơn".

- Tôi cũng nghĩ như vậy, Xantrô đáp, mặc dù có thể nói rằng ông chủ tôi làm việc gì cũng giỏi. Riêng tôi sẽ cầu Chúa xếp đặt sao cho ông ta ngồi đúng nơi đúng chỗ để tôi được hưởng thật nhiều bổng lộc.

- Anh nói năng khôn ngoan và chắc là sẽ hành động như một con chiên ngoan đạo. Nhưng công việc phải làm trước tiên là làm sao cứu chủ anh thoát khỏi cuộc đày ải vô ích kia như anh đã kể. Bây giờ, để tìm ra giải pháp và để giải quyết cái dạ dày, vì đã đến giờ ăn rồi, ta hãy vào trong quán này đã.

Xantrô mời hai người vào để bác đứng ngoài chờ, sau này bác sẽ nói lý do vì sao không vào và không tiện vào; bác nhờ họ mang ra một bữa ăn nóng cho bác và lúa mạch cho Rôxinantê. Hai người bèn vào trong quán và một lát sau, bác phó cạo mang đồ ăn ra cho Xantrô. Sau đó, Cha xứ và bác phó cạo bàn tính mưu kế để dụ Đôn Kihôtê ra khỏi núi Môrêna. Cha xứ nghĩ ra một kế rất thích hợp với tính tình của chàng hiệp sĩ cũng như với ý đồ của hai người: Cha sẽ mặc quần áo tiểu thư giang hồ còn bác phó cạo đóng vai giám mã thật giống, rồi hai người sẽ đến tìm Đôn Kihôtê; Cha xứ đóng giả một cô gái lâm nạn tới cầu cứu chàng; là một hiệp sĩ giang hồ dũng cảm, chắc chàng sẽ không từ chối; cô tiểu thư sẽ kể lể tình cảnh và mời chàng đi theo để rửa cho cô một mối nhục do một tên hiệp sĩ xấu xa đã gây ra; đồng thời cô cũng yêu cầu Đôn Kihôtê không bắt cô phải tháo cái mạng che mặt và hỏi han lôi thôi gì chừng nào chưa trị xong tên hiệp sĩ tồi tệ kia. Cha xứ tin chắc rằng Đôn Kihôtê sẽ vui lòng nhận tất cả những yêu cầu trên và bằng cách đó, họ sẽ kéo được chàng ra khỏi núi Môrêna, đưa về làng tìm thuốc men chữa bệnh điên cho chàng.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes


Chương XXVII

CHA XỨ VÀ BÁC PHÓ CẠO ĐÃ LÀM THẾ NÀO ĐỂ ĐẠT MỤC ĐÍCH, CÙNG NHỮNG SỰ VIỆC KHÁC ĐÁNG ĐƯỢC KỂ LẠI TRONG CUỐN TRUYỆN TRƯỜNG THIÊN NÀY


Bác phó cạo thấy ý kiến của Cha xứ không dở mà lại rất hay, và hai người bắt tay vào việc ngay. Họ hỏi mượn bà chủ quán váy và khăn trùm đầu; Cha xứ gửi lại làm tin cái áo thầy tu còn mới nguyên. Bác phó cạo lấy bộ lông đuôi màu hung hung của một con bò - mà chủ quán vẫn dùng để cài lược chải đầu 1 - tết thành bộ râu dài. Bà chủ quán hỏi vì sao lại phải mượn những thứ đó. Cha xứ kể vắn tắt về bệnh điên của Đôn Kihôtê, vì thế hai người phải dùng tới mưu kế này để đưa chàng ra khỏi núi. Vợ chồng chủ quán đoán ra ngay người điên đó là ông khách trọ có môn thuốc thần, chủ của anh giám mã đã bị tung hê lên trời; họ bèn kể lại cho Cha xứ về những chuyện đã xảy ra, kể cả sự việc Xantrô muốn giấu. Sau đó, bà chủ quán ra tay hóa trang giúp Cha xứ, mặc cho Cha một cái váy dạ có những sọc nhung đen thưa bề ngang bằng một gang tay, một chiếc áo nhung xanh viền sa-tanh trắng, cả váy lẫn áo không biết may từ thời tám hoánh nào. Không muốn để người khác quấn tóc hộ, Cha xứ tự mình đội một cái mũ trùm đầu bằng vải trắng vẫn dùng để ngủ đêm, quấn mấy vòng lụa đen quanh trán, lấy một miếng lụa khác làm cái mạng che kín mặt và râu; xong đâu đấy, ông chụp chiếc mũ thầy tu to vành lên đầu, dùng làm dù che nắng, khoác áo choàng lên người rồi leo lên con la theo cách của phụ nữ; bác phó cạo cũng nhảy lên lưng con la khác, bộ râu giả dài đến tận thắt lưng, nửa trắng nửa đỏ vì làm bằng lông đuôi của một con bò lang.

Xong xuôi, Cha xứ và bác phó cạo từ biệt mọi người trong quán; cô hầu Maritornêx tốt bụng hứa sẽ đọc một bài kinh cầu cho hai người đạt được kết quả tốt đẹp trong công việc rất khó khăn nhưng cũng rất hợp ý Chúa của họ. Vừa ra khỏi quán trọ, Cha xứ lại có ý kiến mới: ông nghĩ rằng mình là nhà tu hành, mặc giả gái, e bất tiện mặc dù ý đồ thì tốt; ông bèn ngỏ ý đó với bác phó cạo; ông nói:

- Này bác phó ơi, ta hãy đổi quần áo cho nhau, bác đóng vai cô tiểu thư bất hạnh đúng hơn, tôi sẽ đóng vai giám mã để khỏi xúc phạm đến tư cách nhà tu hành của tôi. Còn nếu bác không ưng thuận, tôi nhất quyết không tiến hành việc này nữa dù cho Đôn Kihôtê bị quỷ tha ma bắt đi.

Xantrô đi tới; nhìn hai người cải trang, bác không nín được cười. Thấy bác phó cạo vui lòng đổi vai, Cha xứ dặn bác cách thức phải làm và nói năng để thúc đẩy Đôn Kihôtê dời bỏ nơi chàng đã chọn để tự hành phạt một cách vô ích. Bác phó cạo đáp: "Dù ông không bảo, tôi cũng biết cách làm thôi". Bác phó muốn đợi đến khi nào sắp gặp Đôn Kihôtê mới bắt đầu cải trang, hai người bèn gấp quần áo và râu ria rồi theo Xantrô lên đường. Vừa đi, bác giám mã vừa kể lại cho họ nghe về cuộc gặp gỡ của thầy trò bác với anh chàng điên Carđêniô, nhưng không hề đả động tới chiếc rương cùng những vật dụng đã tìm thấy trong đó vì, tuy ngu đần, bác cũng không chê của.

Ngày hôm sau, ba người đi tới chỗ có những cành kim tước do Xantrô đánh dấu để tìm lối về với Đôn Kihôtê. Bác giám mã bảo Cha xứ và bác phó cạo: "Đã bắt đầu vào núi rồi, xin hai ông hãy mặc quần áo nếu việc làm đó có thể giải thoát cho ông chủ tôi". Trước đó, bác đã được hai người giải thích rằng chỉ có dùng mưu cải trang mới có thể cứu chủ bác ra khỏi tình cảnh bi đát mà chàng đã tự chuốc lấy; họ còn căn dặn bác không được để cho Đôn Kihôtê biết tung tích của họ, nếu có hỏi thì bảo là không quen biết; nếu Đôn Kihôtê hỏi đã trao thư cho Đulxinêa chưa (chắc chắn chàng sẽ hỏi), hãy trả lời là trao rồi nhưng vì không biết đọc biết viết, nàng chỉ nhắn miệng bảo chàng phải tới trình diện ngay vì có việc rất cần, nếu không đến sẽ bị khiển trách. Nếu bác làm đúng như vậy và hai người cũng thực hiện đúng kế hoạch đã đề ra, chắc chắn họ sẽ đưa Đôn Kihôtê ra khỏi cảnh khổ ải hiện tại để cho chàng có thể lên đường mưu cầu trở thành vương đế; Cha xứ khuyên bác không nên lo ngại gì vì chàng sẽ không làm tổng giám mục đâu. Xantrô nghe và ghi sâu những lời của Cha xứ trong đầu; bác hết sức cảm ơn hai người đã có ý tốt muốn khuyên chủ mình làm hoàng đế hơn là làm tổng giám mục vì bác nghĩ rằng các vị hoàng đế có khả năng ban cho giám mã của họ nhiều bổng lộc hơn các vị tổng giám mục giang hồ. Bác ngỏ ý muốn đi gặp Đôn Kihôtê trước; theo như kế hoạch đã định, bác sẽ bảo chàng rằng nàng Đulxinêa muốn gặp; nếu chàng chịu nghe theo và rời bỏ chốn này thì sẽ đỡ công cho Cha xứ và bác phó cạo. Hai người thấy ý kiến hay và họ quyết định chờ cho tới lúc Xantrô quay trở lại sau khi đã gặp chủ.

Sau đó, Xantrô đi vào trong núi; Cha xứ và bác phó cạo ở lại chờ trong một thung lũng có một dòng suối nhỏ chảy qua và có bóng mát của núi cao cây to xung quanh. Lúc này đang giữa tháng Tám và vào mùa này, ở trong núi rất nóng, nhất là vào khoảng ba giờ chiều; tuy nhiên, chỗ hai người dừng lại nghỉ vẫn mát mẻ khiến họ có thể chờ Xantrô một cách thoải mái. Đang lúc hai người nghỉ ngơi dưới bóng mát, bỗng đâu vẳng lại một tiếng hát trong trẻo êm ái, không có đàn đệm theo. Họ lấy làm ngạc nhiên lắm vì nghĩ rằng ở nơi này, làm gì có người hát hay như vậy. Tuy người ta vẫn thường bảo rằng ở chốn sơn lâm có những người chăn cừu có giọng rất tốt nhưng đó chẳng qua chỉ là các nhà thơ nói quá mà thôi. Hai người càng kinh ngạc khi nhận thấy lời ca là một bài thơ do những người ở thị thành chứ không phải do những người chăn cừu cục mịch soạn ra. Dưới đây là những câu thơ họ đã nghe được:

"Ai làm nhục cuộc đời ta? Sự khinh miệt. Ai làm ta thêm đau khổ? Sự ghen tuông. Ai thử thách lòng kiên nhẫn của ta? Sự xa vắng. Nếu vậy, không thuốc nào chữa khỏi nỗi đau buồn của ta vì sự khinh miệt, sự ghen tuông và sự xa vắng giết chết niềm hy vọng trong lòng ta.

Ai gây cho ta nỗi đau khổ này? Tình yêu. Ai tước bỏ vinh quang của ta? Sự may rủi. Ai muốn ta buồn phiền? Trời xanh. Nếu vậy, ta e rằng tai họa kỳ lạ này sẽ khiến ta phải chết vì tình yêu, sự may rủi và Trời xanh đều mang lại cho ta sự bất hạnh.

Ai sẽ làm cho số phận ta đỡ khổ đau? Cái chết. Ai được hưởng hạnh phúc của tình yêu? Sự phụ bạc. Ai chữa khỏi bệnh tương tư? Sự điên rồ. Nếu vậy, thật là ngốc nghếch nếu muốn tiêu diệt dục vọng của con người một khi những vị thuốc là cái chết, sự phụ bạc và sự điên rồ".

Thời gian, cảnh hoang vắng, âm thanh trong trẻo và tài nghệ của người hát, tất cả khiến cho hai thính giả phải khâm phục và sướng tai. Họ chờ đợi được nghe một bài khác; chờ mãi không thấy gì, Cha xứ và bác phó cạo định đứng dậy đi tìm con người có một giọng ca hay như vậy bỗng đâu tiếng hát lại vang lên:

"Hỡi tình bằng hữu thiêng liêng, bằng đôi cánh nhẹ nhàng mi đã bay bổng lên thiên đàng sống giữa những linh hồn đã được hưởng phúc lành, và dưới trần gian này chỉ còn lại cái vỏ bề ngoài của mi thôi.

Từ trên thượng giới, đôi lúc mi phác họa cho chúng ta một cuộc sống hòa hợp, và qua bức màn mỏng hiện ra những cảnh tượng yên vui nhưng trong thực tế rất buồn thảm.

Hỡi tình bằng hữu, hãy từ giã cõi trời xuống đây, đừng để lũ ác nhân đội lốt mi hãm hại những người lành.

Nếu mi không bắt chúng lột bỏ cái vỏ bề ngoài của mi ra, chẳng bao lâu thế giới này sẽ trở lại thời kỳ hỗn mang buổi sơ khai".

Tiếp theo bài hát có những tiếng thở dài não nuột. Hai người lại lắng tai chờ một bài khác nhưng chỉ nghe thấy những tiếng thở dài thườn thượt. Rất muốn biết con người có giọng hát hay và những lời than vãn thảm thiết đó là ai, họ bèn đi tìm; đi được một quãng, vừa mới vòng một quả núi bỗng thấy một người hình dạng mặt mũi giống như Xantrô đã tả khi kể chuyện về chàng Carđêniô. Chợt nhìn thấy Cha xứ và bác phó cạo, người này không hề tỏ ra ngạc nhiên; chàng chỉ lặng yên cúi gục đầu tỏ vẻ suy nghĩ. Nhận ra Carđêniô và đã biết câu chuyện bất hạnh của chàng, Cha xứ, vốn nói năng lịch thiệp, bèn tiến lại gần lựa lời khuyên chàng hãy từ bỏ cuộc sống khổ cực để khỏi thiệt thân vì không có bất hạnh nào lớn hơn cái chết. Lúc này, Carđêniô đang tỉnh táo, đầu óc không bị những cơn điên làm cho phát rồ dại; thấy có hai người quần áo tinh tươm khác hẳn những người dân trong vùng núi hoang vu này, chàng cũng lấy làm ngạc nhiên lắm, nhất là khi thấy họ biết chuyện riêng của mình khá tường tận (qua những lời Cha xứ vừa nói) Chàng bèn đáp:

- Thưa hai ngài, tôi không quen biết hai ngài, nhưng rõ ràng Trời kia thương kẻ lương thiện - và nhiều khi cả những kẻ bất lương nữa - nên đã phái các ngài tới nơi thâm sơn cùng cốc không một bóng người này để gặp tôi mặc dù tôi không xứng đáng được hưởng ân huệ đó; bằng những lời lẽ chí tình, các ngài đã chỉ cho tôi thấy rằng tôi đang sống một cách điên rồ, và đang muốn giúp tôi trở về một cuộc sống yên lành. Nhưng có một điều mà các ngài chưa rõ, đó là một khi thoát khỏi tình cảnh khổ cực này, tôi sẽ lại gặp một sự bất hạnh lớn hơn. Tôi nói vậy, chắc các ngài cho tôi là một người nói năng quàng xiên, thiếu suy xét. Thực ra, điều đó không có gì lạ cả vì tự tôi cảm thấy rằng những nỗi bất hạnh của tôi luôn luôn ám ảnh tôi và có thể đưa tôi tới chỗ hủy diệt không sao tránh khỏi, khiến con người tôi trơ như đá, mất hết trí khôn. Tôi cũng hiểu được sự thật mỗi khi có người chỉ cho tôi biết những việc tôi đã làm trong lúc lên những cơn điên khủng khiếp; tôi chỉ còn biết than thân trách phận và trình bày rõ nguyên nhân để thanh minh với họ về những hành động rồ dại của tôi. Gặp những người hiểu biết, họ sẽ thông cảm sự điên rồ của tôi một khi đã rõ nguyên nhân, và nếu họ không có cách gì cứu vớt tôi, ít ra họ cũng không chê trách tôi; trước những hành động điên rồ của tôi, họ chỉ biết thương xót nỗi bất hạnh của tôi. Nếu hai ngài tới đây cũng với ý tốt như vậy, trước khi nghe những lời vàng ngọc của hai ngài, xin phép cho tôi được kể hầu hai ngài về câu chuyện bất hạnh của tôi; có lẽ sau khi nghe, các ngài sẽ thấy không cần phải an ủi một nỗi buồn đau mà không một lời khuyên nhủ nào có hiệu lực cả.

Cha xứ và bác phó cạo đang rất muốn nghe Carđêniô kể rõ sự tình, bèn mời chàng kể ngay, hứa sẽ làm đúng theo yêu cầu, dù là để cứu chữa hay để an ủi chàng. Carđêniô bắt đầu kể câu chuyện thương tâm của mình; chàng cũng kể tỉ mỉ như đã kể cho Đôn Kihôtê và ông lão chăn dê nghe mấy hôm trước; chỉ có điều là lần trước chàng mới kể tới đoạn nói về ông thầy thuốc Êlixabát thì Đôn Kihôtê ngắt lại vì muốn bảo toàn danh dự cho giới hiệp sĩ. Lần này, Carđêniô kể được hết đầu đuôi câu chuyện vì may sao chàng không lên cơn điên đột xuất nào. Khi nhắc tới lá thư mà Đôn Phernanđô tìm thấy trong quyển Amađix nước Gôlơ, Carđêniô đọc lại nguyên văn như sau:

"Luxinđa gửi chàng Carđêniô,

Mỗi ngày em lại tìm thấy ở chàng những đức tính mới khiến em càng thêm quý trọng chàng. Nếu như chàng muốn em trả được món nợ này mà không phạm tới danh dự của em, chàng có thể làm được không khó khăn gì. Cha em biết chàng và rất thương em; nếu quả thật chàng quý mến em như chàng đã nói và như ý em nghĩ, cha em sẽ chiều theo ý muốn chính đáng của chàng, và đó cũng là điều mong muốn của em".

- Như tôi đã kể, Carđêniô nói tiếp, bức thư đó đã thúc đẩy tôi xin cưới Luxinđa làm vợ; chính bức thư đó khiến cho Đôn Phernanđô đánh giá Luxinđa là một người đàn bà khôn ngoan hiểu biết nhất đời, và cũng chính bức thư đó đã thúc giục y tìm cách hãm hại tôi trước khi tôi thực hiện được ý định của mình. Tôi nói với Phernanđô rằng cha Luxinđa còn muốn cha tôi phải đến hỏi, riêng tôi không dám yêu cầu cha tôi làm việc đó sợ người không chấp nhận. Thực ra, không phải cha tôi không biết rằng phẩm giá, đức hạnh, từ tâm và nhan sắc của Luxinđa có thể làm rạng rỡ bất cứ một dòng họ nào ở nước Tây Ban Nha này, nhưng tôi hiểu rằng cha tôi chưa muốn cưới vợ sớm cho tôi chừng nào chưa biết ý đồ của ngài công tước Ricarđô đối với tôi. Cuối cùng, tôi nói với Đôn Phernanđô rằng tôi không dám trình bày với cha tôi vì lý do đó và những lý do khác nữa mà tôi cũng không biết rõ, nghĩ rằng điều mong ước của tôi không bao giờ được thực hiện. Nghe tôi nói, Đôn Phernanđô hứa sẽ nói lại với cha tôi và thuyết phục người đến nói chuyện với cha Luxinđa. Hỡi Mariô đầy tham vọng, hỡi Catilina tàn ác, hỡi Xila nham hiểm, hỡi Galalon dối trá, hỡi Vêiđô phản phúc, hỡi Hulian hằn thù, hỡi Giuđa tham tàn! Hỡi tên phản phúc, tàn ác, hằn thù và dối trá kia! Con người đáng thương đã vô tình thổ lộ hết can tràng với mi có làm gì hại mi đâu? Ta có xúc phạm mi đâu? Phải chăng những câu ta nói hoặc những lời ta khuyên mi chỉ làm tăng danh giá thể diện của mi? Nhưng thôi, than vãn nỗi bất hạnh làm chi! Trước một số mệnh tàn ác phũ phàng trút xuống đầu ta, không một sức mạnh nào trên đời này có thể cản nổi và cũng không ai có tài gì chống đỡ được. Ai có thể ngờ rằng Đôn Phernanđô, một hiệp sĩ xuất sắc, tài hoa, đã chịu ơn ta, một con người có đủ khả năng để đạt được tất cả những mong ước về tình yêu, lại có dã tâm chiếm đoạt người tình độc nhất của ta mà chính bản thân ta cũng chưa làm chủ. Nhưng thôi, ta hãy miễn nói dài dòng và hãy kể nốt câu chuyện bất hạnh này. Thưa hai ngài, hình như Đôn Phernanđô cảm thấy sự có mặt của tôi làm trở ngại cho mưu đồ xấu xa của y nên y đã phái tôi đi gặp anh trai của y với lý do nhờ tôi xin tiền để mua ngựa; y đã hỏi mua sáu con ngựa đúng vào cái ngày y hứa sẽ nói chuyện với cha tôi. Thực ra y đã cố tình đẩy tôi đi xa để dễ bề thực hiện ý đồ đen tối. Tôi có đoán ra sự phản bội đó không? Có lúc nào tôi phảng phất nghĩ tới không? Hoàn toàn không. Tôi nhận lời rất vui vẻ và mừng cho y đã mua được một món hời. Đêm hôm đó, tôi gặp Luxinđa và kể lại cuộc trao đổi giữa Đôn Phernanđô với tôi: tôi bảo nàng hãy tin chắc rằng những điều mong ước tốt lành và chính đáng của nàng cũng như của tôi sẽ thành sự thật. Cũng như tôi, nàng không hề nghĩ rằng Đôn Phernanđô mang lòng phản trắc và nàng chỉ dặn tôi đi cho nhanh chóng vì sau khi cha tôi đến gặp cha nàng, những mong muốn của chúng tôi sẽ được thực hiện ngay. Không hiểu sao, dặn dò tôi xong, tự nhiên nàng ứa nước mắt, cổ họng nghẹn lại, không nói thêm được điều gì với tôi nữa trong lúc hình như nàng còn đang muốn nói nhiều. Tôi lấy làm ngạc nhiên lắm vì xưa nay, tôi chưa hề thấy nàng như vậy bao giờ. Trước kia, mỗi lần chúng tôi gặp nhau - do sự may mắn hoặc tài tháo vát của tôi - trong câu chuyện giữa hai người không bao giờ xen lẫn những tiếng khóc than hoặc những ý nghĩ ghen tuông, lo sợ. Những lần đó, tôi chỉ cảm thấy hạnh phúc tràn đầy vì Chúa đã ban cho tôi một người yêu như nàng; tôi ca ngợi nhan sắc, đức hạnh và trí tuệ của nàng; nàng cũng ca ngợi tôi bằng những lời xưa nay người ta vẫn thường dành cho người mình yêu dấu nhất. Rồi chúng tôi kể cho nhau nghe không chán tai những chuyện vu vơ, những chuyện về ông hàng xóm này hoặc bà láng giềng nọ. Trong những phút đó, qua chấn song cửa, tôi chỉ dám mạnh bạo tới mức cầm bàn tay xinh xắn và trắng muốt của nàng đưa lên môi, mặc cho nàng cưỡng lại. Đêm trước hôm tôi ra đi, nàng khóc than rền rĩ rồi bỏ vào phòng khiến tôi bàng hoàng, bối rối, lo âu vì thấy nàng lần đầu tiên tỏ ra buồn rầu, đau khổ. Tuy nhiên, tôi vẫn nuôi hy vọng, nghĩ rằng chỉ vì nàng quá yêu tôi, vả chăng xưa nay sự xa cách vẫn làm cho những cặp tình nhân đau khổ. Tôi buồn rầu ra đi, lòng đầy những ý nghĩ lo âu, nghi ngại mà không hiểu vì sao. Đó cũng là những triệu chứng báo hiệu một sự bất hạnh đang chờ đợi tôi.

Tôi tới gặp anh trai Đôn Phernanđô và trao thư cho ông ta; ông ta giữ tôi lại tám ngày ở một nơi kín đáo, không cho ngài công tước biết vì trong thư, Đôn Phernanđô dặn anh đừng để cho cha biết chuyện xin tiền. Tất cả chỉ do mưu mô của tên Đôn Phernanđô quỷ quyệt vì thực ra ông này có sẵn tiền và có thể đưa cho tôi mang về ngay được. Tôi đã định cưỡng lại vì không thể chịu được tám ngày xa cách Luxinđa, nhất là khi tôi ra đi, nàng đang buồn phiền như đã kể trên. Tuy nhiên, tôi đã phục tùng như một người đầy tớ trung thành mặc dù biết rằng điều đó sẽ mang lại cho tôi chuyện chẳng lành. Bốn hôm sau, có một người đến tìm tôi và trao cho tôi một bức thư; nhìn chữ ghi địa chỉ, tôi biết ngay là thư của Luxinđa. Tôi lật đật mở, đoán chừng có chuyện gì quan trọng đã xảy ra khiến nàng phải viết thư trong lúc xa nhau, vì xưa nay nàng rất ít viết thư khi chúng tôi ở gần nhau. Trước khi xem, tôi yêu cầu người mang thư cho biết ai đã nhờ mang bức thư đó và đi đường hết bao lâu. Ông ta trả lời là một buổi trưa đang đi ngoài phố bỗng có một người con gái đứng ở cửa sổ gọi lại; cô ta vừa khóc vừa vội vàng nói: "Anh của tôi ơi, nếu anh là một tín đồ Kitô giáo, hãy vì Chúa mang ngay thư này tới địa chỉ ghi ngoài bì mà ai cũng biết. Anh sẽ làm một việc phúc đối với Chúa. Xin hãy cầm món tiền nhỏ bọc trong chiếc khăn tay này để dùng trong khi đi đường". Nói xong, người mang thư kể tiếp, cô ta ném qua cửa sổ chiếc khăn tay trong có một trăm đồng tiền và một chiếc nhẫn vàng mà tôi đang đeo đây, cùng với bức thư này. Sau khi thấy tôi đã cầm thư và chiếc khăn tay và ra hiệu rằng tôi nhận lời làm việc đó, cô ta biến mất sau cửa sổ. Về phần tôi, vì được trả công hậu hĩ, nhìn địa chỉ thấy ông cũng là người quen biết, vả chăng động lòng trước những giọt nước mắt của cô gái xinh đẹp, tôi đã mang thư này đến cho ông không nhờ ai cả; trong mười sáu tiếng đồng hồ sau khi cô ta gửi tôi bức thư, tôi đã vượt qua mười tám dặm đường để tới đây". Trong lúc người mang thư tốt bụng kể, tôi hết sức chăm chú nghe, hai chân run bần bật hầu như đứng không vững. Tôi mở thư ra thì thấy những hàng chữ sau đây:

"Đôn Phernanđô hứa với chàng rằng y sẽ bảo cha của chàng đến nói chuyện với cha em, nhưng thực ra y đã làm việc đó cho bản thân. Xin báo để chàng biết rằng y đã xin cưới em làm vợ. Cha em tưởng Đôn Phernanđô xứng đáng hơn chàng nên đã nhận lời. Tình hình gay go vì trong hai ngày nữa sẽ làm lễ thành hôn, làm rất kín đáo, chỉ có Trời và một vài người thân thuộc biết thôi. Chàng hãy tưởng tượng tâm trạng em lúc này ra sao. Nếu chàng thấy cần trở về, xin chàng định liệu. Lòng em đối với chàng như thế nào, xin hãy chờ sự việc trả lời. Cầu Chúa cho thư này tới tay chàng trước khi em buộc phải đặt tay em vào tay của kẻ đã bội ước".

Những lời lẽ trong thư thúc tôi lên đường ngay, không chờ trả lời và tiền nong gì nữa. Tôi hiểu rằng Đôn Phernanđô phái tôi đi gặp anh trai của y không phải để lấy tiền mua ngựa mà trái lại, để cho y thỏa mãn sở thích. Phần căm giận Đôn Phernanđô, phần lo mất một vưu vật mà tôi đã giành được sau bao năm khó nhọc, tôi như có cánh bay và ngày hôm sau đã về tới tỉnh nhà đúng vào lúc có thể đi gặp Luxinđa được. Không để cho ai biết, tôi gửi con la thuê tại nhà người đã mang thư hộ rồi đi gặp Luxinđa. May sao, nàng đang đứng bên song cửa, nơi hẹn hò cũ của chúng tôi. Luxinđa nhận ra tôi ngay và tôi cũng nhận ra nàng, nhưng thái độ của hai người không giống như mọi ngày. Than ôi! Thử hỏi có ai trên đời này dám vỗ ngực tự khoe rằng mình đã hiểu thấu lòng dạ đàn bà? Chắc chắn không có ai. Trông thấy tôi, Luxinđa nói: "Carđêniô, em khoác áo cưới rồi. Tên phản bội Đôn Phernanđô và người cha tham lam của em cùng một vài người làm chứng đang chờ em trong phòng, nhưng họ không được chứng kiến lễ cưới của em đâu mà sẽ chứng kiến cái chết của em. Anh ơi, chớ buồn làm chi; hãy có mặt trong giờ phút hy sinh của em. Nếu những lời nói của em đã vô hiệu quả, lưỡi dao em giấu trong người đây sẽ chặn được quyền lực của những kẻ khác bằng cách kết liễu cuộc đời em để anh hiểu cho tấm lòng của em đối với anh trước kia cũng như bây giờ". Tôi cuống cuồng đáp vì sợ không còn thời gian: "Em ơi, hành động của em sẽ chứng minh cho những lời nói đó. Em có dao để giữ vững lời hứa, anh cũng có gươm để bảo vệ em hoặc để tự sát nếu số mệnh không ủng hộ chúng ta". Tôi không biết nàng có nghe rõ lời tôi nói không vì bên trong thấy có người gọi nàng ra, kẻo chú rể đang chờ. Từ lúc ấy, đêm tối của sự đau khổ đã xuống với tôi và mặt trời của hạnh phúc đã tắt trong lòng tôi; mắt tôi như không trông thấy ánh sáng nữa và đầu óc tôi trở thành vô tri vô giác. Tôi không tìm ra lối vào nhà nàng và cũng chẳng biết đi đâu, nhưng chợt nghĩ rằng sự có mặt của tôi rất quan trọng trong giờ phút gay go này, tôi cố sức trấn tĩnh và bước vào nhà nàng. Tôi quen thuộc đường đi lối lại, vả chăng trong nhà mọi người đang bận rộn, nên tôi vào lọt trong phòng không ai biết; tôi nấp trong một góc cửa sổ có hai bức rèm che và từ chỗ đó, tôi nhìn được khắp phòng mà không bị lộ. Có ai biết tim tôi đập mạnh như thế nào trong lúc đứng ở đó không? Và tôi đã suy nghĩ gì, có những nhận xét gì? Tôi đã nghĩ tới nhiều chuyện lắm, thiết tưởng không nói ra hết được, và cũng không nên nói làm chi. Chỉ cần biết rằng khi đó chú rể bước vào phòng, y phục bình thường như mọi ngày. Người thay mặt cho nhà trai là anh con bác ruột của Luxinđa; trong phòng không có ai lạ ngoài đám gia nhân. Mấy phút sau, từ trong một phòng nhỏ, Luxinđa bước ra cùng với mẹ và hai cô người hầu. Y phục và đồ trang sức của nàng thật xứng với dòng dõi và nhan sắc của nàng, và cách trang điểm cũng thật là khéo. Thú thực, khi đó tôi không còn tâm trí để phân biệt nàng mặc và đeo những gì, chỉ thấy màu đỏ và trắng cùng những ánh lóng lánh của châu báu trên người nàng, mớ tóc vàng của nàng óng ánh một cách khác thường, làm át cả những viên ngọc quý và bốn bó đuốc đang cháy trong phòng. Ôi, ký ức, kẻ tử thù của sự yên tĩnh trong lòng ta! Gợi lại làm chi nữa hình ảnh tuyệt diệu của kẻ thù yêu dấu của ta! Ký ức độc ác! Hãy gợi lại cho ta những hành động xấu xa của con người đó; nếu ta không trả được thù này, ít ra ta cũng vui lòng đi tìm cái chết. Thưa hai ngài, mong rằng những câu nói lạc đề của tôi không làm nhàm tai hai ngài. Nỗi đau khổ của tôi quá lớn, không thể kể vắn tắt được, và tôi cảm thấy mỗi sự việc đều đáng được nhắc lại một cách tỉ mỉ.

Cha xứ vội đáp lại rằng không những họ không thấy nhàm tai mà trái lại, họ rất muốn nghe vì những chi tiết đó đáng được kể lại và cũng đáng chú ý như toàn bộ câu chuyện.

Carđêniô kể tiếp:

- Khi mọi người đã có mặt đầy đủ trong phòng, Cha xứ bước vào; ông cầm tay hai người theo thủ tục phải làm trong các buổi lễ như vậy, và hỏi: "Bà Luxinđa, bà có muốn nhận ông Đôn Phernanđô là chồng chính thức theo thể thức của Giáo hội không?" Khi đó, tôi thò cả đầu cả cổ ra khỏi bức rèm che để nghe Luxinđa trả lời; hai tai tôi giỏng ra, lòng dạ bối rối, vì câu trả lời đó sẽ quyết định sự sống chết của tôi. Ôi, giá như lúc đó tôi bước ra khỏi chỗ nấp và nói: "Luxinđa, Luxinđa, hãy suy nghĩ kỹ và nhớ đến mối tình của đôi ta; hãy nghĩ rằng em đã thuộc về anh chứ không thuộc về người nào khác cả. Nếu em trả lời tức là em kết liễu đời anh. Còn mi, hỡi tên Đôn Phernanđô phản trắc, kẻ chiếm đoạt hạnh phúc của ta, kẻ giết hại cuộc đời ta! Mi muốn gì? Mi mưu đồ gì? Hãy nhớ rằng Giáo hội không để cho mi như ý sở cầu đâu vì Luxinđa là vợ ta và ta là chồng nàng". Tôi điên rồi! Bây giờ, khi sự việc đã qua, tôi mới thấy rằng tôi đã không làm một việc đáng lẽ phải làm lúc đó. Mãi tới bây giờ, sau khi đã bị cướp mất của quý nhất, tôi mới nguyền rủa kẻ chiếm đoạt mà tôi có thể trả thù được nếu khi đó tôi cũng có đủ can đảm như hiện giờ tôi có đủ can đảm để khóc than! Thôi, tôi đã tỏ ra hèn nhát và ngu xuẩn nên cũng đáng chết nhục nhã, mang theo một mối hận lòng.
Thấy Luxinđa chậm trả lời, Cha xứ vẫn đợi; giữa lúc tôi tưởng nàng sẽ rút dao ra để thực hiện lời hứa, hoặc sẽ nói lên sự thật để khỏi phụ lòng tôi, bỗng đâu tôi nghe thấy một tiếng nói run run, yếu ớt: "Có, tôi muốn"; sau đó, Đôn Phernanđô cũng trả lời theo; y đeo nhẫn cưới vào tay nàng và thế là hai người đã chính thức kết duyên. Chú rể định ôm hôn cô dâu thì thấy cô ta để tay lên ngực rồi ngất đi, ngã vào lòng bà mẹ. Bây giờ, xin kể về tâm trạng tôi lúc đó. Sau khi nghe Luxinđa trả lời, tôi cảm thấy mọi hy vọng tiêu tan và những lời hứa của cô ta chỉ là giả dối; tôi nghĩ rằng sẽ không bao giờ lấy lại được hạnh phúc mà tôi vừa mất. Tôi như người mất trí, tưởng đâu đã bị trời đất ghét bỏ, không khí không đủ để than thở, nước không đủ để khóc lóc; chỉ có lửa cháy bùng dấy lên trong lòng tôi nỗi căm giận, hờn ghen. Thấy Luxinđa ngất, mọi người đều cuống quýt; mẹ nàng vội nới áo ra cho nàng khỏi ngạt thở thì thấy trên ngực nàng có một phong thư dán kín; Đôn Phernanđô bèn cầm lấy và đi lại gần một bó đuốc để đọc; đọc xong, y ngồi phịch xuống ghế, tay tì má có vẻ nghĩ ngợi, không hề để ý đến những người xung quanh đang chữa chạy cho Luxinđa hồi tỉnh.

Thấy mọi người đang bận rộn, tôi bỏ ra ngoài, không cần biết có ai nhìn thấy mình không, sẵn sàng làm một hành động điên rồ để cho mọi người hiểu rằng một sự phẫn nộ chính đáng đã thúc đẩy tôi trừng phạt tên Đôn Phernanđô phản bội và cả con người còn đang mê man bất tỉnh kia. Nhưng có lẽ ngôi sao chiếu mệnh của tôi muốn dành cho tôi những sự bất hạnh lớn hơn - nếu trên đời này còn có bất hạnh nào lớn hơn - nên tự nhiên lúc đó, và cũng chỉ có một lúc đó thôi, đầu óc tôi trở nên tỉnh táo; đáng lẽ phải trừng phạt những kẻ thù không đội trời chung của tôi (một việc dễ làm bởi không ai để ý tới tôi), tôi đã tự trừng phạt mình một cách nghiêm khắc hơn nhiều. Nếu những kẻ thù của tôi bị tôi giết chết, chúng chỉ phải chịu đựng hình phạt trong phút chốc thôi; trái lại, tôi phải chịu đựng một sự giày vò dai dẳng, sống cũng như chết. Cuối cùng, tôi bỏ ra đi và tới nhà người mang thư để lấy con la. Tôi nhờ ông ta thắng yên cương hộ rồi leo lên, không buồn chào ông ta nữa. Tôi ra khỏi tỉnh, không dám quay đầu lại nhìn. Khi tới một cánh đồng, một mình giữa đêm khuya thanh vắng, không có ai nghe và nhìn thấy, tôi không tiếc lời nguyền rủa Luxinđa và Đôn Phernanđô như để trút hết nỗi hận lòng do chúng gây ra. Tôi nhiếc Luxinđa là tàn nhẫn, phụ bạc, dối trá, vô ơn, tham của, thấy Đôn Phernanđô giàu sang đã híp mắt lại, bỏ rơi tôi để đi theo một kẻ gặp may mắn hơn tôi về tiền tài. Sau khi nguyền rủa, nhiếc móc chán chê, tôi lại thấy nàng vô tội vì nàng là một cô gái cấm cung, xưa nay chỉ biết vâng lời, tất nhiên phải chiều theo ý cha mẹ, nhất là người chồng do cha mẹ gả cho lại danh giá, giàu có, khôi ngô, tuấn tú; nếu nàng từ chối, người ta sẽ nghĩ rằng nàng mất trí hoặc đã nặng lời thề thốt với ai, và như vậy còn gì là thanh danh của nàng nữa. Nhưng rồi tôi lại tự bảo: "Nếu nàng thưa với cha mẹ rằng nàng đã yêu tôi, chắc cha mẹ nàng cũng phải nhận rằng nàng biết kén chọn vì trước khi Đôn Phernanđô cầu hôn, ông bà ta cũng đã phải tính toán và thấy rằng không thể gả nàng cho ai hơn tôi được. Vả chăng, đến phút cuối cùng phải trao tay cho Đôn Phernanđô, nàng vẫn có thể bịa ra rằng nàng đã là vợ tôi bởi vì tôi sẵn sàng công nhận tất cả những lời của nàng kia mà". Cuối cùng, tôi kết luận là vì không có tình yêu với tôi, vì không có đầu óc, vì tham của và danh vọng nên nàng đã quên lời hứa, và những lời nàng nói trước kia chẳng qua chỉ là giả dối để nuôi hy vọng cho tôi mà thôi.

Tôi đi mãi trong đêm khuya tịch mịch với ý nghĩ đó trong đầu và tới sáng thì đến dãy núi này; tôi tiếp tục đi trong ba ngày liền, không có đường cũng đi; cuối cùng tôi tới một cánh đồng cỏ, không biết ở quãng nào; tôi nhờ những người chăn cừu chỉ cho biết nơi nào hoang vu vắng vẻ nhất trong núi; họ chỉ chỗ này; tôi bèn lần vào với ý định kết liễu cuộc đời. Tại đây, con la của tôi bị chết vì mệt và đói, hay có lẽ đúng hơn, nó chết đi để khỏi phải mang trên lưng một gánh nặng không có ích gì cho ai. Tôi đành phải đi bộ, rồi lả đi vì mệt và đói, không có ai và cũng không cần ai cứu giúp. Tôi không biết đã nằm bao lâu dưới đất; khi tỉnh dậy thấy bụng không đói nữa và bên cạnh có mấy bác chăn dê mà tôi đoán chừng là những người đã săn sóc tôi. Họ kể lại là đã thấy tôi nằm mê man bất tỉnh dưới đất, mồm nói những câu lảm nhảm tỏ ra là một người loạn trí. Từ lúc đó, tôi cảm thấy đầu óc không còn minh mẫn mà trái lại, trở nên bạc nhược, rối loạn khiến tôi có những hành động điên dại; tôi xé quần xé áo, kêu gào giữa rừng sâu, nguyền rủa số phận, luôn mồm nhắc tới tên của kẻ thù yêu dấu, với ý nghĩ kết liễu cuộc đời mình bằng những lời than vãn. Khi tỉnh lại, tôi cảm thấy mệt mỏi, rã rời, không buồn nhúc nhích nữa.

Chỗ ở của tôi thường là hốc một cây sồi điển điển, đủ để che tấm thân khốn khổ này. Những người chăn bò và dê ở đây thương tình thường cưu mang tôi; họ để thức ăn trên đường đi và trên những hòn núi, nghĩ rằng tôi sẽ qua và trông thấy. Tuy tôi mất trí nhưng nhu cầu tự nhiên trong cơ thể khiến tôi đói bụng và buộc tôi phải đi kiếm ăn. Khi nào thấy tôi tỉnh táo, họ kể lại rằng có lần tôi xông ra đường cái dùng vũ lực cướp đoạt mặc dù họ sẵn sàng cho tôi những thực phẩm được tiếp tế từ trong làng tới cho họ. Cứ như vậy, tôi sống khốn khổ cùng cực cho tới khi nào Trời bắt tôi phải chết, hoặc làm cho tôi quên hẳn sắc đẹp và sự phản bội của Luxinđa cùng những hành động xấu xa của Đôn Phernanđô. Nếu ông Trời kia xóa sạch những kỷ niệm xưa trong đầu tôi và vẫn cho tôi làm người, chắc rằng tôi sẽ trở lại là một con người biết suy nghĩ; nếu không, tôi chỉ còn biết kêu trời cứu vớt linh hồn cho vì tôi không đủ tinh thần và sức lực để rút ra khỏi chốn rừng núi này mà tôi đã tự chọn làm nơi dung thân.

Thưa hai ngài, đó là câu chuyện cay đắng về nỗi bất hạnh của tôi. Như các ngài đã thấy, làm sao tôi không đau lòng tức giận được khi ôn lại chuyện cũ. Các ngài cũng chẳng nên nhọc lòng thuyết phục, khuyên nhủ tôi làm chi vì mọi lý lẽ đều không giúp ích gì cho tôi cả, khác nào một ông thầy thuốc giỏi muốn bốc thuốc nhưng con bệnh không chịu uống.

Thiếu Luxinđa, tôi không thiết sống nữa; nàng thuộc về tôi hoặc là phải thuộc về tôi, nhưng đã đi theo kẻ khác; đáng lẽ tôi được hưởng hạnh phúc nhưng đã tự chuốc lấy đau khổ. Bằng sự thay lòng đổi dạ, nàng đã buộc tôi phải chết. Bởi vậy, tôi sẽ chết cho nàng mát dạ hả lòng; và sau đây, người ta sẽ bảo rằng những kẻ bất hạnh khác còn may mắn hơn tôi vì họ tìm thấy niềm an ủi trong sự tổn thất không gì an ủi nổi; riêng tôi, sự tổn thất đó gây ra những sự giày vò đau khổ lớn hơn vì tôi nghĩ rằng nó còn đeo đuổi tôi mãi sau khi đã qua đời.

Carđêniô đã kể xong câu chuyện tình buồn thảm của mình. Cha xứ định tìm lời an ủi bỗng đâu có tiếng người than thở thảm thiết vang lên như sẽ kể trong phần bốn tiếp theo. Tới đây, nhà viết sử thông thái và thận trọng Amêtê Bênenhêli kết thúc phần ba của cuốn sách này.

--------------------------------
1Thời đó, dân chúng có thói quen cài lược vào đuôi bò hoặc ngựa.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes


Chương XXVIII

CHA XỨ VÀ BÁC PHÓ CẠO ĐÃ GẶP MỘT CHUYỆN LÝ THÚ KHÁC TRÊN NÚI MÔRÊNA



Sung sướng và may mắn thay thời đại đã sản sinh ra hiệp sĩ tột bậc anh dũng Đôn Kihôtê xứ Mantra. Nhờ chàng quyết tâm làm sống lại ngành hiệp sĩ giang hồ đã gần tàn lụi nên ngày nay - một thời đại rất cần đến những sự giải trí - chúng ta được thưởng thức một chuyện có thật lý thú cùng những giai thoại không kém phần thú vị, ly kỳ và cũng có thật như toàn bộ câu chuyện. Theo sự sắp xếp trước sau, chuyện kể tới đoạn Cha xứ đang tìm lời an ủi Carđêniô, bỗng đâu có tiếng than vãn vọng tới khiến ông phải ngừng lại, tiếng người than như sau:

- Trời hỡi! Phải chăng ta đã tìm được một nơi kín đáo để chôn vùi hình hài nặng nề này mà ta miễn cưỡng phải mang? Đúng như vậy nếu cảnh hoang vu của núi rừng ở đây không lừa dối ta. Tội nghiệp cho ta! Quả thật được làm bạn với núi non và rừng cây này để có thể kêu than với trời xanh nỗi bất hạnh của ta còn sung sướng hơn có một người bằng xương bằng thịt ở bên cạnh vì ta không trông chờ ở ai trên đời này một lời khuyên nhủ trong cơn bối rối, một sự khuây khỏa trong nỗi đau thương hay một phương thuốc trong cơn hoạn nạn!

Những lời than thở đã lọt vào tai Cha xứ, bác phó cạo và Carđêniô; thấy người đã thốt ra những lời đó ở cách mình không xa, họ bèn đứng dậy đi tìm. Mới đi được chừng hai chục bước, vòng một quả núi thì thấy có một người con trai mặc quần áo nông phu, ngồi dưới gốc một cây tần bì; người đó đang khỏa chân xuống suối, đầu ngả về phía trước nên ba người không nhìn rõ mặt. Họ đi tới rất nhẹ nhàng thành thử chàng trai nọ không hay, vả chăng chàng ta còn đang mải rửa chân, một đôi chân trắng ngần và nõn nà giống như hai đẵn pha lê trắng nổi lên giữa những tảng đá quanh suối. Mọi người đều ngạc nhiên, nghĩ rằng đôi chân như vậy không phải để dầm đất hoặc theo sau cái cày và con bò như bộ y phục chàng mặc trên người. Thấy không bị lộ, Cha xứ đang đi trên đầu, bèn ra hiệu cho mọi người ẩn mình sau những phiến đá quanh đấy; cả ba người cùng nấp kín rồi họ chăm chú quan sát chàng trai làm gì. Chàng trai nọ mặc một cái áo choàng nâu có hai tà bó chặt vào người bằng một chiếc thắt lưng màu trắng, quần nịt và xà cạp bằng dạ nâu, đầu đội mũ nâu. Đôi xà cạp vén cao để lộ bộ chân trắng như ngọc thạch. Sau khi rửa xong đôi chân tuyệt đẹp, anh ta rút ở trong mũ ra một cái khăn tay để lau rồi, vì muốn bỏ mũ ra, anh ta ngửng mặt lên khiến ba người được mục kích một vẻ đẹp tuyệt vời. Carđêniô thì thầm với Cha xứ:

- Người này không phải là Luxinđa 1 cho nên ắt không phải người trần.

Chàng trai nọ bỏ mũ, lắc lắc cái đầu, tóc sổ ra xõa xuống rất đẹp khiến những ánh hào quang của mặt trời cũng phải ghen tị. Trước mắt ba người, anh chàng nông phu nọ đã biến thành một cô gái xinh đẹp; Cha xứ và bác phó cạo chưa thấy ai đẹp như vậy, và ngay Carđêniô cũng sẽ phải nghĩ thế nếu như chàng chưa quen biết Luxinđa vì chàng cũng phải công nhận rằng chỉ có nhan sắc của Luxinđa mới có thể sánh nổi. Mớ tóc vàng của nàng vừa dài vừa dày, không những che kín vai mà còn che kín cả người, chỉ để hở đôi chân. Nàng dùng tay làm lược gỡ tóc; nếu đôi chân nàng nhúng xuống nước giống như hai đẵn pha lê thì hai bàn tay nàng giữa mớ tóc giống như những thỏi tuyết dày. Cảnh tượng đó khiến ba người càng tấm tắc khen thầm và càng muốn biết con người đó là ai. Họ quyết định ra khỏi chỗ nấp; thấy có tiếng chân người rục rịch, cô gái đẹp ngửng đầu lấy hai tay vén mớ tóc xõa trước mặt, nhìn về phía có tiếng động. Vừa thấy ba người, cô ta đứng phắt lên, không kịp xỏ giầy và quấn tóc, giật vội cái bọc để bên cạnh - dáng chừng bọc quần áo - rồi chạy trốn một cách hốt hoảng và sợ hãi. Mới được vài bước, cô ta đã ngã ra đất vì đôi bàn chân mảnh dẻ của cô không chịu nổi đất đá gồ ghề. Ba người thấy vậy bèn chạy lại; Cha xứ lên tiếng trước:

- Dù nàng là ai, xin hãy dừng lại. Những người mà nàng gặp ở đây chỉ có một ý muốn phụng sự nàng mà thôi; nàng không việc gì phải trốn tránh vì đôi chân nàng không chịu đựng nổi đâu và chúng tôi cũng không để nàng làm như vậy.

Cô gái tỏ vẻ hoảng hốt, bối rối, không đáp. Ba người tiến lại gần; Cha xứ cầm tay cô, nói tiếp:

- Y phục của nàng che mắt chúng tôi nhưng mớ tóc của nàng đã chỉ cho chúng tôi thấy rõ bấy nhiêu hiện tượng chứng tỏ rằng phải có những nguyên nhân sâu sắc khiến nàng đã phải ngụy trang sắc đẹp dưới một hình thức không tương xứng chút nào và đã đưa nàng đến chốn thâm sơn này. May mắn sao chúng tôi đã gặp được nàng; nếu chúng tôi không có cách gì làm dịu nỗi đau thương của nàng, ít ra chúng tôi cũng có thể khuyên nhủ nàng vì chừng nào cuộc sống chưa kết thúc, không một nỗi đau khổ nào có thể làm cho con người ta chán nản tới mức không muốn nghe những lời khuyên nhủ chí tình. Bởi vậy, thưa nàng, hay thưa chàng, hay muốn gọi là gì cũng được, xin chớ sợ hãi vì đã gặp chúng tôi và hãy kể cho chúng tôi nghe về cuộc đời may mắn hay rủi ro của nàng; nàng sẽ thấy rằng tất cả chúng tôi đây cũng như riêng từng người đều sẵn sàng chia sẻ nỗi bất hạnh của nàng.

Nghe những lời của Cha xứ, cô gái giả trang cảm thấy xuôi tai; cô nhìn ba người, không mấp máy môi và cũng không nói nên lời, giống như một người ở nơi thôn dã đứng trước những vật lạ mắt chưa nhìn thấy bao giờ. Cha xứ vẫn tiếp tục dùng những lời dịu dàng và cuối cùng, cô gái buông một tiếng thở dài não nuột, rồi nói:

- Cảnh hoang vu của núi rừng ở đây đã không đủ để che giấu tôi, và mớ tóc của tôi sổ ra khiến lưỡi tôi không nói dối được nữa; cho nên nếu lúc này tôi còn nói quanh co là thừa và nếu người nào tin thì chẳng qua chỉ vì phép lịch sự mà thôi. Bây giờ, tôi xin đa tạ các ngài đã tỏ ra sẵn sàng giúp đỡ tôi, điều đó khiến tôi thấy có nhiệm vụ phải thỏa mãn yêu cầu của các ngài; nhưng tôi e rằng sau khi tôi kể về những nỗi bất hạnh của tôi, các ngài không những thấy thương xót mà còn buồn phiền vì các ngài sẽ không có cách nào cứu vớt nổi và cũng sẽ không tìm được lời nào để an ủi tôi. Tuy nhiên, tôi không muốn để các ngài có ý nghĩ xấu về tôi sau khi đã phát hiện rằng tôi là đàn bà con gái, sống lẻ loi ở đây và ăn mặc cải trang, những hiện tượng khiến người ta có thể nghi ngờ sự lương thiện của tôi; cho nên tôi đành phải tiết lộ những điều mà tôi muốn giữ kín nếu có thể được.

Người con gái xinh đẹp nói một mạch, lưu loát và bằng một giọng rất êm ái, khiến ba người lại một phen nữa phải ngạc nhiên trước trí tuệ của nàng cũng như họ đã kinh ngạc trước nhan sắc của nàng. Họ nhắc lại rằng họ sẵn sàng giúp đỡ nàng và yêu cầu nàng hãy thực hiện lời hứa. Cô gái nhận lời; sau khi kín đáo xỏ giày vào chân, quấn lại tóc, cô ta ngồi lên một phiến đá, cố ghìm những giọt lệ long lanh khóe mắt, rồi bằng một giọng rõ ràng và thong thả, bắt đầu kể chuyện cuộc đời mình cho ba người ngồi xung quanh:

- Trong miền Anđaluxia này có một tỉnh thuộc quyền cai trị của một công tước là một trong những vị đại thần ở Tây Ban Nha. Ông ta có hai con trai: anh con trưởng là người kế thừa gia sản và cả những đức tính của cha như mọi người đều thấy, còn đứa con thứ thì tôi không biết nó kế thừa gì nếu không phải là những mưu mô xảo trá của Vêiđô và Galalon. Gia đình tôi vốn thấp hèn nên thuộc dưới quyền ông ta song rất giàu có, và nếu như cha mẹ tôi có một địa vị cũng lớn như của cải trong nhà, chắc rằng hai người không còn điều gì phải mong ước nữa và tôi cũng không lo gì phải chịu một số phận hẩm hiu như ngày nay, vì có lẽ nguyên nhân nỗi bất hạnh của tôi là do cha mẹ tôi không thuộc nhà dòng dõi. Thực ra, cha mẹ tôi cũng không quá hèn kém đến nỗi phải xấu hổ về gia thế, song cũng không đủ cao sang để tôi có thể gạt bỏ ý nghĩ cho rằng sở dĩ tôi gặp rủi ro là vì gia đình mình hèn kém. Cha mẹ tôi làm nghề nông, thói nhà giản dị, dòng giống không pha tạp và như người ta thường nói, có đạo gốc. Vì lẽ gia đình tôi rất giàu có cho nên nhờ sự phú quý và cuộc sống sang trọng mà dần dần trở nên quý tộc. Nhưng điều làm cho cha mẹ tôi cảm thấy giàu sang danh giá nhất là đã sinh ra một đứa con gái như tôi. Vì là con một, nên tôi được cha mẹ rất thương yêu, chiều chuộng. Đối với hai vị, tôi là tấm gương soi, là cái gậy để tựa lúc tuổi già, là mục tiêu duy nhất. Cha mẹ tôi cầu mong cho tôi một điều tốt lành và để đền đáp tấm lòng đó, tôi cũng chỉ mong sao làm được như vậy. Cũng như tôi đã làm chủ linh hồn của cha mẹ tôi, tôi làm chủ cả tài sản trong nhà. Tôi tiếp nhận hoặc thải hồi những người làm; tôi nắm hết công việc đồng áng và thu hoa lợi. Những cối ép dầu, những máy ép rượu, những đàn gia súc lớn nhỏ, những tổ ong mật, tất cả những của cải mà một nhà nông giàu có như cha tôi có thể có và đã có, đều do tôi cai quản; tôi vừa là quản gia, vừa là chủ nhân; tôi trông coi việc nhà một cách chăm chút và thích thú, không thể nói hết được. Hàng ngày sau khi giao việc cho các giám thị, đốc công và gia nhân đầy tớ, tôi dùng thời gian còn lại làm những công việc dành riêng cho nữ giới như vá may, thêu thùa, xe sợi. Đôi lúc, để giải trí, tôi xếp những công việc đó lại, đọc một cuốn sách hay hoặc chơi thụ cầm, vì kinh nghiệm cho tôi thấy rằng âm nhạc làm cho đầu óc đỡ mệt mỏi và làm nhẹ những công việc trí tuệ. Tôi đã sống ở nhà cha mẹ tôi như thế đó; sở dĩ tôi kể tỉ mỉ không phải vì khoe khoang hay tỏ ra nhà tôi giàu có, mà chỉ muốn lưu ý các ngài rằng tôi không làm nên tội lỗi gì để đến nỗi phải đổi cuộc sống sung sướng đó lấy cảnh ngộ khốn khổ ngày nay.

Tôi mải mê với bao nhiêu công việc trong nhà, tách xa cuộc sống bên ngoài, giống như sống trong một tu viện. Ngoài gia nhân đầy tớ, không ai nhìn thấy tôi vì những ngày đi lễ nhà thờ, tôi đi rất sớm, có mẹ và các cô hầu đưa đi; tôi đi khép nép, mặt che kín đến nỗi mắt tôi chỉ nhìn thấy khoảng đất ở dưới chân mà thôi. Tuy nhiên, những con mắt của tình yêu, hay nói đúng hơn những con mắt của kẻ nhàn cư, còn tinh hơn cả mắt mèo rừng và chúng đã nhìn thấy tôi. Đó là đôi mắt tò mò của Đôn Phernanđô, tên đứa con thứ của công tước Ricarđô mà tôi đã kể ở trên.

Vừa nghe thấy cô gái nhắc tới tên Đôn Phernanđô, Carđêniô biến sắc, mồ hôi toát ra, toàn thân run lẩy bẩy, Cha xứ và bác phó cạo thấy vậy chỉ lo chàng lại phát điên, vì họ đã nghe kể về những cơn điên thường xuất hiện ở chàng. Nhưng Carđêniô vẫn ngồi yên, mắt nhìn chằm chằm vào cô thôn nữ như thể đã đoán ra cô là ai. Cô gái không để ý thấy thái độ của Carđêniô, vẫn tiếp tục kể:

- Chỉ mới thoáng nhìn thấy tôi, y đã mê mẩn ngay (như về sau y thổ lộ với tôi) và y đã tỏ ra bằng hành động. Nhưng để chóng kết thúc câu chuyện về những nỗi bất hạnh của tôi, tôi không nhắc lại ở đây những thủ đoạn của Đôn Phernanđô để tỏ tình với tôi; y đã mua chuộc những người làm trong nhà tôi; y biếu xén quà cáp cho cha mẹ tôi; ban ngày, phố tôi lúc nào cũng như có hội; ban đêm, những khúc nhạc nổi lên không cho ai ngủ nữa; không hiểu bằng cách nào, những lá thư cứ đến tay tôi, lời lẽ đầy tình tứ, chữ thì ít mà hứa hẹn thề thốt thì nhiều. Nhưng tất cả những cái đó không những không làm tôi xiêu lòng mà trái lại chỉ khiến tôi thêm cứng rắn, đến mức tôi coi y là một kẻ tử thù, và tất cả những việc y đã làm để dụ dỗ tôi đều có tác dụng ngược trở lại. Không phải tôi chê trách những cử chỉ ân cần của Đôn Phernanđô hoặc coi thường sự chăm sóc của y; có một cái gì đó khiến cho tôi hài lòng thấy mình được một trang hiệp sĩ cao quý như vậy ái mộ, và tôi không cảm thấy khó chịu khi y ca ngợi tôi trong những lá thư. Hình như đàn bà chúng tôi, dù xấu đến mấy, đều thích nghe người ta khen mình đẹp. Dù sao tôi vẫn tỏ ra cứng rắn nhờ tính nết đứng đắn của mình và những lời dạy bảo thường xuyên của cha mẹ tôi là những người đã biết rõ ý muốn của Đôn Phernanđô vì y cũng không ngại cho mọi người biết chuyện này. Cha mẹ tôi bảo rằng hai người chỉ còn biết đặt danh dự và tiếng tăm của gia đình vào sự nết na hiếu thảo của tôi, khuyên tôi hãy nhìn vào sự cách biệt giữa gia đình tôi và gia đình Đôn Phernanđô để thấy rằng điều mong muốn của y (tuy rằng y nói với tôi khác hẳn) chỉ nhằm thỏa mãn bản thân y chứ không nhằm lợi ích của tôi, còn nếu như tôi muốn bằng cách nào đó làm cho y phải từ bỏ ý muốn không chính đáng của y, cha mẹ tôi sẽ gả tôi ngay cho người nào mà tôi ưng ý, có thể là những đám tốt nhất trong tỉnh nhà hay ở vùng lân cận, vì của cải của cha mẹ tôi và tiếng tăm của tôi có thể cho phép tôi lấy được một tấm chồng xứng đáng. Những lời hứa hẹn của cha mẹ tôi và sự thật mà hai vị đã vạch ra cho tôi khiến tôi càng thêm cứng rắn, và tôi không hề nghĩ đến việc gửi cho Đôn Phernanđô một câu một chữ nào làm cho y có hy vọng - dù là mỏng manh - sẽ được toại nguyện.

Thái độ thận trọng của tôi - chắc y coi đó là sự khinh miệt - có lẽ đã làm tăng lòng nhục dục của y; tôi phải dùng từ này để chỉ tình yêu của y đối với tôi vì nếu y yêu tôi một cách chính đáng, hôm nay các ngài không được nghe chuyện này bởi lẽ tôi không có lý do gì để kể lại hầu các ngài. Cuối cùng, Đôn Phernanđô biết rằng cha mẹ tôi dự định lo việc gia thất cho tôi để y cụt hy vọng làm chủ con người tôi, hay ít ra, để tôi có nhiều người khác bảo vệ cho. Điều đó đã là nguyên nhân thúc đẩy y đi đến một hành động như tôi sẽ kể dưới đây. Một đêm, tôi đang ở trong phòng riêng với một đứa hầu gái, cửa ngõ đóng chặt phòng khi sơ ý mà danh dự tôi bị bôi nhọ, bỗng đâu không hiểu vì sao, mặc dù đã cẩn thận đề phòng, giữa căn buồng kín mít, vắng vẻ và yên lặng, y hiện ra trước mặt tôi; mắt tôi sầm lại không nhìn thấy gì nữa và lưỡi tôi cứng đờ; tôi không còn sức để kêu, vả chăng tôi nghĩ rằng y cũng không để cho tôi kêu vì ngay lúc đó, y tiến lại gần ôm lấy tôi (quả thật khi đó tôi không còn sức để chống cự vì quá bối rối); rồi y bắt đầu nói với tôi những lời khiến tôi không hiểu làm sao con người ta có thể có tài nói dối đến mức dùng những lời tưởng đâu như thật. Tên phản trắc còn vờ khóc lóc và than vãn để cho lời nói và ý định của y có vẻ thành thực. Tội nghiệp cho tôi từ bé cấm cung trong gia đình, không quen với những tình huống như thế bao giờ nên không hiểu vì sao tôi đã tin vào những lời giả dối đó, tuy rằng những giọt nước mắt và những lời than thở của y không làm tôi mủi lòng; phút hoảng hốt ban đầu đã qua, tôi lấy lại một phần nào tinh thần và, với một sự bình tĩnh quá mức tưởng tượng của tôi, tôi nói: "Nếu hai cánh tay đang ôm tôi là những nanh vuốt của một con sư tử hung dữ, và nếu muốn thoát ra khỏi, tôi phải nói những lời hoặc làm những việc có phương hại đến danh dự của mình, tôi sẽ không nói hoặc không làm gì hết. Cho nên, nếu chàng dùng hai cánh tay ôm chặt người tôi, tôi sẽ giữ chặt linh hồn mình bằng những ý tưởng tốt đẹp, và chàng sẽ thấy rằng những ý tưởng của tôi khác xa của chàng nếu chàng định dùng vũ lực bắt ép tôi. Tôi là bề dưới của chàng nhưng không phải là nô lệ; dòng dõi quý tộc của chàng không có và không thể có quyền hành gì xúc phạm và coi rẻ dòng dõi thấp kém của tôi, và tuy là con nhà nông hèn hạ, tôi cũng biết tự trọng như chàng, mặc dù chàng là một công tử quyền quý. Đối với tôi, vũ lực của chàng không có tác dụng, của cải của chàng không có giá trị, lời nói của chàng không mê hoặc được, những lời than vãn và nước mắt của chàng không làm mềm lòng. Nhưng nếu tôi tìm thấy một trong những điểm nói trên ở con người mà cha mẹ gả bán cho, tôi sẽ chiều theo ý muốn của người đó, không làm trái. Thành thử, dù không vui lòng nhưng miễn giữ được thanh danh, tôi sẵn sàng trao cho người đó cái mà lúc này chàng đang ước ao. Tôi nói như vậy vì đừng nên nghĩ rằng kẻ nào không phải là chồng của tôi lại có thể nhận được ở tôi bất cứ một cái gì". Tên hiệp sĩ bất nhân đáp lại: "Em Đôrôtêa vô cùng xinh đẹp (đó là tên cô gái bất hạnh), nếu chỉ vì vậy mà em từ chối thì hãy xem đây, anh xin trao tay anh cho em; Trời kia nhìn thấu mọi việc và hình Đức Mẹ ở trong phòng này sẽ chứng giám cho anh".

Khi nghe cô gái xưng danh là Đôrêtêa, toàn thân Carđêniô lại run lên; lúc này chàng càng tin rằng điều mình đã nghĩ về cô ta khi trước là đúng, nhưng chàng không muốn ngắt lời để xem cô ta kể tiếp câu chuyện mà chàng đã biết gần hết; chàng chỉ nói:

- Đôrôtêa là tên nàng đó ư? Tôi đã nghe một câu chuyện về một người cũng mang tên này, người đó có lẽ cũng gặp một cảnh ngộ bất hạnh như nàng. Nhưng thôi, xin nàng hãy tiếp tục, rồi tôi sẽ kể cho nghe những điều khiến nàng phải vừa ngạc nhiên vừa buồn phiền.

Câu nói của Carđêniô và y phục kỳ lạ, tả tơi của chàng khiến Đôrôtêa ngừng câu chuyện; cô yêu cầu chàng hãy nói ngay những điều chàng đã biết về mình. "Thần May Rủi còn chút thương tình tới tôi, cô ta nói, nên đã giúp cho tôi có đủ can đảm để chịu đựng mọi nỗi đau khổ, và chắc chắn rằng không một đau khổ nào khác có thể làm tăng thêm nỗi bất hạnh của tôi được".

Carđêniô đáp:

- Nếu điều tôi nghĩ là đúng, tôi sẽ nói cho nàng biết, không bỏ qua, nhưng bây giờ chưa đến lúc và nàng cũng chưa cần biết.

- Thôi cũng được, Đôrôtêna nói, tôi xin kể tiếp: sau đó, Đôn Phernanđô cầm lấy ảnh Đức Mẹ ở trong phòng tôi như để chứng giám cho lễ cưới của hai người; bằng những lời lẽ khiến ai nghe cũng phải tin là thật, y thề sống thề chết rằng y là chồng tôi. Không để cho y nói hết, tôi bảo y hãy suy nghĩ về hành động của mình, về sự tức giận của cha y một khi biết y lấy một đứa con gái hèn hạ, một kẻ bầy tôi; rằng chớ nên để sắc đẹp làm mờ mắt vì sắc đẹp của tôi không đủ để bào chữa cho sự sai lầm của y; rằng nếu y yêu tôi và muốn giúp đỡ tôi, xin hãy để cho tôi lấy người bằng vai phải lứa vì xưa nay những cuộc hôn nhân chênh lệch như vậy chỉ mang lại hạnh phúc lúc đầu, không bền vững lâu dài. Tôi đã nói như vậy và còn nói nhiều nữa mà tôi không nhớ hết; nhưng những lời tôi nói không làm cho y từ bỏ ý đồ, giống như một kẻ định tâm ăn quỵt nên trong khi trao đổi thương lượng, ai đặt điều kiện gì cũng nhận tất. Trong giây phút ngắn ngủi đó, tôi tự nhủ: "Ta không phải là người đầu tiên hèn kém trở nên danh giá bằng con đường hôn nhân, và Đôn Phernanđô cũng không phải người đầu tiên sánh duyên với một cô gái không xứng với danh tiếng của chàng chỉ vì say mê sắc đẹp hay vì lòng ham thích mù quáng (lý do này đúng hơn). Bởi vậy, nếu ta không định đảo lộn sự đời, đây là một dịp may để ta trở nên ông nên bà vì dù rằng chàng không yêu ta nữa sau khi đã thực hiện được ý muốn, cuối cùng trước Chúa, ta cũng vẫn là vợ chàng. Còn nếu ta thẳng tay xua đuổi, chàng sẽ liều lĩnh dùng vũ lực, ta sẽ mất danh dự mà không thanh minh được; thiên hạ sẽ kết tội ta vì họ không thể hiểu được làm sao có thể xảy ra sự việc này một khi ta không lầm lỡ. Ta làm sao có đủ lý lẽ để thuyết phục cha mẹ ta và mọi người rằng chàng hiệp sĩ này vào phòng không có sự đồng ý của ta?" Trong giây phút đó, đầu óc tôi tự đặt ra những câu hỏi và trả lời như vậy; và nhất là những lời thề thốt giãi bày của Đôn Phernanđô, những giọt nước mắt của y, thêm vào đó là những cử chỉ cầu khẩn, ân cần cũng như những biểu hiện khác của một tình yêu chân thành có thể chinh phục được bất cứ một cô gái nào e lệ rụt rè như tôi, tất cả những cái đó đã bắt đầu tác động đến tôi và làm tôi xiêu lòng, dẫn tôi đến chỗ hủy hoại mà tôi không biết. Tôi gọi đứa hầu gái tới để cho nó cùng với trời đất làm chứng cho tôi; tôi bắt Đôn Phernanđô phải nhắc lại và khẳng định những lời thề thốt: y viện thêm tên những vị thánh khác chứng giám cho, thề những câu rất độc địa một khi không thực hiện đúng lời hứa, rồi vừa khóc lóc, vừa than thở, y ôm chặt lấy tôi (từ đầu đến giờ, hai tay y vẫn không buông tôi ra); sau khi đứa hầu gái ra khỏi phòng, tôi đã trao thân cho y và y đã hành động như một tên phản phúc, bất nhân.

Chắc rằng Đôn Phernanđô mong trời chóng sáng sau cái đêm đã gây ra cho tôi nỗi bất hạnh đó, vì sau khi đã thỏa mãn lòng dục, điều y mong mỏi nhất là đi khỏi nơi ở đó y đã được toại nguyện. Tôi nói vậy vì Đôn Phernanđô vội vàng ra đi: đứa hầu gái của tôi, trước đây đã dẫn y vào phòng tôi, đưa y ra ngoài đường trước khi trời sáng bạch. Lúc từ giã tôi, y nhủ tôi hãy tin vào y, rằng những lời thề thốt của y là chắc chắn và thành thật (tuy nhiên, thái độ của y không vồ vập, sôi nổi như khi mới tới); để cho lời nói thêm phần chân thật, y rút chiếc nhẫn quý đang đeo và xỏ vào ngón tay tôi. Y ra đi rồi, còn tôi ở lại, không hiểu mình vui hay buồn, chỉ biết rằng trong lòng bối rối, tư lự và gần như mất bình tĩnh trước sự việc mới xảy ra; tôi không có can đảm và cũng chẳng có ý định khiển trách đứa hầu gái phản bội đã giấu giếm Đôn Phernanđô ngay trong phòng tôi, vì lúc đó tôi cũng chưa hiểu rằng sự việc xảy ra là tốt hay xấu. Lúc Đôn Phernanđô ra đi, tôi bảo y cứ dùng cách đó để đến gặp tôi ban đêm vì con người tôi đã thuộc về tay y, cho tới khi nào y muốn công bố chính thức cuộc hôn nhân. Y chỉ trở lại đêm hôm sau, rồi mất mặt; trong hơn một tháng trời, tôi không hề thấy y ở ngoài phố hay trong nhà thờ; tôi nhọc lòng tìm kiếm y nhưng vô hiệu, mặc dù tôi biết y vẫn ở trong tỉnh và hay đi săn bắn, một trò tiêu khiển mà y rất ham thích.

Những ngày giờ đó đối với tôi thật ảm đạm, tối tăm; tôi cảm thấy bắt đầu nghi ngờ, thậm chí không tin vào lòng dạ của Đôn Phernanđô nữa. Nếu trước kia tôi không khiển trách đứa hầu gái về hành động táo bạo của nó thì lúc này tôi không tiếc lời mắng nhiếc nó; tôi biết rằng phải cố ngăn nước mắt và giữ vẻ tự nhiên để cha mẹ tôi không hỏi nguyên nhân vì sao tôi buồn, nếu hỏi sẽ buộc tôi phải nói dối. Nhưng rồi tới một lúc mà tôi không còn kiềm chế được cử chỉ và lời nói nữa, tôi mất hết kiên nhẫn và đã bộc lộ những ý nghĩ thầm kín ra. Số là ít lâu sau, dân chúng trong tỉnh tôi đồn rằng Đôn Phernanđô đã lấy một cô gái rất xinh đẹp ở một tỉnh lân cận, gia đình quý phái nhưng không giàu có lắm cho nên hồi môn của cô không xứng với một người chồng danh giá như vậy. Người ta bảo rằng tên cô ấy là Luxinđa, và còn kể nhiều chuyện lạ lùng đã xảy ra trong đám cưới đó.

Nghe nhắc tới tên Luxinđa, Carđêniô xo hai vai, cắn chặt môi, chau mày, nước mắt đầm đìa. Đôrôtêa vẫn không ngừng kể tiếp câu chuyện của mình.

- Khi nghe thấy tin đáng buồn đó, đáng lẽ tim tôi phải nguội lạnh đi; nhưng không, tôi đã bừng bừng tức giận và suýt nữa chạy ra đường rêu rao sự phản bội của Đôn Phernanđô đối với tôi. Nhưng tôi đã ghìm lại được vì trong óc bỗng nảy ra một ý định mà tôi thực hiện ngay đêm đó. Tôi kể hết sự tình cho một người gia nô, bảo y kiếm cho bộ áo quần này và nhờ y dẫn đi tìm kẻ thù của tôi ở tỉnh nọ. Lúc đầu, y tỏ ý không tán thành ý định táo bạo của tôi nhưng thấy tôi có vẻ cương quyết, cuối cùng y nhận lời đưa tôi đi tới cùng trời cuối đất, như y nói. Sau đó, tôi bỏ vào trong một cái túi vải một bộ quần áo đàn bà, một ít tiền và đồ nữ trang phòng thân, rồi trong đêm khuya lặng lẽ, không cho đứa hầu gái tráo trở biết, tôi bỏ nhà ra đi cùng với người gia nô, trong lòng ngổn ngang trăm mối. Tôi đi bộ, nhưng vì mong chóng tới tỉnh nọ, tôi đi như bay, không phải để đến nơi ngăn chặn một việc đã rồi, nhưng ít nhất cũng để hỏi Đôn Phernanđô xem bụng dạ y nghĩ gì khi làm việc đó. Hai ngày rưỡi sau, tôi tới nơi; bước chân vào trong tỉnh, tôi hỏi thăm nhà cha mẹ Luxinđa và đã được một người kể cho nghe rất nhiều chuyện. Người đó không những chỉ nhà cho tôi mà còn kể cho nghe chuyện đã xảy ra trong lễ cưới Luxinđa mà dân chúng trong tỉnh đều biết và túm năm tụm ba bàn tán. Theo lời người đó kể lại, trong đêm hôn lễ, sau khi trả lời Cha xứ là lấy Đôn Phernanđô, bỗng dưng Luxinđa ngất đi; chồng cô ta tiến lại định cởi cúc áo cho cô dễ thở bỗng đâu thấy một bức thư do chính Luxinđa viết trong đó cô ta nói rằng không thể nào kết hôn với Đôn Phernanđô được vì đã là vợ của Carđêniô rồi (theo lời người kể, Carđêniô là một hiệp sĩ danh giá ở tỉnh đó), và sở dĩ cô đã trả lời lấy Đôn Phernanđô vì không muốn cưỡng lại mẹ cha. Cuối cùng, bức thư có những câu chứng tỏ rằng cô ta định tự tử sau lễ cưới và nêu những lý do vì sao cô định kết liễu cuộc đời. Tất cả những lời đó đều được chứng minh là có thật vì người ta đồn rằng đã tìm thấy trong áo cưới của cô một con dao găm. Trước sự việc đó, nghĩ rằng Luxinđa định đem mình ra làm trò cười, Đôn Phernanđô xông lại trong lúc cô ta vẫn còn mê man bất tỉnh và định dùng con dao găm mới tìm thấy để đâm; cũng may cha mẹ cô và những người có mặt tại đấy đã kịp chặn tay y lại. Người ta còn đồn rằng sau đó Đôn Phernanđô bỏ đi, còn Luxinđa thì mãi hôm sau mới tỉnh, và cô ta đã thưa với mẹ cha rằng cô đã là vợ thực sự của chàng Carđêniô nói ở trên. Tôi được biết thêm là theo lời đồn, Carđêniô cũng có mặt trong buổi lễ cưới; sau khi thấy Luxinđa trả lời , điều mà chàng không ngờ tới, chàng thất vọng đi thẳng, để lại một bức thư trong đó chàng nhắc tới hành động xấu xa của Luxinđa đối với mình và tuyên bố sẽ đi cho khuất mắt mọi người. Cả tỉnh biết chuyện này và mọi người đều bàn tán, nhất là khi họ được tin Luxinđa bỏ nhà ra đi, tìm khắp tỉnh không thấy đâu. Cha mẹ cô như mất trí và không biết làm thế nào để tìm ra con gái. Sau khi biết việc này, tôi lại thấy có hy vọng, nghĩ rằng thà không tìm thấy Đôn Phernanđô còn hơn tìm thấy chàng đã có vợ. Tôi cảm thấy nỗi bất hạnh của tôi chưa đến nỗi tuyệt vọng; có lẽ trời kia đã ngăn cản cuộc hôn nhân thứ hai này để buộc chàng phải nhớ tới nhiệm vụ đối với cuộc hôn nhân thứ nhất, để buộc chàng phải nhớ rằng chàng là một tín đồ Kitô giáo, cần phải làm theo tiếng gọi của lương tâm hơn là theo những khuôn sáo của xã hội. Tất cả những ý nghĩ đó luẩn quẩn trong đầu óc tôi, và tôi đã tự an ủi một cách viển vông, bằng những hy vọng hão huyền, để nuôi dưỡng một cuộc sống mà tôi đã chán ghét.

Tôi còn đang quanh quẩn trong tỉnh, phân vân không biết tính sao vì không tìm ra Đôn Phernanđô, bỗng đâu nghe thấy có tiếng người rao to rằng ai tìm thấy tôi sẽ được hậu đãi, rồi lại tả hình dạng, tuổi tác, bộ quần áo tôi đang mặc, và còn nói thêm rằng người hầu đi theo tôi đã dụ dỗ tôi bỏ nhà ra đi. Tôi thật đau lòng thấy thanh danh của mình sa sút đến như vậy vì chỉ riêng việc bỏ nhà ra đi cũng đã nhục nhã lắm rồi huống chi lại còn bị mang tiếng là đi theo một người đầy tớ hèn mọn, điều tôi không bao giờ nghĩ tới. Nghe xong, tôi đi ngay ra khỏi tỉnh; lúc này, người gia nô đi theo tôi bắt đầu có những dấu hiệu dao động mặc dù lúc ra đi, y đã thề sẽ trung thành với tôi. Đêm hôm đó, chúng tôi đi sâu mãi vào trong dãy núi này để cho không ai tìm thấy. Nhưng, như người ta thường nói, họa vô đơn chí, sự kết thúc của một bất hạnh này thường mở đầu cho một bất hạnh khác to lớn hơn và điều đó đã đến với tôi. Trong khung cảnh vắng vẻ, tên đày tớ của tôi, từ trước tới giờ vẫn tỏ ra trung thành và đáng tin cậy, bỗng dưng đem lòng tráo trở không phải vì sắc đẹp của tôi mà vì tưởng rằng gặp được cơ hội thuận lợi. Y không sợ Chúa và cũng chẳng nể gì tôi, trâng tráo tỏ tình. Tôi gạt bỏ những đề nghị sỗ sàng của y bằng những lời lẽ chí tình nhưng cũng khá gay gắt; thấy van nài không xong, y giở trò vũ phu. Nhưng trời kia chí công, không phụ những kẻ có lòng, đã phù hộ tôi, cho nên tuy liễu yếu đào tơ, tôi đã không tốn nhiều sức lực đẩy được y xuống vực thẳm, không biết y sống hay chết; sau đó, quên cả sợ hãi mệt nhọc, tôi chạy như bay vào trong dãy núi này, chỉ mong sao tránh mặt cha tôi và những người mà cha tôi phái đi tìm. Và thế là tôi đã sống tại đây không biết bao nhiêu tháng ròng. Sau đó, tôi gặp một người chăn cừu và được nhận vào giúp việc cho ông ta tại một làng nằm sâu trong núi này; trong thời gian đó, tôi cố tìm cách để được làm việc ngoài đồng hòng che giấu bộ tóc này mà tôi không ngờ vừa rồi đã sổ ra. Nhưng mặc dù tôi đã hết sức khéo léo giữ gìn, cuối cùng chủ tôi đã phát hiện rằng tôi không phải là con trai và, cũng như tên đày tớ đi theo tôi trước đây, lão đã nảy ra ý xấu. Không phải lúc nào con người ta cũng gặp may trước khó khăn, và lần này tôi không tìm đâu ra vực thẳm hay núi cao để đẩy lão chủ xuống cho chết, cũng như tôi đã đẩy tên đày tớ nọ; để tránh phiền phức, tôi thấy cần phải bỏ ra đi ẩn náu trong chốn rừng núi âm u này hơn là đọ sức và dùng lý lẽ với lão. Thế là tôi lại phải sống lẩn tránh, tìm nơi nào để có thể được tự do khóc than cầu trời đoái thương nỗi bất hạnh của tôi, giúp tôi thoát khỏi cảnh ngộ này hoặc để cho tôi được chết giữa nơi hoang vu này; và sau khi tôi qua đời, mong rằng không ai nhắc nhở tới đứa con gái bất hạnh vô tội, đã trở thành một đề tài cho thiên hạ khắp nơi bàn tán, xì xào.

--------------------------------
1Người yêu của Carđêniô, nhan sắc tuyệt vời.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes


Chương XXIX

DÙNG MƯU CAO GIẲI THOÁT CHÀNG HIỆP SĨ SI TÌNH KHỎI CẲNH ĐÀY ẲI KHẮC NGHIỆT MÀ CHÀNG ĐÃ TỰ CHUỐC LẤY


Thưa các ngài, đó là câu chuyện thật về tấn bi kịch của tôi; bây giờ, chắc các ngài đã thấy rõ rằng những lời than thở mà các ngài đã được nghe và những giọt lệ từ đôi mắt này trào ra đều có nguyên nhân xác đáng; nhìn vào tính chất nỗi bất hạnh của tôi, các ngài sẽ thấy rằng khuyên nhủ là vô ích vì không có cách nào cứu vãn nổi. Tôi chỉ xin các ngài giúp cho một việc, một việc mà các ngài có thể làm được và nên làm: hãy bảo cho tôi biết tôi có thể ở nơi nào để khỏi phải lo sợ bị những người đang đi tìm tôi phát hiện ra. Tôi biết rằng cha mẹ tôi rất thương tôi và chắc chắn hai vị sẵn sàng đón tôi về, nhưng chỉ mới nghĩ rằng phải gặp lại hai người, tôi đã thấy xấu hổ quá rồi, mặc dù cha mẹ tôi không nghĩ như vậy; thà rằng tôi đi khuất hẳn còn hơn nhìn lại mặt cha mẹ tôi để có cảm tưởng là hai người nhìn thấy con gái mình đã không còn trong trắng như trước kia nữa.

Nói tới đấy, cô gái im bặt; sắc mặt cô thay đổi chứng tỏ cô đang bối rối sượng sùng. Từ đáy lòng, những người nghe chuyện cũng cảm thấy xót thương kinh ngạc trước nỗi bất hạnh của cô gái. Cha xứ định lựa lời an ủi khuyên bảo cô thì Carđêniô đã lên tiếng trước:

- Vậy ra cô là Đôrôtêa xinh đẹp, con một của ông Clênarđô giàu có.

Đôrôtêa sửng sốt thấy có một người tiều tụy nhắc đến tên cha mình (ở trên đã nói về cách ăn mặc lôi thôi của Carđêniô), cô bèn hỏi:

- Chẳng hay anh là ai mà biết tên cha tôi? Nếu tôi không nhầm, trong suốt câu chuyện buồn thảm của tôi, tôi không hề nhắc tới tên anh.

- Trong câu chuyện cô vừa kể, Carđêniô đáp, tôi là kẻ bất hạnh mà Luxinđa nhận là chồng; tôi là anh chàng Carđêniô xấu số; cũng chính kẻ khiến cô gặp cảnh ngộ này, đã đưa tôi tới tình trạng như ngày nay: rách rưới, trần trụi, không ai an ủi, và tai hại hơn cả là mất trí, vì chỉ khi nào trời kia rủ lòng thương tới, tôi mới trở lại tỉnh táo trong chốc lát mà thôi. Cô Đôrôtêa, tôi là kẻ chứng kiến những hành động xấu xa của Đôn Phernanđô và chờ nghe Luxinđa trả lời lấy Đôn Phernanđô làm chồng; tôi là kẻ không có đủ can đảm ở lại để xem tình trạng hôn mê của cô ta ra sao và để xem nội dung bức thư tìm thấy trong ngực cô, vì tôi không đủ sức chịu đựng ngần ấy đau khổ cùng một lúc; tôi đã thiếu kiên nhẫn bỏ ra đi, để lại một lá thư, nhờ người chuyển đến tận tay Luxinđa, và tôi đến nơi hoang vắng này với ý định kết liễu cuộc đời mà tôi đã chán ghét, coi như kẻ tử thù của mình. Nhưng số phận đã không bắt tôi chết mà chỉ làm cho tôi mất trí, có lẽ vì muốn dành cho tôi sự may mắn được gặp cô hôm nay; tôi tin rằng những lời cô vừa kể có thật và có lẽ trong cơn hoạn nạn của chúng ta, trời kia còn muốn dành cho phần hạnh phúc mà ta không ngờ tới. Nếu như Luxinđa không lấy Đôn Phernanđô được vì đã thuộc về tôi, cũng như Đôn Phernanđô không lấy Luxinđa được vì đã thuộc về cô, chúng ta có thể hy vọng rằng ông Trời sẽ trao trả cho chúng ta những gì thuộc về chúng ta vì những cái đó vẫn còn tồn tại, không suy suyển và vẫn nguyên vẹn. Vì chúng ta còn có nguồn an ủi đó, một nguồn an ủi thực sự, không viển vông, xa vời, tôi mong cô hãy có một quyết định khác trong tư tưởng của mình vì chính tôi cũng đang có một quyết định mới, và hãy chờ đợi một số phận may mắn hơn. Nhân danh một hiệp sĩ và một tín đồ Kitô giáo, tôi xin cô hãy bền gan cho tới khi nào cô trở về với Đôn Phernanđô; nếu những lý lẽ của tôi không làm cho y nhận thấy trách nhiệm của y đối với cô, tôi sẽ dùng quyền của một hiệp sĩ thách thức y đấu sức với tôi vì y đã làm nhục cô; tôi làm việc đó vì cô, còn mối thù của tôi, tôi nhờ trời trả hộ.

Carđêniô nói xong, Đôrôtêa mới hết ngạc nhiên; không biết làm cách nào để cảm ơn sự giúp đỡ to lớn đó, nàng định quỳ xuống ôm hôn chân chàng nhưng Carđêniô ngăn lại. Cha xứ vội lên tiếng đỡ hai người; sau khi hoan nghênh những lời nói chí tình của Carđêniô, ông khuyên nhủ, thuyết phục mọi người hãy theo ông về làng để chuẩn bị mọi thứ cần thiết, rồi sau đó sẽ tính chuyện đi tìm Đôn Phernanđô, hoặc đưa Đôrôtêa về với cha mẹ, hoặc làm những việc gì nên làm. Carđêniô và Đôrôtêa cảm ơn Cha xứ và nhận lời. Bác phó cạo từ nãy tới giờ vẫn ngồi yên, cũng có ý kiến; cũng như Cha xứ, bác hứa sẽ cố gắng hết sức giúp đỡ hai người; rồi bác nói vắn tắt cho họ biết lý do vì sao Cha xứ và bác tới đây, sự điên rồ kỳ lạ của Đôn Kihôtê cùng việc Xantrô đang đi tìm chủ. Carđêniô nhớ mang máng tới cuộc va chạm giữa chàng với Đôn Kihôtê, chàng kể lại cho hai người nghe nhưng không nói được nguyên nhân vì sao. Vừa lúc đó, có tiếng người gọi; Cha xứ và bác phó cạo nhận ra tiếng Xantrô Panxa (bác giám mã quay về chỗ cũ không thấy hai người, bèn gọi ầm lên); hai người chạy lại hỏi tin tức về Đôn Kihôtê; bác giám mã cho biết là đã thấy chủ mình mặc độc chiếc sơ-mi, người gầy nhom, nước da vàng ệch, sắp chết đói nhưng vẫn yêu Đulxinêa tha thiết; bác đã nói với Đôn Kihôtê là nàng Đulxinêa yêu cầu chàng rời khỏi nơi này trở về làng Tôbôxô vì nàng đang đợi; nhưng chủ bác nhất quyết không chịu về trình diện trước người đẹp chừng nào chưa lập được những chiến công xứng đáng với tấm lòng tốt của nàng. Bác có ý kiến là nếu tình hình cứ tiếp tục như vậy, chủ bác sẽ không trở thành hoàng đế - đúng ra chủ bác phải làm hoàng đế - hoặc ít nhất cũng không thành tổng giám mục được; bác yêu cầu hai người hãy liệu tìm cách đưa chàng ra khỏi nơi này. Cha xứ khuyên Xantrô chớ nên lo ngại, rồi sẽ đưa được chàng ra dù chàng không muốn. Ông cho Carđêniô và Đôrôtêa biết mưu kế của ông và của bác phó cạo nhằm chữa bệnh điên cho Đôn Kihôtê, hoặc ít nhất cũng đưa được chàng về nhà. Nghe nói vậy, Đôrôtêa có ý kiến là nàng đóng vai cô gái lâm nạn hợp hơn bác phó cạo, nàng lại sẵn có quần áo để cải trang một cách tự nhiên, hơn nữa nên để nàng làm việc đó vì nàng biết tất cả những điều cần thiết để thực hiện ý đồ của Cha xứ, nàng đã đọc nhiều sách kiếm hiệp và biết khẩu khí của những cô gái đau khổ khi họ cầu cứu các trang hiệp sĩ giang hồ.

- Nếu vậy, ta hãy tiến hành ngay, Cha xứ nói; đúng là sự may mắn đã đến với tất cả chúng ta vì thật không ngờ nó đã mở cho các bạn một lối thoát và đã gỡ cho chúng tôi một thế bí.

Lập tức, Đôrôtêa lấy ở trong bọc ra một cái váy bằng vải đắt tiền và một cái áo màu xanh thẫm, rồi nàng lấy vòng và đồ trang sức ở trong một cái hộp con, trang điểm vào người, nom rõ ra một cô gái phong lưu khuê các. Nàng cho biết là đã mang những thứ đó khi bỏ nhà ra đi để phòng thân và tới giờ chưa có dịp nào cần đến. Mọi người đều tấm tắc trước vẻ yêu kiều diễm lệ của nàng và họ chê trách Đôn Phernanđô là ngu ngốc vì đã ruồng bỏ một con người xinh đẹp như vậy. Riêng Xantrô Panxa thì phục sát đất; bác cảm thấy (mà đúng như vậy) từ bé tới giờ chưa trông thấy ai xinh đẹp đến như thế; và bác rối rít hỏi Cha xứ, yêu cầu cho biết cô gái xinh đẹp đó là ai, đi tìm kiếm gì ở nơi thâm sơn này, Cha xứ đáp:

- Người anh em Xantrô, cô gái xinh đẹp này là người thừa kế thẳng dòng họ của đại vương quốc Micômicôn; cô ta tới đây tìm chủ anh để cầu cứu một việc; số là cô ta bị một tên khổng lồ độc ác xúc phạm và muốn nhờ chủ anh rửa nhục cho. Vì tiếng tăm của chủ anh vang lừng bốn biển nên nàng công chúa này đã từ Ghinêa tới đây tìm kiếm chàng.

- Thật là một cuộc tìm kiếm khéo léo và một cuộc gặp gỡ hay ho, Xantrô Panxa nói; và lại càng hay hơn nữa nếu ông chủ tôi may mắn rửa được mối nhục cho cô ta, giết được tên khổng lồ chó đẻ kia mà ngài vừa nói; chắc chắn một khi gặp nó, ông chủ tôi sẽ giết được, trừ phi nó là ma vì ông ta bất lực đối với loài ma quái. Nhưng thưa ngài cử 1, tôi cầu xin ngài giúp cho một việc. Ngài hãy khuyên ông chủ tôi lấy cô công chúa này để cho ông ta từ bỏ ý định làm tổng giám mục, điều mà tôi đang lo ngại. Một khi lấy vợ rồi, ông ta sẽ không được phong chức tổng giám mục và sẽ dễ dàng trở thành hoàng đế, và tôi cũng sẽ đạt được nguyện vọng. Tôi đã suy nghĩ chán rồi và thấy rằng tôi chẳng được lợi gì nếu ông chủ tôi làm tổng giám mục. Tôi không giúp ích được gì cho Giáo hội vì tôi đã có gia đình và đối với một người có vợ con như tôi, nếu cứ phải biện bạch xin xỏ để được Giáo hội cấp cho ít tiền thì thật chẳng đi đến đâu cả; cho nên, thưa ngài, điều cốt tử là làm thế nào cho ông chủ tôi cưới cô công chúa này mà cho tới bây giờ tôi vẫn chưa biết tên là gì để gọi.

- Đó là công chúa Micômicôna, Cha xứ đáp; vì vương quốc của nàng là Micômicôn cho nên đương nhiên tên nàng phải như vậy.

- Phải rồi, Xantrô nói; tôi đã thấy có nhiều người lấy tên quê quán để đặt tên tuổi cho mình, ví dụ như Pêđrô tỉnh Alcala, Huan tỉnh Ubêđa hay Điêgô tỉnh Vaiađôlit; chắc là ở Ghinêa cũng vậy, cho nên các bà hoàng cũng mang tên vương quốc của mình.

- Chắc thế, Cha xứ nói; còn về vấn đề vợ con của chủ anh, tôi sẽ làm hết sức mình.

Xantrô mừng lắm, còn Cha xứ hết sức ngạc nhiên thấy bác quá ngây thơ và cũng ngông cuồng như chủ vì bác tin tưởng rằng chủ mình sẽ trở thành hoàng đế.

Lúc này, Đôrôtêa đã cưỡi lên con la của Cha xứ và bác phó cạo cũng đã đeo xong bộ râu làm bằng lông đuôi bò; họ bảo Xantrô dẫn đi gặp Đôn Kihôtê và còn dặn bác phải làm như không hề quen biết Cha xứ và bác phó cạo vì đó là vấn đề cốt tử để chủ bác trở thành hoàng đế. Cha xứ và Carđêniô không muốn đi cùng, Carđêniô thì ngại Đôn Kihôtê nhớ lại chuyện xô xát giữa hai người trước kia, còn Cha xứ cảm thấy sự có mặt của mình không cần thiết. Và thế là Đôrôtêa, bác phó cạo cùng Xantrô đi trước, Cha xứ và Carđêniô lững thững theo sau. Cha xứ không quên dặn dò Đôrôtêa cách thức phải làm nhưng nàng đáp là không ngại, mọi việc sẽ không sai một ly, đúng như tả trong các sách kiếm hiệp. Mới đi chưa được một dặm đường đã nhìn thấy Đôn Kihôtê giữa những quả núi đá; lúc này chàng đã mặc quần áo chỉnh tề nhưng chưa mang vũ khí. Được Xantrô cho biết đó là Đôn Kihôtê, Đôrôtêa quất roi thúc con la tiến lại theo sau là bác phó cạo râu ria xồm xoàm. Khi cả bọn đã tới gần Đôn Kihôtê, anh giám mã 2 nhảy từ lưng con la xuống đất chạy lại đỡ Đôrôtêa. Cô gái bước xuống một cách rất tự nhiên rồi tới quỳ trước mặt Đôn Kihôtê. Chàng hiệp sĩ khẩn khoản bảo nàng đứng dậy nhưng nàng không chịu, nàng nói:

- Hỡi hiệp sĩ dũng cảm! Thiếp sẽ không đứng dậy chừng nào chàng chưa rủ lòng thương và tỏ lòng hào hiệp nhận lời giúp thiếp một việc. Việc làm đó sẽ mang lại vinh dự cho chàng và hạnh phúc cho người con gái bị đau khổ và bị xúc phạm nhất dưới ánh mặt trời này. Nếu quả thật cánh tay của chàng dũng mãnh như danh tiếng bất hủ của chàng, xin hãy cứu vớt đứa con gái bất hạnh này đã được nghe danh chàng và từ xứ sở xa xôi tới đây nhờ chàng giải ách cho.

- Tiểu thư xinh đẹp, Đôn Kihôtê nói, tôi sẽ không đáp lời nàng và cũng sẽ không nghe nàng kể lể sự tình chừng nào nàng chưa chịu đứng dậy.

- Thưa hiệp sĩ, cô gái sầu muộn đáp, thiếp sẽ không đứng lên chừng nào tấm lòng hào hiệp của chàng chưa nhận lời giúp cho.

- Tôi xin nhận và làm theo ý nàng nếu như việc đó không phương hại tới đức vua, tổ quốc tôi và con người đang nắm cả trái tim lẫn tự do của tôi.

- Thưa hiệp sĩ, cô gái đau khổ đáp, việc đó sẽ không phương hại gì tới những điều chàng vừa kể ra.

Lúc này, Xantrô Panxa ghé tai chủ nói nhỏ:

- Ngài có thể nhận lời được đấy, việc đó không có gì đâu, chỉ là đập chết một tên khổng lồ thôi; còn cô gái này là nàng công chúa cao quý Micômicôna, trị vì đại vương quốc Micômicôn ở Êtiôpia đấy.

- Dù nàng là ai, Đôn Kihôtê đáp, ta cũng làm theo tiếng gọi của bổn phận và lương tâm ta, phù hợp với nghề nghiệp của ta.

Chàng quay sang bảo cô gái:

- Tiểu thư xinh đẹp hãy đứng dậy, tôi xin nhận lời thỉnh cầu của nàng.

- Nếu vậy, thiếp dám xin con người hào hiệp hãy cùng đi với thiếp và hứa không nhúng tay vào một việc gì khác hoặc giúp đỡ ai khác trước khi trả được mối thù cho thiếp và trừng trị một tên phản bội đã chiếm đoạt vương quốc của thiếp bất kể đạo lý của trời đất.

- Tôi xin tuyên bố nhận lời và ngay từ hôm nay, nàng sẽ xua đuổi được nỗi ưu phiền và lấy lại được niềm hy vọng đã mất; với sự phù trợ của Chúa và sự giúp đỡ của cánh tay này, nàng sẽ chóng thu hồi được giang sơn, trở lại ngôi báu cũ mặc dù có những kẻ phản nghịch muốn chống lại. Thôi, ta hãy bắt tay vào việc vì người ta thường nói rằng sự chậm trễ gây ra tác hại.

Cô gái hoạn nạn khẩn khoản xin Đôn Kihôtê cho phép hôn tay nhưng chàng hiệp sĩ hào hoa và lịch sự đâu có nghe; chàng đỡ nàng dậy, hôn một cách rất lịch sự, rồi bảo Xantrô thắt chặt yên cương con Rôxinantê và đeo vũ khí vào cho mình. Bác giám mã chuẩn bị ngựa, lấy đống vũ khí treo trên cành cây, nom như một đống chiến lợi phẩm, nhanh nhẹn khoác vào người chủ. Xong xuôi, Đôn Kihôtê nói:

- Với sự phù hộ của Chúa, chúng ta hãy lên đường giúp đỡ nàng công chúa cao quý này.

Trong khi đó, bác phó cạo vẫn quỳ dưới đất, cố hết sức nín cười và giữ cho bộ râu không tuột để khỏi hỏng việc. Sau khi thấy Đôn Kihôtê đã nhận lời và sốt sắng ra đi làm nhiệm vụ, bác bèn đứng dậy cầm lấy một tay cô gái và cùng với Đôn Kihôtê đỡ nàng ngồi lên con la; rồi Đôn Kihôtê nhảy lên con Rôxinantê, bác phó cạo cũng leo lên con la; riêng Xantrô không có gì cưỡi phải đi bộ, và bác lại nhớ tới con lừa bị mất. Tuy nhiên bác vẫn vui vẻ nghĩ rằng chủ mình đã đi đúng con đường dẫn thẳng tới ngôi báu vì không còn nghi ngờ gì nữa, chủ bác sẽ lấy cô công chúa này và xoàng ra cũng làm vua xứ Micômicôn. Có một điều làm bác buồn phiền khi nghĩ rằng vương quốc đó thuộc vùng dân da đen ở, và như vậy những người thuộc quyền cai trị của bác sẽ là người da đen; nhưng bác lại nghĩ ra một cách giải quyết, bác tự bảo: "Dù đám thần dân của ta là người da đen cả cũng chẳng sao. Ta chỉ việc cho chúng xuống tàu chở về Tây Ban Nha bán lấy tiền rồi với số tiền đó, ta mua một chức tước hay xin một việc gì làm cũng đủ sống ung dung suốt đời. Phải, nếu cứ nằm một chỗ thì chả bao giờ nảy ra mưu khôn để giải quyết công việc, để có thể bán được ba vạn hay một vạn tên nô lệ dễ như bán một bó rơm vậy. Lạy Chúa, dù chúng to lớn hay bé nhỏ, ta cũng cứ bán đổ đống cả mớ và dù chúng đen, ta cũng làm cho biến thành bạc hay vàng. Thật vậy, chẳng qua ta giả ngu giả ngốc đó thôi". Nghĩ thế, Xantrô lấy làm hài lòng lắm, quên cả nỗi khổ cực phải đi bộ.

Carđêniô và Cha xứ nấp sau núi và bụi cây, nhìn thấy hết nhưng chưa biết làm cách nào để nhập bọn. Cha xứ, vốn đa mưu túc trí, đã nảy ra một ý kiến để thực hiện ý đồ; ông rút trong túi ra một cái kéo, xén luôn bộ râu của Carđêniô, đưa cho chàng cái áo nâu ông đang mặc cùng tấm áo choàng ngắn màu đen, chỉ giữ lại quần nịt và chiếc áo ngắn; hình dạng Carđêniô thay đổi hẳn khiến chính bản thân chàng có soi gương cũng chẳng nhận ra. Lúc này, đoàn của Đôn Kihôtê đã đi xa; cải trang xong, hai người đuổi theo và ra đến đường cái quan trước vì đường lối ở đây rậm rạp khúc khuỷu, cưỡi ngựa cũng chẳng nhanh hơn đi bộ. Ra khỏi núi tới đồng bằng, Cha xứ và Carđêniô đứng chờ; khi thấy Đôn Kihôtê và mọi người tới, Cha xứ nhìn chằm chằm vào chàng hiệp sĩ làm như thể nhận ra người quen, rồi sau một lát, ông tiến lại gần chàng dang hai tay kêu lên:

- May sao đã tìm thấy chàng Đôn Kihôtê xứ Matra, người đồng hương của tôi, tấm gương của giới hiệp sĩ, tinh hoa của sự phong nhã, chỗ dựa vững chắc của những kẻ khốn cùng, tinh túy của các hiệp sĩ giang hồ.

Nói rồi, Cha xứ ôm lấy đùi trái của Đôn Kihôtê. Bỗng dưng thấy có người nói năng và hành động như vậy, chàng hiệp sĩ sửng sốt lắm; chàng nhìn kỹ và cuối cùng lấy làm ngạc nhiên nhận ra đó là Cha xứ; chàng cố gắng xuống ngựa nhưng Cha xứ ngăn lại. Đôn Kihôtê nói:

- Ngài cứ hãy mặc tôi; không lẽ tôi cưỡi ngựa trong lúc một con người đáng kính như ngài phải đi bộ.

- Tôi không nghe ông đâu, Cha xứ đáp. Ông phải cưỡi ngựa để còn lập những chiến công và làm những cuộc phiêu lưu có một trong kỷ nguyên này; tôi chỉ là một nhà tu hành vô danh tiểu tốt, nếu được các vị cùng đi với ông vui lòng cho ngồi ghép phía sau trên mông con la của họ cũng đã tốt chán; được như vậy cũng chẳng khác gì tôi được cưỡi con Pêgaxô 3 hay con ngựa vằn của anh chàng Môrô tên là Nuxarakê nổi tiếng bị phù phép và cho tới bây giờ vẫn nằm trên quả đồi cao Xulêma ở gần thành phố Cômplutô.

- Dù vậy, tôi vẫn không thông, ngài cử của tôi ạ; vả chăng tôi biết rằng nàng công chúa đây sẽ vì tôi mà ra lệnh cho giám mã của nàng nhường ngài ngồi trên yên, còn anh ta sẽ ngồi ghép đằng sau nếu con la có thể mang được cả hai người.

- Theo thiếp nghĩ, nó có thể mang được, nàng công chúa đáp, và thiếp biết rằng không cần phải bảo giám mã của thiếp điều đó; anh ta rất có phép tắc và sẽ không để một nhà tu hành đi bộ trong lúc có điều kiện cưỡi ngựa.

- Đúng vậy, bác phó cạo đáp.

Nói rồi, bác nhảy ngay xuống đất mời Cha xứ ngồi lên yên; ông này nhận lời ngay. Không may, trong lúc bác phó cạo leo lên ngồi phía sau, con la - đó là một con la thuê, có nghĩa là một con vật không thuần - vểnh mông đá hậu hai cái; quả thật nếu nó đá trúng ngực hoặc đầu bác phó Nicôlax thì chắc bác sẽ phải nguyền rủa sự ra đời của Đôn Kihôtê. Tuy nhiên, bác chủ đã bị mất thăng bằng ngã lăn xuống đất, bộ râu giả văng ra, không kịp giữ lại. Thấy mất râu, bác chỉ còn biết lấy hai tay ôm mặt, kêu ầm là bị ngựa đá gãy răng. Nhìn đống râu văng ra khỏi mặt người giám mã, không dính vào hàm và cũng không dính máu, Đôn Kihôtê nói:

- Lạy Chúa, thật là kỳ diệu! Bộ râu tuột khỏi cằm như thể có người cố tình giật ra vậy.

Thấy mưu kế của mình có nguy cơ bị lộ, Cha xứ vội chạy tới nhặt bộ râu mang lại cho bác Nicôlax lúc này vẫn đang nằm ềnh dưới đất kêu la om sòm; ông nâng đầu bác lên ngang ngực mình, vừa lắp râu vào cằm bác, vừa đọc lẩm nhẩm mấy câu; ông bảo đó là đọc thần chú để lắp râu vào cằm. Sau khi lắp râu xong, ông lùi ra và mọi người thấy cằm bác phó cạo lại đầy đủ râu ria, da thịt nhẵn nhụi như trước. Đôn Kihôtê lấy làm lạ lắm, yêu cầu Cha xứ truyền lại phép cho chàng khi nào có dịp; chàng cho rằng phép đó phải có tác dụng lớn hơn nữa vì một khi bộ râu văng ra, da thịt ở cằm tất phải bị rách, thế mà mặt anh giám mã vẫn nhẵn nhụi chứng tỏ phép đó làm lành được cả thịt da.

- Đúng thế, Cha xứ đáp và hứa sẽ truyền lại ngay khi nào có dịp.

Mọi người bàn là để Cha xứ cưỡi con la một mình rồi từng đoạn đường sẽ thay đổi nhau cho tới khi đến quán trọ cách đó hai dặm. Thế là có ba người cưỡi ngựa và la, đó là Đôn Kihôtê, nàng công chúa và Cha xứ, và ba người đi bộ: Carđêniô, bác phó cạo và Xantrô Panxa. Đôn Kihôtê nói với cô gái:

- Xin để tùy nàng dẫn chúng tôi đi.

Cô gái chưa kịp đáp, Cha xứ đã lên tiếng:

- Chẳng hay nàng định đưa chúng tôi tới vương quốc nào? Phải chăng tới vương quốc Micômicôn? Chắc là như vậy, bằng không tôi thật chẳng biết gì về những vương quốc cả.

Cô gái vốn tinh ý, hiểu ngay phải trả lời như thế nào, bèn đáp:

- Thưa ngài, đúng vậy; tôi đi về vương quốc Micômicôn.

- Nếu thế, Cha xứ nói, chúng ta sẽ phải qua làng tôi; từ đó nàng sẽ đi về phía Cartahêna rồi lên thuyền nếu không gặp trắc trở gì, nếu thuận buồm xuôi gió, trời yên bể lặng, ngót chín năm sau, chúng ta sẽ trông thấy đầm lớn Mêôna, còn gọi là Mêôtiđêx, cách vương quốc của nàng trên một trăm ngày đường nữa.

- Ngài nhầm rồi, cô gái nói; tôi từ quê nhà ra đi chưa đầy hai năm, thời tiết không lúc nào tốt; vậy mà tôi đã gặp được con người mà tôi hằng mong mỏi tức là ngài Đôn Kihôtê xứ Mantra; tôi vừa đặt chân lên đất Tây Ban Nha đã nghe tiếng đồn về chàng, khiến tôi phải đi tìm ngay để cầu cứu tấm lòng hào hiệp của chàng và gửi gắm nguyện vọng chính đáng của tôi vào cánh tay vô địch của chàng.

- Thôi, thôi, xin chớ ca tụng tôi, Đôn Kihôtê nói; tôi là kẻ thù của mọi sự phỉnh nịnh, và mặc dù nàng không định làm như vậy, nhưng lời nói đó đã làm chối đôi tai trong sạch của tôi. Tôi chỉ xin thưa với nàng rằng dù tôi có đủ hay không có đủ can đảm, tôi cũng sẽ dùng nó - dù đủ hay không đủ - để phụng sự nàng cho tới giọt máu cuối cùng. Nhưng thôi, hãy đợi đến lúc đó sẽ hay, bây giờ xin ngài cử cho tôi biết nguyên nhân nào dẫn ngài tới đây? Vì sao ngài đi một mình không người theo hầu, quần áo quá đơn sơ như vậy khiến tôi phải kinh ngạc?

- Tôi xin trả lời vắn tắt, Cha xứ đáp. Xin thưa để ngài biết rằng tôi và bác Nicôlax - tức là ông bạn phó cạo của chúng ta - đi Xêviia để lĩnh một món tiền do một người bà con sống ở châu Mỹ lâu năm gửi cho tôi; số tiền đó không nhỏ, sáu mươi ngàn đồng bằng bạc loại tốt, một món tiền đáng kể. Ngày hôm qua, chúng tôi đang đi bỗng đâu có bốn tên cướp đường xông ra lột chúng tôi đến tận râu khiến bác phó cạo phải mang một bộ râu giả; còn anh chàng trai trẻ này, - Cha xứ chỉ vào Carđêniô, - cũng bị chúng lột trần như đứa trẻ sơ sinh. Có điều đáng chú ý là xung quanh vùng này, người ta đồn ầm rằng lũ cướp đường đó là những tên tù khổ sai đã được một người giải thoát cho ngay tại gần đây; người đó cả gan dám đánh cả viên đội và tốp lính đi áp giải để thả bọn tù; chắc chắn đó là một kẻ mất trí, hoặc cũng xấu xa như bọn tù, hoặc là một kẻ vô linh hồn vô lương tâm vì y đã muốn lùa chó sói vào giữa đàn cừu, lùa con cáo vào giữa đàn gà, lùa con ruồi vào đống mật ngọt; y đã muốn lừa dối công lý, chống lại nhà vua trị vì muôn loài vì y đã không tuân thủ những lệnh sáng suốt của người; y đã muốn tước bỏ những chiếc bơi chèo trên các chiến thuyền của đức vua, khuấy động đội Xanta Ermanđát từ bao nhiêu năm nay sống trong cảnh yên bình, và cuối cùng làm một việc để tự hủy hoại linh hồn mà chẳng mang lợi ích gì cho thể xác.

Cha xứ đã được Xantrô kể cho nghe câu chuyện về việc giải thoát bọn tù khổ sai mà Đôn Kihôtê rất hãnh diện, cho nên lúc này ông cố ý nhắc lại để xem thái độ của chàng hiệp sĩ ra sao; ông nói tới đâu, mặt Đôn Kihôtê biến sắc tới đó, và chàng không dám nhận là người đã giải thoát cho lũ tù nhân.

- Chính những tên tù đó đã cướp bóc chúng tôi, Cha xứ nói. Cầu Chúa rủ lòng thương và tha tội cho con người đã giải thoát chúng khỏi một hình phạt mà chúng đáng phải chịu.

--------------------------------
1Tức là Cha xứ.
2Tức là bác phó cạo.
3Ngựa thần thoại, có hai cánh.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes


Chương XXX

NÓI VỀ TÀI KHÔN KHÉO CỦA NÀNG ĐÔRÔTÊA XINH ĐẸP CÙNG NHỮNG CHUYỆN GIẲI TRÍ KHÁC RẤT LÝ THÚ



Cha xứ chưa dứt lời, Xantrô đã lên tiếng:

- Thưa ngài cử, con người đã lập nên thành tích đó chính là ông chủ tôi; thực ra trước đó, tôi đã bảo ông ấy là phải suy nghĩ về việc làm của mình vì bọn chúng là những tên đầu trộm đuôi cướp, giải thoát cho chúng là có tội.

- Đồ ngu, Đôn Kihôtê nói; một khi giữa đường gặp những kẻ khốn khổ, bị cùm kẹp, áp chế, bị giải đi như những người tù, người hiệp sĩ giang hồ đâu có phận sự phải biết rằng họ có tội hay không có tội. Người hiệp sĩ chỉ có phận sự cứu vớt họ như cứu vớt những kẻ khốn cùng, và chỉ cần biết nỗi khổ đau của họ, không để mắt tới những hành động xấu xa họ đã làm. Ta đã gặp một xâu những con người ủ rũ và cực nhục, và ta đã giúp họ theo tiếng gọi của hiệp sĩ đạo, nếu phải tội ta xin chịu. Nếu có kẻ nào - trừ ngài cử đáng kính - cho rằng làm như vậy là sai, ta sẽ đáp rằng y chẳng biết gì về hiệp sĩ đạo cả và y đã nói láo như một kẻ đê tiện hạ lưu, và ta sẽ làm cho mở mắt bằng thanh kiếm lợi hại này.

Nói rồi, chàng lấy chân ghì chặt bàn đạp, chụp mũ sắt lên đầu (chàng vẫn mang theo cái chậu cạo râu - mà chàng ngỡ là cái mũ sắt của Mambrinô -, treo nó ở mỏm yên chờ ngày sửa chữa lại sau lần bị bọn tù đập vỡ).

Đôrôtêa là một cô gái khôn ngoan và tế nhị, biết Đôn Kihôtê tính tình gàn dở, thường bị mọi người chế giễu, trừ Xantrô Panxa; thấy chàng nổi nóng, cô bèn lên tiếng:

- Thưa hiệp sĩ, xin chàng nhớ cho rằng chàng đã nhận lời giúp thiếp và như vậy chàng không thể nhúng tay vào một cuộc phiêu lưu nào khác dù cần cấp đến mấy chăng nữa; xin chàng hãy bình tâm lại. Ví thử ngài cử đây biết rằng chính cánh tay vô địch này đã giải thoát cho bọn tù, chắc chắn ngài ấy sẽ khâu ba mũi kim vào mồm và cắn ba lần vào lưỡi chứ không khi nào lại thốt ra những lời có phương hại đến uy danh của chàng.

- Tôi xin thề là như vậy, Cha xứ nói, dù tôi có phải vặt nửa bộ râu này đi.

- Thưa nàng, tôi sẽ im lặng, Đôn Kihôtê đáp, và tôi xin dẹp nỗi tức giận chính đáng đang sôi sục trong lòng. Tôi sẽ giữ bình tĩnh cho tới khi hoàn thành nhiệm vụ đã hứa với nàng. Nhưng để đáp lại thiện chí của tôi và nếu như điều đó không làm nàng phiền lòng, xin hãy nói cho tôi biết nỗi buồn đau của nàng; còn những kẻ mà tôi phải trừng trị một cách đích đáng và đầy đủ để rửa hận cho nàng, những kẻ đó là ai, gồm bao nhiêu tên?

- Thiếp xin vui lòng, Đôrôtêa nói, nếu như những chuyện buồn thảm và đau khổ không làm chàng chán tai.

- Đâu có, thưa nàng.

- Nếu vậy, xin các ngài hãy chú ý nghe thiếp kể.

Đôrôtêa vừa dứt lời, Carđêniô và bác phó cạo vội tiến lại gần để xem cô gái khôn ngoan này bày ra câu chuyện gì; Xantrô cũng sán đến bên cô ta vì bác cũng bị mắc lừa như chủ vậy. Đôrôtêa ngồi lại ngay ngắn trên yên, hắng giọng mấy cái rồi, với một điệu bộ rất duyên dáng, bắt đầu kể như sau:

- Trước hết, xin các ngài biết cho rằng người ta gọi thiếp là...

Đến đây, cô ta ngừng lại một chút vì quên bẵng cái tên mà Cha xứ đã đặt cho; biết vì sao Đôrôtêa ngừng lại, cha xứ vội lên tiếng cứu nguy cho cô ta:

- Nàng bối rối và lúng túng khi kể về nỗi bất hạnh của mình, điều đó không có gì là lạ. Thói thường, sự đau khổ vùi dập con người làm mất trí nhớ đến mức quên cả tên mình. Chính vì thế mà nàng đã quên nàng là công chúa Micômicôna, người kế thừa chính thức đại vương quốc Micômicôn. Tôi xin nhắc như vậy để nàng có thể dễ dàng nhớ lại trong ký ức sầu thảm những điều mà nàng muốn kể ra đây.

- Quả thật như vậy, cô gái đáp; từ bây giờ, thiếp nghĩ rằng sẽ không cần thiết phải nhắc thiếp nữa và thiếp sẽ kể được hết câu chuyện có thật của thiếp, câu chuyện đó như sau: phụ vương của thiếp tên là Tinacriô Hiền Nhân, rất giỏi về pháp thuật; người đoán được rằng mẹ thiếp tức là hoàng hậu Haramiia sẽ chết trước, và rồi sau đó ít lâu người cũng sẽ từ giã cõi đời, bỏ thiếp một mình, mồ côi cả cha lẫn mẹ. Nhưng người vẫn thường nói rằng người không ngại chuyện đó; trái lại có một điều làm người lo lắng hơn: số là cha thiếp biết chắc chắn rằng có một gã khổng lồ quái dị làm chúa một hòn đảo lớn ở cách vương quốc thiếp không xa; gã khổng lồ này tên là Panđaphilanđô Mắt Lé vì mặc dù hai con mắt của y ngay ngắn, không có tật gì, y vẫn cứ nhìn lệch về một bên như một người bị lác, làm ra vậy để dọa cho mọi người phải sợ. Cha thiếp đoán trước được rằng một khi gã khổng lồ đó biết thiếp mồ côi, y sẽ dẫn một đạo quân lớn tràn vào đất nước của thiếp và sẽ chiếm đoạt hết lãnh thổ không để lại một xóm làng nào cho thiếp nương thân, và thiếp chỉ có một cách lấy y làm chồng mới tránh khỏi thảm họa đó. Cha thiếp biết rằng thiếp sẽ không bao giờ chịu nhận một cuộc hôn nhân quá chênh lệch như vậy, và quả thật thiếp không bao giờ có ý nghĩ lấy tên khổng lồ đó hoặc một kẻ nào khác, dù kẻ đó hùng mạnh đến mấy. Cha thiếp còn dặn dò thiếp là sau khi người qua đời, nếu thấy tên Panđaphilanđô sang thôn tính đất nước thì không nên chống cự lại vì làm việc đó sẽ bị tiêu vong, trái lại cứ để cho y tự do chiếm đóng nếu muốn tránh cho đám dân lành sự chết chóc hủy diệt vì thiếp không sao đương đầu nổi trước sức mạnh khủng khiếp của y; sau đó thiếp phải lập tức đi tới nước Tây Ban Nha cùng với một vài người thân cận và sẽ tìm được một hiệp sĩ giang hồ giải nguy cho; hiệp sĩ đó tiếng tăm lừng lẫy cả nước và nếu thiếp chưa quên, tên chàng là Đôn Axôtê hay Đôn Higôtê 1 gì đó.

- Thưa bà, tên chàng là Đôn Kihôtê, Xantrô Panxa nói xen vào, còn gọi là hiệp sĩ Mặt Buồn.

- Đúng rồi, Đôrôtêa đáp, Cha thiếp còn tả rằng tầm vóc chàng cao, mặt khô khẳng, phía người bên phải, dưới vai trái hoặc quanh quẩn đâu đó có một nốt ruồi nâu với mấy cái lông cứng như lông lợn 2.

Nghe nói vậy, Đôn Kihôtê bảo giám mã của mình:

- Xantrô con ta, hãy lại đây giúp ta cởi áo xem ta có đúng là nhà hiệp sĩ mà ông vua thông thái kia đã tiên đoán không.

- Chàng cởi áo ra làm chi? Đôrôtêa hỏi.

- Để xem tôi có cái nốt ruồi mà cha nàng đã tả không, Đôn Kihôtê đáp.

- Chả cần phải cởi áo đâu, Xantrô nói; tôi biết ngài có một cái nốt ruồi như vậy ở giữa sống lưng; đó là một dấu hiệu chứng tỏ sức mạnh của con người.

- Thế là đủ rồi, Đôrôtêa nói; chỗ quen thuộc ta chả cần phải tỉ mỉ quá làm gì, và dù cái nốt ruồi đó ở vai hay ở sống lưng cũng không quan trọng, miễn là có nốt ruồi, còn nó ở đâu cũng được vì cũng vẫn xương thịt ấy cả mà thôi. Chắc chắn cha thiếp đã nói đúng và thiếp đến đây cầu cứu chàng Đôn Kihôtê cũng là đúng. Chính chàng là hiệp sĩ mà cha thiếp đã tiên đoán vì những nét đặc biệt trên mặt chàng ăn khớp với tiếng tăm của chàng hiệp sĩ lừng danh không những ở Tây Ban Nha mà còn cả ở xứ Mantra; thiếp vừa ở dưới thuyền đặt chân lên Ôxuna đã nghe người ta đồn về những chiến công của chàng, và thiếp tự bảo rằng đó là người thiếp đang đi tìm.

- Nhưng làm sao nàng có thể ở dưới thuyền đặt chân lên Ôxuna được vì đó có phải là một hải cảng đâu? Đôn Kihôtê hỏi.

Đôrôtêa chưa kịp đáp, Cha xứ đã đỡ lời:

- Chắc là công chúa muốn nói rằng sau khi lên bến Malaga , nàng đi tới Ôxuna thì được nghe đồn về ngài.

- Thiếp định nói như vậy đó, Đôrôtêa đáp.

- Thế thì đúng rồi, Cha xứ nói; thôi, xin nàng kể tiếp.

- Thiếp cũng chẳng còn gì kể nữa, Đôrôtêa đáp. Chỉ xin nói thêm rằng cuối cùng, thiếp đã vô cùng may mắn tìm thấy chàng Đôn Kihôtê khiến thiếp cảm thấy như đã trở lại ngôi báu rồi; với một tấm lòng hào hiệp và quảng đại, chàng đã hứa nhận lời đi bất cứ nơi nào theo thiếp, nghĩa là đi gặp tên Panđaphilanđô Mắt Lé, để trừ khử y và trao trả lại cho thiếp những cái mà y đã chiếm đoạt một cách phi lý. Tất cả những điều đó nhất nhất sẽ phải xảy ra như người cha yêu quý của thiếp là Tinacriô Hiền Nhân đã tiên đoán; người còn ghi lại bằng tiếng Calđê hay Hy Lạp gì đó, mà thiếp không đọc được, rằng sau khi đã chặt đầu tên khổng lồ, nếu chàng hiệp sĩ ngỏ ý cầu hôn thì thiếp phải tự nhận ngay là vợ chính thức của chàng, không được chối cãi nửa lời, và cả vương quốc của thiếp lẫn con người thiếp đều thuộc về chàng.

- Anh thấy thế nào, anh bạn Xantrô? Đôn Kihôtê nói. Đã nghe thấy gì chưa? Ta chẳng vẫn thường nói đó sao? Hãy xem đó, chúng ta có đất đai để cai trị và có công chúa để kết hôn.

- Tôi chịu ngài rồi, Xantrô nói. Chỉ có kẻ nào ngu ngốc mới không lấy bà hoàng sau khi đã rạch cổ ông tướng Panđailanđô! Sao, hay là còn chê bà hoàng xấu xí? Thôi đi, tôi chỉ mong những con rệp ở giường tôi cũng được xấu như vậy!

Nói xong, Xantrô nhảy cỡn lên tỏ vẻ vui thích lắm; bác chạy lại giữ cương con la của Đôrôtêa, bắt nó dừng lại, rồi bác quỳ xuống trước mặt nàng, xin nàng đưa tay cho hôn để tỏ rằng bác nhận nàng là hoàng hậu và chủ của mình. Thử hỏi ai nhịn được cười trước sự điên rồ của chủ cũng như sự ngây thơ của tớ? Đôrôtêa chìa tay ra và hứa hẹn sẽ phong cho bác làm quan đại thần trong triều đình khi nào trời giúp cho nàng khôi phục được giang sơn. Những lời cảm ơn của Xantrô khiến mọi người lại được một dịp cười.

- Thưa các ngài, Đôrôtêa kể tiếp, đó là câu chuyện về thiếp; thiếp chỉ còn một điều để nói với các ngài là trong số những người thiếp đem đi theo, bây giờ chỉ còn lại anh giám mã có bộ râu dài kia vì khi vào gần tới bến, bọn thiếp gặp một cơn bão và họ đã chết đuối cả; riêng anh giám mã và thiếp vào được đất liền nhờ có hai tấm ván; điều đó thật là kỳ lạ, cũng kỳ lạ và bí ẩn như cả cuộc đời thiếp mà các ngài đã thấy. Nếu trong khi thiếp kể, có điều gì thất thố hoặc không đúng, xin các ngài hãy nhớ tới lời ngài cử đã nói lúc thiếp bắt đầu kể chuyện: những sự đau khổ ghê gớm và triền miên làm con người ta mất hết trí nhớ.

- Hỡi công chúa cao quý! Đôn Kihôtê nói, chừng nào tôi còn phụng sự nàng, những nỗi đau khổ, dù to lớn chừng nào, cũng không làm tôi mất trí nhớ được; tôi xin khẳng định một lần nữa lời hứa của tôi và thề sẽ cùng đi với nàng đến cùng trời cuối đất cho tới khi tôi chạm trán kẻ thù hung bạo của nàng, và tôi tin rằng với sự phù hộ của Chúa và với cánh tay này, tôi sẽ chặt đứt cái đầu kiêu ngạo kia bằng lưỡi gươm này... mà tôi không dám nói là sắc bén vì tên Hinêx đê Paxamôntê đã lấy cắp thanh gươm quý của tôi. Đôn Kihôtê nói rất nhỏ đoạn sau, rồi chàng lại tiếp:

- Sau khi tôi đã chặt đầu tên khổng lồ và trao lại giang sơn cho nàng, nàng có toàn quyền định đoạt con người mình theo ý muốn, vì trong khi trí nhớ của tôi còn vấn vương chuyện khác, ý muốn còn bị trói buộc và đầu óc còn bị phụ thuộc vào con người kia... tôi chỉ nói thế thôi... thì tôi không đủ can đảm nghĩ tới việc lấy ai, dù đó là chim phượng hoàng.

Xantrô cảm thấy rất bực khi nghe chủ nói là không muốn lấy ai, bác nổi khùng hét to:

- Ngài Đôn Kihôtê, tôi xin thề là ngài lú lẫn ruột gan rồi! Sao lại có thể ngần ngại không muốn lấy một nàng công chúa cao quý như vậy? Ngài tưởng rằng lúc nào thần May Rủi cũng dành cho ngài một cơ hội may mắn như thế này ư? Liệu bà chủ Đulxinêa có xinh đẹp hơn không? Nhất định là không, không bằng một nửa, thậm chí tôi muốn nói là không thấm gót con người đang đi phía trước kia. Nếu ngài cứ tơ tưởng hão huyền thì bao giờ tôi mới trở thành bá tước và làm chủ một lãnh địa như tôi vẫn mơ ước. Tôi kêu cầu tất cả lũ quỷ Xa-tăng giúp tôi. Ngài hãy cưới nàng công chúa này đi, cưới ngay đi, và hãy nhận lấy vương quốc tự trên trời rơi vào tay ngài; một khi ngài đã làm vua, hãy phong cho tôi làm hầu tước hay một chức gì cao hơn nữa, còn lại bao nhiêu tôi xin nhường tất cho quỷ.

Nghe Xantrô phỉ báng nàng Đulxinêa, Đôn Kihôtê không nhịn nổi; chàng giơ cao ngọn giáo, chẳng nói chẳng rằng, lẳng lặng phang luôn cho Xantrô hai cái làm bác ngã lăn ra đất, và nếu Đôrôtêa không lên tiếng can ngăn, ắt chàng đã đánh chết bác giám mã. Một lát sau, chàng mới lên tiếng:

- Thằng súc sinh đê tiện kia, mi tưởng lúc nào cũng có thể nói năng suồng sã như vậy đối với ta sao? Lúc nào mi cũng nói bậy được và ta cũng tha thứ cho sao? Chớ có tưởng như thế, quân đê tiện bị rút phép thông công kia; phải, đúng là mi bị rút phép thông công vì mi đã nói động đến nàng Đulxinêa vô song. Hỡi kẻ thô lỗ, cục cằn, xấu bụng kia, mi không biết rằng nếu không có nàng tiếp sức cho cánh tay ta thì ta không giết nổi một con bọ ư? Tên độc mồm độc miệng kia, mi không biết rằng sở dĩ ta chiếm lại được vương quốc Micômicôn, chặt đứt đầu tên khổng lồ và phong cho mi là hầu tước (ta coi tất cả những điều đó như đã được thực hiện và được công nhận rồi) là nhờ có nàng Đulxinêa đã sử dụng cánh tay ta để lập chiến công ư? Nàng đã nhập vào ta mà chiến đấu và chiến thắng; ta sống được, hít thở được là nhờ có nàng. Nhờ có nàng mà ta được làm người và nên người. Ôi, tên khốn kiếp, đê tiện, bất nhân kia! Người ta đưa mi từ chốn đất bụi lên ông nọ bà kia, vậy mà mi báo đáp lại bằng cách nói xấu người làm ơn như vậy đó ư!

Xantrô bị đánh không đau lắm nên vẫn nghe được hết những lời của chủ; bác vội vàng đứng dậy, chạy lại lấp sau con la của Đôrôtêa, nói vọng về phía Đôn Kihôtê:

- Xin hỏi ngài: nếu ngài cứ khăng khăng không chịu lấy nàng công chúa cao quý này, hiển nhiên là vương quốc Micômicôn sẽ không thuộc về ngài và nếu như vậy thì ngài ban cho tôi được cái gì? Chính đó là điều làm tôi phải than phiền. Xin ngài hãy cưới nàng công chúa trong lúc ta bắt gặp nàng tại đây như thể từ trên trời rơi xuống, rồi sau đó ngài vẫn có thể quay trở lại với bà Đulxinêa. Chắc là trên đời này cũng không thiếu những ông vua có nhân tình. Về nhan sắc của hai người, tôi không có ý kiến, nhưng nếu phải nói sự thật, tôi thấy cả hai cùng đẹp cùng giòn tuy rằng tôi chưa nhìn thấy bà Đulxinêa bao giờ.

- Sao lại chưa nhìn thấy là thế nào, tên phản phúc, tên báng bổ kia? Đôn Kihôtê nói. Mi chẳng mang về đây cho ta lời nhắn nhủ của nàng là gì?

- Tôi muốn nói là tôi chưa nhìn kỹ, Xantrô đáp, thành thử không nhận thấy rõ sắc đẹp và những nét nổi bật của bà ta; nhưng nhìn chung cả khối thì thấy được đấy.

- Thôi, ta tha lỗi cho anh, Đôn Kihôtê nói, và anh cũng chả nên chấp thái độ nóng nảy của ta làm gì vì con người ta thường không kiềm chế được những hành động bột phát của mình.

- Tôi hiểu lắm, Xantrô đáp; bản thân tôi cũng hay bột phát trong lời nói, và một khi lưỡi đã mấp máy thì tôi không thể nhịn được.

- Xantrô, dù sao anh cũng phải giữ mồm, giữ miệng vì cứ hay nói bậy, có ngày oan gia đó... thôi ta nói thế thôi.

- Được lắm, Xantrô nói, Chúa ở trên trời nhìn thấy hết những sự ám muội và sẽ nhận xét ai xấu giữa tôi là kẻ nói năng vụng về và ngài là người có những hành động không tốt.

- Xantrô, không được nói nữa, Đôrôtêa lên tiếng; hãy lại hôn tay chủ anh và xin lỗi đi; từ nay về sau phải thận trọng hơn trong việc khen chê người khác; còn đối với bà Tôbôxô mà ta không quen biết, anh không được nói xấu mà phải phụng sự tử tế. Hãy tin vào Chúa, người sẽ không quên ban cho anh một lãnh địa để anh có thể sống như một ông hoàng.

Xantrô cúi gục đầu xin hôn tay chủ; Đôn Kihôtê nghiêm trang giơ tay ra. Sau khi Xantrô hôn xong, Đôn Kihôtê làm dấu ban phúc cho bác rồi bảo bác hãy cùng chàng đi lên trước vì chàng có nhiều điều rất quan trọng muốn hỏi và trao đổi. Xantrô vội rảo bước theo chủ; khi hai thầy trò đã đi cách xa mọi người, Đôn Kihôtê lên tiếng:

- Từ khi anh trở về đây, ta chưa có cơ hội và thời gian để hỏi anh tỉ mỉ về nhiệm vụ mà anh đã được giao phó và về lời phúc đáp mà anh mang về cho ta. Bây giờ, nhân lúc rảnh rang, hãy làm cho ta hài lòng bằng những tin tốt lành đi nào.

- Ngài muốn hỏi gì thì cứ hỏi, Xantrô đáp, tôi cũng sẽ tuôn ra hết những điều đã lọt vào tai. Nhưng từ nay về sau, xin ông chủ chớ nên quá thù dai như vậy đối với tôi.

- Xantrô, tại sao anh lại nói thế?

- Tôi nói thế đấy; sở dĩ ngài đánh tôi là vì có chuyện mâu thuẫn đêm hôm nọ giữa hai thầy trò ta do ma quỷ gây ra, chứ không phải vì tôi nói động chạm gì đến bà Đulxinêa, một người mà tôi yêu mến và kính trọng như một vật linh thiêng, không phải vì bà ta có gì thánh thần mà vì bà ta là vật sở hữu của ngài.

- Xantrô, muốn sống thì đừng nhắc lại chuyện đó nữa, Đôn Kihôtê nói, vì nó làm ta buồn phiền. Ta đã tha tội cho anh, nhưng chắc anh cũng biết câu nói: "Tội lỗi mới, hình phạt mới".

Hai thầy trò đang nói đến đó, bỗng đâu trên đường cái có một người cưỡi lừa đi tới, lúc đến gần nom như một người Bôêmiêng 3. Xưa nay, mỗi khi nhìn thấy lừa là Xantrô nhìn hau háu; thoạt nhìn người đi tới, bác đã nhận ra ngay là Hinêx đê Paxamôntê, và từ anh chàng nom giống người Bôêmiêng đó, bác nhận ra con lừa của mình. Quả thật anh chàng Hinêx đang cưỡi con lừa của bác; để mọi người không nhận ra được mặt và để bán được lừa một cách dễ dàng, Hinêx đê Paxamôntê đã cải trang thành người Bôêmiêng vì y biết rất thành thạo các thứ tiếng nói của giống người này như tiếng mẹ đẻ vậy. Vừa nhận ra y, Xantrô hét ầm lên:

- Tên kẻ cắp Hinêxiiô kia! Trả của quý cho ta, trả cuộc sống cho ta, chớ cướp mất chỗ dựa của ta, để lại con lừa cho ta, trả lại niềm vui cho ta! Cút đi, đồ xấu xa; xéo ngay, quân ăn cắp, và hãy bỏ lại những cái gì không phải của mình!

Kể ra Xantrô chẳng cần phải la lối om sòm làm gì vì vừa nghe bác chửi câu đầu, Hinêx đã nhảy vội xuống đất, chạy như phi, thoắt một cái biến mất. Xantrô bước tới ôm lấy con lừa và hỏi nó:

- Thế nào, mày có được khỏe không, lừa của ta, đôi mắt của ta, bạn đường của ta?

Rồi bác vuốt ve hôn hít nó như đối với người vậy. Chú lừa lặng yên, chẳng nói chẳng rằng, mặc cho Xantrô hôn hít vuốt ve. Mọi người tới nơi mừng bác đã tìm thấy lừa, đặc biệt Đôn Kihôtê hứa không hủy bỏ tấm phiếu nhượng cho bác ba con lừa con; Xantrô cảm ơn chủ rối rít.

Trong lúc Đôn Kihôtê và Xantrô trao đổi bàn bạc riêng, Cha xứ cũng trò chuyện với Đôrôtêa; ông khen nàng đã kể chuyện rất khéo, vừa ngắn gọn vừa giống như sách kiếm hiệp. Đôrôtêa đáp là nàng thường đọc loại sách đó để giải trí, chỉ hiềm một nỗi là nàng không biết các tỉnh và các hải cảng ở chỗ nào nên đã nói mò là thuyền cập bến ở Ôxuna. Cha xứ nói:

- Biết vậy nên tôi phải vội đỡ lời cô và thế là mọi việc đều ổn thỏa. Nhưng thật kỳ lạ khi thấy anh chàng quý tộc khốn khổ kia tin một cách quá dễ dàng vào những câu chuyện hoang đường bịa đặt chỉ vì nó giống những sự việc ngớ ngẩn trong sách vở của chàng.

- Thật vậy, Carđêniô nói, thật là một điều lạ lùng chưa từng thấy, và tôi tự hỏi liệu có một bộ óc giỏi giang nào tưởng tượng ra được một nhân vật như vậy không.

- Nhưng còn một điều lạ lùng nữa, Cha xứ nói, vì ngoài những lời lẽ ngớ ngẩn điên rồ đó, chàng quý tộc của chúng ta có những câu phát biểu rất hay và chàng tỏ ra hiểu biết sáng suốt trong mọi vấn đề khác. Tóm lại, nếu không dính dáng tới những vấn đề về hiệp sĩ thì không ai dám bảo chàng là một người ngu đần.

Trong lúc mọi người bàn tán như vậy, Đôn Kihôtê vẫn mải nói chuyện với Xantrô, chàng bảo giám mã:

- Thôi, anh bạn Xantrô, chớ nhắc tới những chuyện mâu thuẫn giữa chúng ta nữa; hãy trút bỏ giận dữ hằn thù và trả lời ta: Anh đã gặp nàng Đulxinêa ở đâu, như thế nào, lúc nào? Nàng làm gì? Anh đã nói gì với nàng? Nàng trả lời anh thế nào? Nét mặt nàng ra sao khi đọc thư của ta? Ai đã chép lại bức thư đó cho anh? Hãy kể lại tất cả những điều mà anh thấy đáng để cho ta biết, hỏi và được thỏa mãn, không thêm thắt để cho ta vui lòng, nhưng cũng đừng cắt xén để cho ta khỏi phiền lòng.

- Nếu phải nói sự thật, Xantrô đáp, tôi xin thưa với ngài là không có ai chép lại bức thư đó bởi lẽ tôi không mang thư nào cả.

- Anh nói đúng đấy vì hai ngày sau khi anh ra đi, ta thấy ta vẫn giữ quyển lưu niệm trong đó có lá thư ta viết; điều đó làm ta rất phiền lòng vì ta không hiểu anh sẽ làm ăn ra sao khi không thấy thư ở đâu, và ta cứ tưởng anh sẽ quay về đây khi phát hiện thấy mình không mang thư.

- Quả thật tôi sẽ phải làm như vậy nếu tôi không thuộc lòng những lời trong thư mà ngài đã đọc cho nghe; nhờ vậy nên tôi đã đọc lại cho một ông giữ đồ thánh trong nhà thờ, và ông ấy đã chép lại không sai một chữ; ông ta bảo tôi rằng cả đời ông đã đọc được nhiều bức thư nhưng chưa bao giờ ông ta được thấy và được đọc một bức thư nào hay như vậy.

- Thế bây giờ anh còn nhớ không, Xantrô? Đôn Kihôtê hỏi.

- Thưa ngài, không ạ, Xantrô đáp, vì sau khi đã đọc cho ông ta chép lại, tôi thấy có nhớ cũng chẳng ích gì nên tôi quên đi luôn; có chăng tôi chỉ còn nhớ mấy chữ Thưa quái nương... à à... Thưa quý nương và câu cuối cùng Vì nàng phụng sự suốt đời, hiệp sĩ Mặt Buồn. Còn trong khúc giữa của bức thư, tôi đã dùng nhiều câu chữ, gọi bà ta là linh hồn, là cuộc sống, là đôi mắt đẹp.

--------------------------------

1Phiên âm chữ "gigok" trong tiếng Tây Ban Nha nghĩa là "thịt băm"

2Xin lưu ý độc giả về lối nói hài hước của Đôrôtêa trong đoạn này, ví dụ như gọi Đôn Kihôtê là Đôn Higôtê (thịt băm), như nốt ruồi ở phía người bên phải nhưng lại ở dưới vai trái, vân vân.

3Người xứ Bôhêmiêng, ở Trung Âu, sống nay đây mai đó.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes


Chương XXXI


CUỘC ĐÀM THOẠI LÝ THÚ GIỮA ĐÔN KIHÔTÊ VÀ GIÁM MÃ XANTRÔ PANXA, CÙNG NHỮNG SỰ VIỆC KHÁC



- Tất cả những điều đó làm ta hài lòng, Đôn Kihôtê nói, hãy kể tiếp đi. Khi anh tới nơi thì bà hoàng của sắc đẹp đang làm gì? Chắc chắn anh thấy nàng đang xâu một chuỗi hạt ngọc hoặc đang dùng chỉ vàng thêu biểu hiệu cho hiệp sĩ nô lệ này của nàng.

- Đâu có, Xantrô đáp, tôi thấy bà ta đang sàng hơn một tạ lúa trong sân nhà.

- Anh phải biết rằng những hạt lúa đó qua tay nàng sẽ trở thành những hạt ngọc. Thế anh bạn có nhìn xem đó là lúa tiểu mạch hay lúa ba trăng không?

- Không phải, đó là một thứ lúa xấu, đỏ hoe.

- Thế mà ta cam đoan với anh rằng sau khi qua tay nàng, thứ lúa xấu đó sẽ làm ra bánh mì ngon, như bằng tiểu mạch vậy. Nhưng thôi, tiếp tục đi: khi anh đưa bức thư cho ta, nàng có hôn và đặt nó lên đầu không? Nàng có tỏ ra trân trọng đối với một bức thư như vậy không? Nàng đã làm gì?

- Lúc tôi sắp sửa đưa thì bà ta còn đang bận tay sàng một đống lúa to, và bà ta bảo tôi: "Anh bạn hãy để thư lên cái bao lúa kia; tôi chưa thể đọc được chừng nào chưa sàng xong đống này".

- Thật là một con người tế nhị! Đôn Kihôtê nói. Chắc là để sau đó nàng được đọc một cách ung dung và để thưởng thức bức thư. Còn gì nữa? Xantrô? Trong lúc đang dở tay như vậy, nàng đã nói những gì với anh? Nàng đã hỏi gì về ta? Và anh đã trả lời ra sao? Kể nốt, kể hết, chớ bỏ sót một chi tiết nhỏ nào.

- Bà ta chẳng hỏi gì cả, Xantrô đáp, nhưng tôi đã kể lại việc ngài tự chuốc lấy hình phạt để phụng sự bà ta như thế nào, rằng ngài ở trần từ thắt lưng trở lên, sống giữa rừng xanh núi đỏ như một kẻ man di, ngủ dưới đất, ăn không cần khăn trải bàn, râu không cạo, vừa khóc vừa than thân trách phận.

- Anh bảo ta than thân trách phận là sai, Đôn Kihôtê nói; trái lại ta cảm tạ và suốt đời cảm tạ số phận vì nhờ nó mà ta đã được yêu một con người cao cả như nàng Đulxinêa làng Tôbôxô.

- Phải, bà ta cao thật đấy, cao hơn tôi đến một gang tay ấy.

- Sao? Xantrô? Anh đã đứng đo với nàng ư?

- Tôi đo bằng cách như thế này: trong lúc giúp bà ta đặt bao lúa lên lưng con lừa, hai người đứng rất sát vào nhau và tôi đã nhìn thấy bà ta cao hơn trên một gang tay.

- Quả thật trong con người cao cả ấy có chứa đựng muôn vàn nét duyên dáng của tâm hồn! Nhưng này Xantrô, chắc anh sẽ không phủ nhận một điều sau đây: khi anh tới bên nàng, anh có ngửi thấy mùi thơm gì không? Một hương vị và một mùi rất thơm tho mà ta không biết gọi là gì, tựa như ta vẫn thường ngửi thấy ở các cửa hàng bán bít tất tay ấy mà.

- Tôi chỉ có thể nói được rằng tôi đã ngửi thấy một mùi hơi nặng như mùi đàn ông; chắc là vì bà ta phải làm việc vất vả ra nhiều mồ hôi.

- Không phải thế mà vì anh bị sổ mũi hoặc đã hít phải chính cái mùi của người anh. Ta biết rất rõ mùi thơm đó, đó là mùi hoa hồng, hoa huệ, là long diên hương hòa trong nước.

- Có thể lắm, Xantrô đáp; rất nhiều lần tôi đã ngửi thấy mùi đó ở chính người tôi và tôi thấy nó cũng toát ra từ người bà Đulxinêa; nhưng điều đó có gì là lạ vì hai con quỷ tất nhiên phải giống nhau.

- Thế nào, Đôn Kihôtê hỏi tiếp, sau khi đã sàng sảy xong và chuyển lúa đi xay, nàng đã làm gì khi đọc thư của ta?

- Bà ta không đọc thư, Xantrô nói, bảo rằng vì không biết đọc biết viết; trái lại bà ta xé nhỏ bức thư, nói rằng không muốn đưa cho người khác đọc hộ e dân làng biết chuyện riêng tư của mình, rằng nghe tôi kể về mối tình và cuộc tự hành phạt phi thường của ngài như vậy cũng đủ rồi. Cuối cùng, bà ta nhờ tôi nhắn lại với ngài rằng bà ta hôn tay ngài và mong được gặp ngài hơn là viết thư cho ngài, rằng bà ta vừa cầu xin vừa đòi hỏi ngài phải rời khỏi nơi hoang vu rậm rạp này, không được làm những trò bậy bạ nữa, và nếu không có việc gì quan trọng hơn, ngài phải trở về ngay làng Tôbôxô vì bà ta rất mong được gặp ngài. Bà ta đã cười rũ khi tôi kể rằng ngài lấy tên là hiệp sĩ Mặt Buồn. Tôi hỏi bà ta là tên kỵ sĩ Vixcaia có đến trình diện không; bà ta bảo có và còn khen hắn là một người rất chững chạc; tôi lại hỏi về bọn tù khổ sai nhưng bà ta đáp là chưa thấy đứa nào tới cả.

- Tới giờ, mọi việc đều tốt lành, Đôn Kihôtê nói. Nhưng ta muốn hỏi thêm: khi anh ra về, nàng đã cho anh vật gì để thưởng công anh mang tin của ta tới? Theo cổ lệ, các hiệp sĩ giang hồ và các vị tiểu thư thường thưởng công cho giám mã, cô hầu, chú lùn một vật quý khi những người này mang tin đến cho họ - mang tin của tiểu thư cho hiệp sĩ hoặc mang tin của hiệp sĩ cho tiểu thư.

- Có thể như vậy lắm, và tôi cho đó là một tục lệ hay ho; nhưng chắc tục lệ đó chỉ có ở thời trước chứ bây giờ người ta thường chỉ cho một mẩu bánh mì và phó-mát như bà Đulxinêa đã làm; khi tôi ra đi, bà ta đã đưa cho tôi qua hàng rào sân sau; xin nói rõ thêm rằng đó là phó-mát làm bằng sữa cừu.

- Tính nàng vô cùng hào phóng, Đôn Kihôtê nói, và nếu nàng không thưởng cho anh một vật gì bằng vàng, chắc chắn là vì lúc đó nàng không có sẵn trong tay để cho anh thôi; nhưng rồi anh sẽ được dù có chậm một chút ít; ta sẽ gặp nàng và mọi việc sẽ được giải quyết tốt đẹp. Xantrô, anh có biết rằng có điều gì làm ta ngạc nhiên không? Ta tưởng đâu như anh đã cưỡi mây đạp gió để đi và trở về vì con đường từ đây đến làng Tôbôxô dài tới trên ba mươi dặm, vậy mà cả đi lẫn về chỉ mất có trên ba ngày. Ta nghĩ rằng có một pháp sư bạn của ta vẫn quan tâm đến những công việc của ta - nhất định ta phải được một pháp sư phù trợ nếu không ta không thể trở thành một hiệp sĩ giang hồ nổi tiếng -, và vị pháp sư đó đã giúp đỡ anh trong khi đi đường mà anh không hay. Đã có pháp sư bê cả một hiệp sĩ giang hồ đang ngủ trên giường và không hiểu bằng cách nào, khi sáng hôm sau tỉnh dậy, chàng hiệp sĩ thấy mình đã ở cách xa chỗ ngủ đêm trước trên một ngàn dặm. Nếu không như vậy thì các hiệp sĩ giang hồ không thể giải nguy cho nhau như họ vẫn thường làm; có trường hợp một hiệp sĩ giao chiến với một con quái vật hung dữ hoặc với một hiệp sĩ khác trên một dãy núi ở Armênia và sắp bị nguy khốn, thế rồi bỗng đâu từ trong đám mây hoặc trên một chiếc xe phóng hỏa có một chàng hiệp sĩ xông tới hỗ trợ cứu cho khỏi chết; trước đó ít phút chàng này còn ở bên Anh-cát-lợi, và sau khi đã cứu bạn, ngay tối hôm đó chàng ta đã ung dung ngồi ăn uống ở nhà, nơi nọ cách xa nơi kia tới hai, ba ngàn dặm. Tất cả những sự việc đó đều do sự sắp xếp khéo léo của những vị pháp sư luôn luôn chăm sóc tới các hiệp sĩ dũng cảm. Anh bạn Xantrô, ta không lấy làm khó hiểu rằng trong một thời gian ngắn như vậy, anh đã từ đây tới làng Tôbôxô rồi lại trở về vì, như ta đã nói, có một pháp sư bạn của ta đã mang anh trên mây mà anh không biết.

- Có thể lắm, Xantrô đáp, vì quả thật con Rôxinantê đi chậm như một con lừa có chì trong tai của người Bôhêmiêng vậy.

- Sao lại có chì trong tai là thế nào? Dù có gặp cả một bầy quỷ, các pháp sư đó vẫn đi và giúp người khác đi lại, không ngại gì cả, một khi họ muốn làm. Nhưng thôi, hãy xếp chuyện đó lại. Bây giờ, tình nương của ta yêu cầu ta đến gặp nàng, vậy theo ý anh, ta phải làm gì? Tất nhiên ta phải thực hiện mệnh lệnh của nàng, nhưng ta thấy không thể làm việc đó được vì ta đã nhận lời với nàng công chúa kia rồi, và luật lệ của hiệp sĩ đạo buộc ta phải giữ lời hứa, không được làm theo ý thích riêng. Một đằng lòng mong muốn được gặp tình nương thôi thúc ta, mặt khác lời hứa hẹn và vinh quang mà ta sẽ giành được trong cuộc phiêu lưu sắp tới thúc đẩy và kêu gọi ta. Bởi vậy, ta định đi thật nhanh cho chóng tới chỗ gặp tên khổng lồ; tới nơi, ta sẽ chém đứt đầu nó và trao trả lại đất đai cho nàng công chúa, sau đó ta sẽ quay trở về gặp con người đã soi sáng những ý nghĩ của ta. Ta sẽ thanh minh và nàng sẽ thông cảm sự chậm trễ của ta; nàng sẽ thấy rằng việc làm của ta mang lại cho nàng thêm vinh quang và tiếng tăm, bởi vì mỗi chiến công ta đã, đang và sẽ giành được trên đời này đều do sự giúp đỡ của nàng và cũng do con người của ta thuộc về nàng.

- Ấy chết! Xantrô kêu lên, đầu óc ngài lú lẫn rồi sao! Xin hỏi ngài định làm việc này để rồi phí công vô ích hay sao? Phải chăng ngài định bỏ lỡ một cuộc hôn nhân có một này, hồi môn là cả một vương quốc chu vi dài trên hai vạn dặm với bao nhiêu của ngon vật lạ cần thiết cho cuộc sống của con người, một vương quốc lớn hơn cả Bồ Đào Nha lẫn Caxtiia cộng lại? Vì Chúa, xin ngài đừng nói nữa và hãy xấu hổ về những lời đã thốt ra; hãy nghe lời tôi, hãy tha lỗi cho tôi và tới làng nào có Cha xứ, hãy cưới ngay đi, bằng không đã có ngài cử của chúng ta đây làm việc đó cũng rất tốt. Ngài phải biết rằng tôi cũng đủ già dặn để khuyên nhủ người khác và lời khuyên của tôi đối với ngài rất đích đáng. Thôi, chim con nắm chắc trong tay, còn hơn quạ lớn đang bay trên trời, chớ có thả mồi bắt bóng mà rồi kêu cũng chẳng ai thương đâu.

- Này Xantrô, Đôn Kihôtê đáp, chắc là anh khuyên ta cưới nàng công chúa để ta trở thành vua sau khi đã giết chết tên khổng lồ và để ta ban thưởng cho anh như ta đã hứa chứ gì? Ta nói cho mà biết rằng dù không cưới nàng, ta cũng có thể làm cho anh toại nguyện dễ như bỡn; trước khi lâm trận, ta sẽ giao hẹn là nếu ta thắng, ta phải được hưởng một phần đất đai dù ta không cưới nàng công chúa, và ta muốn cho ai tùy ý; một khi nhận phần rồi, thử hỏi ta không cho anh thì còn cho ai nữa?

- Thế là rõ rồi! Xantrô nói. Nhưng xin ngài chú ý chọn phần đất ở vùng biển vì nếu tôi không thích ở đó, tôi có thể đưa lũ bầy tôi da đen xuống thuyền và giải quyết bọn chúng như tôi đã dự định. Thôi, xin ngài đừng tơ tưởng chuyện đi thăm bà Đulxinêa lúc này làm gì; hãy đi trừ khử tên khổng lồ kia để ta kết thúc việc này, lạy Chúa, một việc sẽ mang lại nhiều danh giá và lợi lộc.

- Xantrô, ta bảo cho mà biết rằng anh ăn chắc rồi, Đôn Kihôtê nói; ta sẽ theo lời anh khuyên, đi cùng với nàng công chúa trước khi gặp nàng Đulxinêa. Nhưng anh không được nói gì với ai, kể cả những người đang cùng đi với chúng ta, về những điều chúng ta vừa bàn bạc và thỏa thuận; nàng Đulxinêa là một người rất kín đáo, không muốn để ai biết những ý nghĩ của mình, và thật là một điều không hay nếu ta hoặc một người khác tiết lộ những ý nghĩ đó ra.

- Đã thế, Xantrô hỏi vặn, tại sao ngài còn bắt những kẻ thua trận đến trình diện trước bà Đulxinêa, vì làm như vậy tức là ngài tự nhận có yêu bà ta và là tình nhân của bà ta? Một khi họ phải quỳ trước mặt bà ta và nói rằng họ được lệnh của ngài đến, làm sao có thể giữ kín được những ý nghĩ của hai người?

- Ôi, anh thật là ngốc nghếch và giản đơn! Đôn Kihôtê nói. Xantrô, anh không nhìn thấy rằng tất cả những chuyện đó làm cho tiếng tăm của nàng thêm lẫy lừng ư? Phải biết rằng trong phong cách của hiệp sĩ đạo, một người đàn bà được nhiều hiệp sĩ giang hồ phụng sự là một điều vinh dự lớn, và những hiệp sĩ đó chỉ có một ý nghĩ là phụng sự nàng vì nàng, với tất cả thiện chí, không yêu cầu một phần thưởng nào, chỉ mong sao được nàng công nhận cho là hiệp sĩ.

- Tôi đã được nghe giảng đạo rằng ta phải yêu Đức Chúa theo kiểu đó, không vì mưu cầu hưởng hạnh phúc hay tránh tai họa cho mình. Tuy nhiên, tôi muốn yêu Chúa và phụng sự Chúa vì một lý do riêng nào đó.

- Anh thật là quỷ quái tinh ma! Đôn Kihôtê nói; đôi lúc anh nói những câu thật chí lý như một người được ăn học vậy.

- Thú thật tôi không biết đọc, Xantrô đáp.

Đến đây, có tiếng bác Nicôlax gọi hai thầy trò Đôn Kihôtê chờ một lát vì những người đi phía sau muốn dừng lại bên bờ con suối nhỏ để uống nước. Đôn Kihôtê bèn ghìm ngựa lại; Xantrô lấy làm mừng lắm vì bác đã chán ngấy phải nói dối chủ và sợ bị lộ; tuy bác biết Đulxinêa là một cô gái quê ở làng Tôbôxô nhưng cả đời bác chưa hề trông thấy mặt bao giờ.

Lúc này Carđêniô đã mặc vào người bộ y phục mà Đôrôtêa đã dùng khi trước để cải trang, tuy cũng chẳng sang trọng gì nhưng so với áo quần của chàng thì còn tươm chán. Mọi người nghỉ chân bên suối; rồi với số lương thực Cha xứ mua được ở quán trọ, họ ăn tạm cũng đỡ đói lòng.

Giữa lúc đó, có một chú bé đi qua; chú ta chăm chú nhìn mọi người đang ăn, rồi chạy xổ tới Đôn Kihôtê ôm lấy hai chân chàng, vừa khóc vừa nói:

- Ngài ơi! Ngài không nhận ra tôi ư? Xin hãy nhìn kỹ xem; tôi là thằng bé Anđrêx bị trói vào cây sồi và đã được ngài giải thoát cho đấy.

Đôn Kihôtê cũng đã nhận ra, chàng nắm tay Anđrêx, quay về phía mọi người và nói:

- Để các vị thấy rằng sự có mặt của hiệp sĩ giang hồ ở trên đời này vô cùng quan trọng vì họ chuyên đi bênh vực người hèn yếu bị những kẻ độc ác ức hiếp, xin thưa rằng trước đây có một hôm tôi đi qua một khu rừng bỗng nghe có tiếng kêu la thảm thiết như có người đang gặp nguy khốn. Vì bổn phận, tôi vội đi về phía có tiếng kêu la vọng lại thì thấy chú bé này bị trói vào một cây sồi. Tôi lấy làm mừng gặp lại chú bé hôm nay vì chú ta sẽ chứng nhận là tôi không nói ngoa điều gì. Tôi xin kể tiếp rằng chú bé bị trói vào một cây sồi, nửa thân trên bị lột trần, và một tên súc sinh đang dùng dây cương lừa quật vào chú tới tấp; tên này chính là chủ của chú bé. Thấy thế, tôi bèn hỏi nguyên nhân vì sao hắn đánh đập chú bé tàn nhẫn như vậy; tên vũ phu kia đáp rằng hắn đánh vì chú bé là đày tớ của hắn và vì những sự mất mát do chú gây ra không phải vì lơ đễnh mà vì muốn lấy cắp. Khi đó, chú bé này nói với tôi: "Thưa ngài, ông ta đánh tôi chỉ vì tôi đòi ông ta tiền công". Lão chủ vội thanh minh dài dòng, tôi nghe nhưng không để vào tai. Cuối cùng, tôi bắt tên súc sinh phải cởi trói cho chú bé và phải hứa đưa chú bé về trại trả công đầy đủ, kể cả lãi. Có đúng như vậy không, Anđrêx con ta? Con có thấy ta ra lệnh cho lão chủ với một uy lực như thế nào không, và hắn đã khúm núm hứa sẽ làm tất cả những điều ta đòi hỏi yêu cầu không? Con hãy trả lời tự nhiên, không phải sợ hãi do dự gì cả; hãy nói cho các vị ở đây biết sự việc đã xảy ra để mọi người thấy và phải công nhận với ta rằng sự có mặt của các hiệp sĩ giang hồ trên các nẻo đường là hữu ích.

- Tất cả những điều ngài nói đều rất đúng, chú bé đáp, nhưng sự việc đã kết thúc ngược hẳn ý muốn của ngài.

- Sao lại ngược hẳn là thế nào? Đôn Kihôtê hỏi. Thế ra tên súc sinh đó không trả tiền công cho con ư?

- Không những lão không trả mà sau khi ngài đi khỏi khu rừng, còn lại có hai người, lão lại cột tôi vào cây sồi và quật tôi túi bụi, da thịt tôi rách nát như thánh Bartôlômê 1 vậy; mỗi lần quất cho tôi một roi, lão lại nói một câu bông phèng để giễu cợt ngài khiến tôi cũng sẽ phải phì cười nếu lúc đó tôi không đau đớn quá. Tên khốn kiếp đánh tôi bò lê bò càng khiến tôi phải đi nằm nhà thương từ đó tới nay. Chính ngài đã gây ra nông nỗi này bởi vì nếu ngài cứ thẳng đường mà đi, không ai mời không đến, không nhúng tay vào công việc của người khác, thì lão chủ tôi sẽ chỉ đánh tôi chừng một hai chục roi rồi sẽ thả tôi ra và trả số tiền hắn nợ tôi. Nhưng vì ngài làm nhục lão không đúng chỗ và chửi mắng lão quá thậm tệ nên lão nổi nóng, và vì không làm gì được ngài, lão đã trút cả nỗi tức giận lên đầu tôi khiến cho tôi suốt đời không ra hồn người nữa.

- Ta đã sai lầm bỏ đi quá sớm, đáng lẽ ta phải ở đấy cho tới khi hắn trả tiền cho con xong xuôi đã. Do kinh nghiệm nhiều năm, đáng lẽ ta phải biết được rằng không một tên súc sinh nào chịu giữ lời hứa nếu nó thấy rằng việc làm đó bất lợi cho nó. Nhưng này, Anđrêx, chắc con còn nhớ rằng ta đã thề nếu hắn không trả tiền cho con, ta sẽ đi tìm hắn bằng được dù cho hắn có trốn vào trong bụng cá voi.

- Đúng như vậy, Anđrêx đáp, nhưng lời thề đó đã chẳng có tác dụng gì.

- Rồi con sẽ thấy nó có tác dụng hay không!

Nói rồi, Đôn Kihôtê đứng phắt dậy bảo Xantrô chuẩn bị ngựa; con Rôxinantê đang gặm cỏ trong lúc mọi người ngồi ăn.

Thấy vậy, Đôrôtêa vội hỏi xem chàng định làm gì; Đôn Kihôtê đáp:

- Tôi định đi tìm tên súc sinh trừng trị nó về tội đánh người và bắt nó phải trả cho Anđrêx không thiếu một xu, dù cho có bao nhiêu kẻ súc sinh trên đời này tôi cũng không sợ.

- Theo như lời đã hứa, Đôrôtêa nói, chàng không được nhúng tay vào bất cứ chuyện gì chừng nào chưa giải quyết xong việc của thiếp. Vì chàng hiểu điều này hơn ai hết, thiếp dám xin chàng hãy dẹp nỗi tức giận cho tới khi nào thiếp trở lại ngôi báu.

- Nàng nói phải, Đôn Kihôtê đáp, và Anđrêx đành phải chịu khó chờ ta tới khi nàng trở lại ngôi báu như nàng vừa nói; nhưng ta thề và hứa một lần nữa rằng ta chưa nghỉ ngơi chừng nào Anđrêx chưa được trả thù và trả tiền.

- Tôi chẳng tin vào những lời thề đó, Anđrêx nói. Bây giờ tôi mong có đủ tiền ăn đường để đi tới Xêviia hơn là tất cả những sự trả thù trên đời này. Nếu ngài có gì, hãy cho tôi ăn và mang đi đường. Chúc ngài ở lại bình an và cũng xin chúc tất cả các vị hiệp sĩ giang hồ gặp may mắn cũng như họ đã mang lại may mắn cho tôi.

Xantrô lấy ở trong túi ra một mẩu bánh mì và một miếng phó-mát, đưa cho chú bé và nói:

- Này, em Anđrêx, cầm lấy; thế là tất cả chúng tôi đây đều phải chịu một phần đau khổ của em đấy.

- Sao, các ông chịu phần nào? Anđrêx hỏi.

- Phần phó-mát và bánh mì đây, Xantrô đáp. Có Chúa biết cho rằng ta có đủ ăn hay không; ta nói để anh bạn biết rằng bọn giám mã chúng ta đi theo hầu các hiệp sĩ giang hồ thường bị đói khổ và còn gặp nhiều chuyện đau đớn khác mà không dám mở mồm kêu ca.

Anđrêx cầm lấy bánh và phó-mát, rồi thấy không ai cho thêm gì nữa, cắm đầu đi thẳng. Tuy nhiên, trước khi đi, chú bé bảo Đôn Kihôtê:

- Lạy Chúa, thưa ngài hiệp sĩ giang hồ, nếu lần sau ngài có gặp tôi, dù cho ngài thấy người ta đánh tôi nhừ tử, xin chớ ra tay làm chi và hãy mặc tôi vì nỗi đau khổ của tôi sẽ không giảm đi dù có sự giúp đỡ của ngài, một người mà Chúa nguyền rủa cũng như Chúa nguyền rủa tất cả những hiệp sĩ giang hồ sinh ra trên đời này.

Đôn Kihôtê định đứng dậy để trị thằng bé nhưng nó đã chạy mất tăm mất tích. Đôn Kihôtê rất ngượng về chuyện thằng bé Anđrêx, và mọi người thấy cần phải cố hết sức nín cười để chàng khỏi nổi khùng.


--------------------------------
1Một nhà truyền giáo tử vì đạo.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes


Chương XXXII

ĐOÀN CỦA ĐÔN KIHÔTÊ ĐÃ GẶP NHỮNG CHUYỆN GÌ TRONG QUÁN TRỌ?



Ăn uống xong xuôi, mọi người vội chuẩn bị lừa ngựa ra đi; trên đường không xảy ra chuyện gì đáng kể lại và ngày hôm sau họ tới cái quán trọ đã làm cho Xantrô Panxa kinh hồn bạt vía; bác giám mã chẳng muốn vào chút nào nhưng không có cách gì lẩn được. Thấy Đôn Kihôtê và Xantrô tới, vợ chồng chủ quán, cô gái và cô hầu Maritornêx chạy ra cửa đón, tay bắt mặt mừng; Đôn Kihôtê cũng chào hỏi mọi người một cách nghiêm trang trịnh trọng; chàng yêu cầu thu xếp cho một chỗ nghỉ tươm tất hơn lần trước; vợ chủ quán đáp:

- Chỉ cần ngài trả tiền tử tế hơn thì sẽ được hầu hạ như ông hoàng.

Đôn Kihôtê hứa sẽ trả nhiều tiền và được họ xếp cho một cái giường cũng khá tươm ở ngay cái buồng xép trước kia; trong người mệt mỏi và đầu óc không được minh mẫn, chàng bèn đi nằm ngay.

Đôn Kihôtê vừa đi khuất, vợ chủ quán tiến ngay lại bác phó cạo, túm lấy bộ râu và nói:

- Thôi, thôi, không được dùng cái đuôi này để làm râu nữa; phải trả lại cho tôi. Từ hồi ông lấy đi, cái lược của chồng tôi không có chỗ cắm, vứt lăn lóc dưới đất, thật ngượng cả mặt.

Bà ta cố giật bộ râu nhưng bác phó cạo không chịu trả; cuối cùng, Cha xứ bảo bác cứ trả vì không cần tới mưu kế đó nữa và bác cũng không cần phải cải trang làm gì, nếu Đôn Kihôtê hỏi thì bảo là bị bọn tù khổ sai lấy hết của cải phải chạy trốn vào trong quán trọ này; còn nếu chàng hỏi về anh giám mã của công chúa thì trả lời là nàng đã phái anh ta về nước trước để báo cho mọi người biết là nàng sẽ về cùng với một vị ân nhân, vị này sẽ giải phóng cho cả nước. Lúc ấy, bác phó cạo mới vui lòng trả lại bộ lông đuôi con bò cho bà chủ quán, đồng thời tất cả những áo quần vật dụng đã mượn để dùng vào việc giải thoát Đôn Kihôtê cũng được trả lại đầy đủ cho bà ta. Những người trong quán trọ đều trầm trồ trước nhan sắc của Đôrôtêa cũng như trước vẻ xinh trai của Carđêniô. Cha xứ bảo chủ quán có gì hãy dọn ra cho ăn; chắc mẩm gặp đám khách sộp, lão chủ đã mang ra một bữa ăn khá thịnh soạn. Trong khi đó Đôn Kihôtê vẫn ngủ và cũng không ai gọi dậy vì họ thấy giấc ngủ đối với chàng lúc này tốt hơn bữa ăn. Ăn xong, sang phần tráng miệng, họ kể lại cho vợ chồng chủ quán, cô con gái, cô hầu Maritornêx và tất cả những khách trọ khác về sự điên rồ kỳ lạ của Đôn Kihôtê và về tình trạng của chàng lúc tìm thấy ở trên núi. Bà chủ quán cũng tường thuật lại sự việc đã xảy ra giữa chàng hiệp sĩ với anh lái la; không thấy Xantrô đâu bà ta nói cả chuyện bác giám mã bị tung hê lên trời khiến mọi người đều cười vang. Cha xứ nói:

- Chỉ tại Đôn Kihôtê đọc sách kiếm hiệp nên đã bị loạn trí.

Chủ quán vội đáp:

- Tôi không biết có phải tại thế hay không; thực ra, theo tôi hiểu, không có sách nào hay hơn loại đó trên đời này. Trong nhà tôi đây cũng có vài ba cuốn và chúng đã mang lại sự sống cho tôi cũng như cho nhiều người khác. Đến mùa gặt hái, đám thợ gặt tụ họp ở đây trong những ngày hội; trong bọn họ, thế nào cũng có một anh biết đọc; khi thấy anh ta cầm một quyển sách kiếm hiệp trong tay, bọn chúng tôi gồm trên ba chục người vội ngồi quây xung quanh nghe một cách rất thích thú; riêng tôi mỗi khi nghe tới những đoạn nói về những đòn sấm sét của các hiệp sĩ, tôi cũng muốn làm được như họ, và vì thế tôi cứ muốn nghe mãi thâu đêm suốt sáng.

- Tôi cũng vậy, bà chủ quán nói, bởi vì không lúc nào tôi cảm thấy sung sướng ở trong nhà này bằng lúc ông nghe đọc sách; lúc đó ông mải mê, quên cả quát mắng chúng tôi.

- Đúng như vậy, Maritornêx nói; thú thật là tôi cũng rất thích nghe vì những truyện đó rất hay, nhất là những đoạn tả một tiểu thư đứng dưới gốc cam ôm chàng hiệp sĩ, trong khi đó cô hầu đứng canh gác, trong bụng vừa thèm muốn vừa lo sợ. Phải nói rằng những truyện đó rất là hay.

- Thế còn cô, cô thấy thế nào? Cha xứ hỏi con gái chủ quán.

- Thưa ngài, tôi cũng không rõ, cô gái đáp; tôi cũng hay nghe và tuy không hiểu, tôi cũng thấy thích; tuy nhiên tôi không thích những đoạn đánh nhau như cha tôi mà lại thích những lời than vãn của các hiệp sĩ khi họ xa vắng người yêu; thú thật, đôi khi tôi đã phải khóc vì thấy thương họ quá.

- Nếu vậy, Đôrôtêa nói, chắc cô sẽ cứu giúp các chàng hiệp sĩ đó nếu họ vì cô mà phải khóc than?

- Tôi không biết lúc đó sẽ xử sự ra sao, con gái chủ quán đáp; chỉ biết rằng có những cô nàng rất tàn ác khiến các hiệp sĩ phải gọi họ là hổ, sư tử hoặc bằng những danh từ xấu xí khác. Lạy Chúa! Không hiểu làm sao có kẻ vô tình và vô lương tâm, không đáp lại tình yêu của một chàng trai lương thiện để chàng phải chết hoặc trở nên điên dại. Tôi không hiểu họ kiểu cách như vậy để làm gì; nếu quả thật họ là những cô gái đứng đắn thì hãy lấy ngay những hiệp sĩ kia đi vì những chàng này cũng không mong gì hơn kia mà.

- Con không được nói nữa, bà chủ quán lên tiếng; hình như con biết quá nhiều những truyện này; con gái biết nhiều và nói nhiều như vậy không hay ho gì đâu.

- Nhưng vì ngài khách đây hỏi nên con không thể không trả lời.

- Thôi được, Cha xứ nói, bây giờ ông chủ quán hãy mang những sách đó ra đây cho tôi xem nào.

- Xin vui lòng.

Nói rồi, chủ quán vào trong buồng lấy ra một cái hòm con cũ kỹ có khóa, mở hòm ra thấy có ba cuốn sách lớn cùng một vài tập giấy viết tay, chữ rất tốt. Cuốn thứ nhất nhan đề: Đôn Xirônhiliô đê Traxia, cuốn thứ hai là Phêlixmartê đê Ircania, cuốn thứ ba là Chuyện viên tướng vĩ đại Gônxalô Ernanđêx đê Corđôba và cuộc đời của Điêgô Garxia đê Parêđêx. Đọc tên hai cuốn đầu, Cha xứ quay lại nói với bác phó cạo:

- Rất tiếc không có bà quản gia và cô cháu gái của ông bạn ta ở đây.

- Không sao, bác phó đáp, tôi cũng biết khuân những cuốn sách đó ra sân hay cho vào lò sưởi đang cháy rừng rực kia.

- Thế nào, ngài định đốt sách của tôi đó sao? Chủ quán hỏi.

- Chỉ riêng hai cuốn Đôn Xirônhiliô Phêlixmartê này thôi, Cha xứ nói.

- Phải chăng sách của tôi thuộc về tà giáo hoặc gây chia sẻ khiến ngài muốn đốt đi.

- Chắc ông bạn muốn nói là gây chia rẽ, bác phó cạo xen vào.

- Đúng vậy, chủ quán đáp. Nhưng nếu ngài muốn đốt, xin hãy đốt cuốn sách về viên tướng vĩ đại và Điêgô Garxia. Thà tôi để người ta đốt con tôi còn hơn là đốt hai cuốn này.

- Người anh em của tôi ơi, Cha xứ nói, hai cuốn sách đó hoàn toàn bịa đặt và đầy những chuyện nhảm nhí viển vông; còn cuốn nói về viên tướng là chuyện có thật, kể lại những việc làm của Gônxalô Ernanđêx đê Corđôba, một người đã lập nên nhiều chiến công hiển hách, xứng đáng với tên mà người đời tặng cho chàng là Viên tướng vĩ đại, một danh hiệu chỉ có chàng xứng đáng được nhận. Còn Điêgô Garxia đê Parêđêx là một hiệp sĩ cao quý, sinh quán ở tỉnh Truhiiô, miền Extrêmađura. Chàng là một chiến sĩ rất dũng cảm và có sức mạnh phi thường, bằng một ngón tay chặn đứng một bánh xe cối xay đang quay tít hoặc đứng trấn ở đầu cầu, dùng gươm ngăn không cho cả một đạo quân đi qua; chàng còn nhiều chiến công lừng lẫy khác do chính chàng đã thuật lại với tất cả sự khiêm tốn của một hiệp sĩ và một tác giả khi viết về bản thân mình; quả thật nếu được một người khác viết một cách tự do và khách quan hơn, chắc chắn những chiến công của chàng sẽ làm lu mờ các hiệp sĩ Êtô, Akil và Rolđan.

- Thế cũng chưa ghê đâu! Chủ quán nói. Chặn đứng bánh xe cối xay thì đã lấy gì làm lạ! Lạy Chúa, xin ngài hãy đọc những chuyện mà tôi đã được nghe về Phêlixmartê đê Ircania: bằng một nhát gươm, chàng đã chặt đứt ngang lưng năm tên khổng lồ như chặt củ khoai vậy; một lần khác, chàng giao chiến với cả một đạo quân vừa lớn vừa mạnh gồm trên một triệu sáu trăm ngàn binh lính đeo vũ khí suốt từ chân lên đến đầu, và chàng đã đánh tan đạo quân đó như đánh tan một đàn cừu vậy. Còn anh chàng Đôn Xirônhiliô đê Traxia nữa cũng rất dũng cảm và táo bạo như ngài sẽ thấy trong cuốn sách này; một hôm, anh ta đang bơi thuyền trên sông bỗng đâu có một con rắn lửa rẽ nước hiện ra; vừa nhìn thấy nó, anh ta xông ngay tới, cưỡi lên cái lưng đầy vẩy của nó, lấy hai tay ghì chặt họng nó lại; thấy sắp nghẹt thở, con rắn không còn cách nào khác là lao sâu xuống đáy sông mang theo cả chàng hiệp sĩ vì chàng ta vẫn không buông nó ra. Khi tới đáy, thấy có những tòa lâu đài cùng những vườn hoa rất đẹp; con rắn hóa thành một ông già và ông già đã nói với chàng hiệp sĩ nhiều điều rất hay ho lý thú đáng nghe. Thôi đi, ngài ơi, nếu ngài được nghe chuyện này, chắc ngài sẽ phải sướng rên; còn tôi coi khinh viên tướng vĩ đại và chàng Điêgô Garxia của ngài.

Nghe chủ quán nói, Đôrôtêa khẽ bảo Carđêniô:

- Chỉ thiếu chút nữa thì ông chủ nhà này cũng có thể kết bạn với Đôn Kihôtê được đấy.

- Tôi cũng thấy thế, Carđêniô đáp, vì rõ ràng ông ta tin vào tất cả những điều kể trong sách, và ngay những thầy tu đi chân đất cũng không làm cho ông ta nghĩ khác được.

- Người anh em ơi, Cha xứ lại nói, trên đời này không có Phêlixmartê đê Ircania, Đôn Xirônhiliô đê Traxia và những hiệp sĩ tương tự khác như kể trong sách đâu; tất cả đều do sự bày đặt, tưởng tượng của những kẻ rỗi việc đã viết ra những cuốn sách đó nhằm mục đích giải trí; như những người thợ gặt của ông đã đọc để giải trí. Tôi xin thề với ông rằng không làm gì có những hiệp sĩ như vậy trên đời này và cũng không làm gì có những chiến công và những sự việc ngông cuồng như vậy.

- Ngài nói không thể nghe được! chủ quán đáp. Làm như tôi không biết bàn tay có mấy ngón và giày chật ở chỗ nào vậy. Đừng tưởng có thể bịp được tôi vì, lạy Chúa, tôi không phải là thằng ngốc đâu. Làm sao ngài có thể làm cho tôi tin rằng những cuốn sách hay ho này kể toàn những chuyện viển vông bịa đặt một khi đã được các vị trong Hội đồng hoàng gia cho phép in; khi nào các vị ấy lại cho in những chuyện bịa đặt, đánh nhau, phù phép làm mê muội đầu óc con người ta!

- Tôi đã nói với ông bạn rằng người ta làm ra những sách này nhằm tiêu khiển cho những bộ óc nhàn rỗi của chúng ta. Trong các quốc gia có tổ chức, người ta bày ra những trò chơi như đánh cờ, bi-a cho những ai không muốn, không phải hoặc không thể làm việc được, và người ta cũng cho in những cuốn sách này, nghĩ rằng không ai ngu ngốc tin rằng những chuyện đó có thật. Nếu hôm nay tôi có thời giờ và có thính giả muốn nghe, tôi sẽ nói về những điều cần nêu lên trong các sách kiếm hiệp để cho những sách đó trở nên lý thú và bổ ích cho một số người; nhưng tôi hy vọng sẽ có ngày nói được điều đó với những người có thẩm quyền để họ sửa sai. Còn bây giờ, xin ông chủ quán hãy tin vào những lời tôi nói; ông cầm lấy những cuốn sách này và hãy tự suy xét xem đó là thật hay giả mà định liệu; cầu Chúa cho chân ông không đi tập tễnh như chân ông khách Đôn Kihôtê của ông.

- Không đâu, chủ quán đáp; tôi không điên tới mức đi làm hiệp sĩ giang hồ đâu; tôi hiểu rõ rằng thời nay không có những hiệp sĩ đi chu du khắp trái đất như thời xưa nữa.

Xantrô nghe được phần sau câu chuyện giữa Cha xứ và chủ quán; bác rất lo lắng suy nghĩ khi thấy hai người nói rằng ngày nay không còn hiệp sĩ giang hồ nữa và tất cả những sách kiếm hiệp đều là bịa đặt bậy bạ. Bác định bụng chờ xem chuyến đi này của Đôn Kihôtê ra sao, và nếu kết quả không tốt đẹp như bác nghĩ, bác sẽ từ biệt chủ trở về làm công việc cũ cùng với vợ con. Chủ quán định cất hòm sách nhưng Cha xứ ngăn lại và nói:

- Hãy gượm, để xem những tập chép tay bằng chữ rất nắn nót này là cái gì.

Chủ quán lấy ra đưa cho Cha xứ; đây là một tập gồm tám xếp giấy chép tay, trên trang đầu có ghi nhan đề bằng chữ to: Truyện anh chàng hiếu kỳ khờ dại. Cha xứ đọc lẩm nhẩm ba bốn dòng rồi nói:

- Quả thật nhan đề truyện này khá hấp dẫn khiến tôi muốn đọc cả tập.

Chủ quán đáp:

- Ngài nên đọc vì tôi xin thưa để ngài biết rằng có những ông khách trọ đã đọc và họ thích lắm, cứ nằng nặc hỏi mua; tôi không bán vì còn muốn trả lại cho chủ nhân đã bỏ quên cái hòm cùng những cuốn sách và tập truyện này. Có thể một ngày kia người đó sẽ trở về đây. Kể ra không có những cuốn sách đó cũng thấy thiếu nhưng tôi sẽ trả lại tất vì tuy tôi mở quán trọ nhưng cũng vẫn là một tín đồ Kitô giáo.

- Ông bạn nói chí phải, Cha xứ nói; tuy nhiên nếu tôi thấy truyện đó hay, xin hãy cho tôi chép lại.

- Rất vui lòng, chủ quán đáp.

Trong lúc hai người còn đang trao đổi, Carđêniô cầm xem tập truyện; chàng cũng thấy truyện đó hay, bèn yêu cầu Cha xứ đọc to cho mọi người cùng nghe.

- Tôi xin đọc ngay nếu như dùng thời giờ để đọc truyện có lợi hơn đi ngủ, Cha xứ nói.

- Đối với tôi, Đôrôtêa lên tiếng, dùng thời giờ để nghe đọc truyện còn hơn cả nghỉ ngơi vì đầu óc tôi vẫn chưa thảnh thơi nên chưa ngủ nhiều được.

- Đã vậy, Cha xứ nói, tôi xin đọc dù chỉ vì tính hiếu kỳ; có khi đọc rồi sẽ thấy hay.

Bác phó cạo và cả Xantrô cũng tới yêu cầu Cha xứ đọc; thấy việc làm của mình sẽ mang lại thích thú cho mọi người và cho cả bản thân, Cha xứ nói:

- Nếu thế, xin mọi người lắng tai nghe, truyện bắt đầu như sau:
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes


Chương XXXIII

TRUYỆN ANH CHÀNG HIẾU KỲ KHỜ DẠI



Tại Phlôrenxia, mặt thành phố trù phú và nổi tiếng thuộc miền Tôxcana ở Ý-đại-lợi có hai chàng quý tộc giàu có và danh giá tên là Anxelmô và Lôtariô; họ rất thân nhau và những ai biết hai người đều gọi họ theo cách hoán xưng là đôi bạn. Cả hai đều chưa vợ và còn trẻ, đồng tuế, đồng tâm, khiến họ rất quý mến nhau. Của đáng tội, Anxelmô có phần thích đi vào con đường tình ái, còn Lôtariô lại ham mê săn bắn; tuy nhiên, khi cần, Anxelmô có thể dẹp sở thích để chiều theo ý của Lôtariô, hoặc Lôtariô cũng dẹp được ý thích của mình để thỏa mãn Anxelmô. Hai người sống với nhau thật là ăn ý, tưởng đâu còn hơn cả những bộ phận máy móc của một chiếc đồng hồ.

Anxelmô yêu say đắm một công nương trong tỉnh; cô này có nhan sắc, khuê các, rất nết na và thuộc một gia đình quý phái. Xưa nay, mỗi khi định làm việc gì, Anxelmô đều hỏi ý kiến của Lôtariô; lần này cũng vậy, sau khi được bạn đồng ý, Anxelmô quyết định xin cha mẹ cô ta gả con gái cho mình. Quyết rồi thì làm ngay, và chính Lôtariô là người đi hỏi vợ cho Anxelmô. Lôtariô lo liệu công việc rất hợp ý của bạn và chỉ ít lâu sau, Anxelmô đã làm chủ con người mà chàng ao ước; Camila cũng rất hài lòng có một người chồng là Anxelmô, và nàng không ngớt lời cảm ơn Thượng đế và Lôtariô là người đã mang lại hạnh phúc cho mình. Trong mấy ngày hôn lễ - những ngày này bao giờ cũng tươi đẹp - Lôtariô vẫn tiếp tục lui tới nhà Anxelmô để chúc tụng, mừng vui với bạn; nhưng qua mấy ngày cưới rồi, khi những cuộc thăm hỏi, chúc tụng đã vãn, Lôtariô bắt đầu thưa đi lại nhà bạn; chàng nghĩ rằng (và tất cả những ai tế nhị cũng đều nghĩ như vậy) không nên lai vãng quá nhiều nhà những người bạn có vợ như khi họ còn ở một mình, vì tuy rằng không ai có thể và được phép nghi ngờ tình bằng hữu chân chính, cần phải rất thận trọng đối với danh dự của một người chồng vì ngay anh em ruột cũng có thể xúc phạm tới huống chi bạn bè.

Anxelmô đã nhận thấy Lôtariô thưa đi lại chơi bời; chàng hết sức than phiền với bạn, nói rằng nếu như biết cuộc hôn nhân làm cho hai người không được gặp nhau như khi trước, chàng sẽ không bao giờ lập gia đình; và nếu như quan hệ tốt giữa hai người trước kia, khi chàng chưa có vợ, đã khiến cho họ được tặng một danh từ rất đáng yêu là đôi bạn tri kỷ thì ngày nay, không nên vì quá thận trọng mà vô cớ để mất một cái tên hay ho quý giá như vậy; rồi Anxelmô cầu khẩn - nếu ta có thể dùng được danh từ này trong quan hệ giữa hai người - Lôtariô hãy coi nhà chàng như nhà mình và hãy đi lại như trước; chàng còn nói thêm rằng ý muốn của chàng cũng là ý muốn của vợ chàng và một khi Camila đã biết rõ tình bạn giữa hai người trước kia, nàng sẽ thắc mắc trước thái độ lạnh nhạt của Lôtariô.

Anxelmô đã nói như vậy và còn nói nhiều nữa nhằm thuyết phục bạn giữ quan hệ mật thiết như trước, và Lôtariô cũng đã đáp lại lòng mong muốn của Anxelmô một cách rất khéo léo, tế nhị khiến Anxelmô không còn điều gì phải than phiền nữa. Hai người thỏa thuận với nhau là cứ hai ngày trong một tuần và các ngày lễ, Lôtariô sẽ đến ăn cơm tại nhà Anxelmô. Tuy đã thống nhất với nhau như vậy song Lôtariô vẫn giữ gìn sao cho khỏi ảnh hưởng tới danh dự của bạn vì chàng coi trọng thanh danh của Anxelmô còn hơn cả của chính mình. Chàng nói rất đúng rằng một người được trời ban cho một cô vợ đẹp cần phải chú ý xem những người bạn đến chơi với mình là ai cũng như xem những bạn gái của vợ mình là ai, vì có những việc không thực hiện được và không bàn tính được ở những nơi công cộng, đền đài, hội hè (không phải lần nào các ông chồng cũng từ chối không cho vợ đi tới những nơi này) nhưng lại rất dễ giải quyết tại nhà một người bạn gái hoặc họ hàng mà ta vẫn tin tưởng xưa nay. Lôtariô còn nói rằng những người có vợ cần có bạn tốt để họ chỉ cho những thiếu sót vì xưa nay một người chồng quá yêu vợ thường không dám bảo vợ làm một việc gì có lợi hoặc ngăn vợ làm một việc gì có hại, sợ vợ giận, nhưng nếu anh ta được một người bạn vạch cho thấy cái sai thì sẽ sửa được một cách dễ dàng. Thế nhưng, tìm đâu ra một người bạn khôn ngoan, trung hậu và chân chính như Lôtariô đòi hỏi? Quả thật tôi không biết. Chỉ có Lôtariô là một người bạn như vậy vì chàng rất chăm lo đến danh dự của Anxelmô và thường tìm cách tránh né, giảm bớt hoặc rút ngắn những ngày hai người hẹn gặp nhau, để cho những kẻ rỗi việc và những cặp mắt tinh quái không thể nói gì được mỗi khi họ thấy có một chàng trai giàu có thuộc dòng dõi quý tộc và có nhiều đức tính khác, vào nhà một người đàn bà xinh đẹp như Camila; tuy đạo đức và phẩm giá của Camila cũng đủ để ngăn chặn những kẻ xấu mồm nhưng Lôtariô không muốn thanh danh của nàng cũng như của Anxelmô có thể bị ảnh hưởng. Vì vậy, những ngày phải tới thăm bạn như đã thỏa thuận, Lôtariô làm những việc khác, lấy cớ là không thể bỏ được, và thế là một bên thì trách móc, một bên cứ thanh minh, mất bao nhiêu thời giờ. Một hôm, trong lúc hai người đi chơi trên một cánh đồng ở ngoại thành, bỗng Anxelmô nói với bạn như sau:

- Bạn Lôtariô thử nghĩ xem, Thượng đế đã ưu đãi tôi, đặt tôi vào một gia đình quyền quý, cho tôi nhiều của cải - của cải thiên nhiên cũng như tiền bạc châu báu - đặc biệt là đã cho tôi một người bạn như anh và một người vợ như Camila, hai báu vật mà tôi rất quý trọng, và nếu như tôi không quý trọng đúng mức, ít nhất tôi cũng đã quý hết mức; thế nhưng, trước một sự ưu đãi như vậy, tôi vẫn không đền đáp lại một cách tương xứng. Thật ra, với tất cả những ân huệ đó, con người ta thường đã lấy làm thỏa mãn lắm rồi, riêng tôi vẫn cảm thấy mình là kẻ đau khổ, bực bội nhất thiên hạ. Không biết từ bao giờ, có một mong ước lạ lùng, khác thường ám ảnh và thôi thúc tôi, khiến tôi cũng phải ngạc nhiên với bản thân mình, và tôi tự kết tội, tự trách móc, cố gắng không thổ lộ điều đó với ai và không nghĩ tới nữa. Nhưng bây giờ đã tới lúc tôi phải nói ra và bày tỏ riêng với anh, tin tưởng rằng với sự kín đáo và sự sốt sắng của một người bạn chân chính như anh, nỗi thắc mắc của tôi sẽ chóng được giải quyết, và rồi nhờ có sự nhiệt tình của anh, hiện nay tôi buồn rầu bao nhiêu vì điều mong ước điên rồ đó, sau này tôi sẽ trở lại vui vẻ bấy nhiêu.

Nghe Anxelmô nói, Lôtariô lấy làm ngạc nhiên lắm, không hiểu bạn mình mở đầu dài dòng loanh quanh như vậy nhằm mục đích gì. Chàng cố đoán xem mong ước nào đã ám ảnh đầu óc bạn mình, nhưng không sao đoán trúng, và để khỏi phải hồi hộp vì sự chờ đợi, chàng bảo Anxelmô:

- Nếu anh cứ phải rào trước đón sau để nói lên những ý nghĩ thầm kín của mình thì thật là anh đã xúc phạm đến tình bạn thắm thiết của tôi; anh có thể chắc chắn tìm thấy ở tôi những lời khuyên nhủ hoặc một giải pháp để thỏa mãn điều mong ước của anh.

- Thật vậy, Anxelmô đáp, và với một lòng tin tưởng vào anh, tôi xin thưa với bạn Lôtariô của tôi rằng điều mong ước lâu nay ám ảnh tôi như sau: tôi muốn biết Camila, vợ tôi, có thật nết na, hoàn hảo như tôi tưởng không, và tôi không thể biết được sự thật đó nếu không thử thách nàng vì có qua thử thách mới thấy được những đức tính của nàng, cũng như lửa chứng minh những đức tính của vàng vậy. Bạn ạ, tôi nghĩ rằng một người đàn bà có nết na hay không còn tùy xem người đó có bị ai theo đuổi hay không, và một người đàn bà không xiêu lòng trước những lời thề thốt, những món quà cáp, những giọt nước mắt hoặc những sự chiều chuộng thường xuyên của những kẻ yêu mình một cách quá sốt sắng, một người như vậy mới gọi là cứng rắn được. Làm sao có thể khen một người đàn bà là nết na được một khi không có ai khuyến khích người đó làm điều bậy bạ? Nếu một người đàn bà tỏ ra rụt rè e lệ, điều đó có gì là lạ một khi người đó không gặp cơ hội để tự thả lòng hoặc biết rằng nếu chồng bắt được mình làm bậy thì sẽ không tha tội chết. Cho nên, đối với một người đàn bà tỏ ra nết na chỉ vì sợ hãi hoặc vì không gặp dịp, tôi không quý trọng như đối với một người đàn bà bị theo đuổi, cầu khẩn nhưng vẫn thắng cuộc. Vì những lý lẽ ấy và nhiều lý lẽ khác nữa mà tôi có thể viện ra đây để làm cho ý kiến của tôi thêm vững chắc, tôi muốn rằng Camila vợ tôi phải trải qua những khó khăn đó và phải được thử thách: nàng sẽ bị một người theo đuổi tỏ tình, một người tài hoa xứng đáng được nàng yêu lại. Nếu nàng thắng được trận này như tôi tin tưởng, tôi sẽ rất hạnh phúc và tôi có thể nói được rằng điều mong ước của tôi đã được toại nguyện; tôi sẽ nói rằng tôi đã may mắn lấy được một người vợ cứng rắn như một hiền nhân đã phát biểu là: Ai sẽ lấy được nàng? Còn nếu như sự việc xảy ra trái ngược với ý nghĩ của tôi, tôi sẽ chịu đựng được nỗi buồn phiền - một nỗi buồn phiền do cuộc thí nghiệm đau đớn này gây ra - vì tôi vui sướng thấy ý kiến của tôi được xác minh. Bạn Lôtariô, tất cả những lời anh sẽ nói để bác ý kiến của tôi không có tác dụng làm cho tôi từ bỏ ý định của tôi đâu, cho nên tôi muốn rằng anh sẽ nhận lời thực hiện giúp cho. Trong khi tiến hành, tôi sẽ tạo cơ hội khiến anh không thiếu một thứ gì mà tôi thấy cần thiết để theo đuổi một người đàn bà đứng đắn, nết na, kín đáo và không vụ lợi. Một trong những nguyên nhân khiến tôi trông cậy vào anh trước một việc khó khăn như vậy là vì nếu Camila có bị anh cám dỗ thì điều đó cũng không gây ra hậu quả tai hại, và ta vẫn biết được sự thật mà không xảy ra điều gì đáng tiếc. Như vậy, tôi chỉ bị xúc phạm bởi một ý định chứ không phải bởi một hành động của Camila, và sự xúc phạm đó sẽ được vùi sâu chôn chặt nhờ vào sự kín đáo của anh vì tôi biết rằng một khi chuyện này liên quan đến tôi, anh sẽ giữ kín như bưng. Bởi vậy, nếu anh muốn tôi có một cuộc sống xứng đáng với tên gọi của nó, hãy đi ngay vào cuộc chiến đấu tình cảm này, không lề mề, chậm chạp mà phải nhanh nhẹn sốt sắng, sao cho xứng đáng với lòng mong muốn của tôi và sự tin cậy giữa tình bạn của đôi ta.

Trong khi Anxelmô thốt ra những lời như vậy, Lôtariô vẫn chăm chú nghe, không nói năng gì; khi thấy Anxelmô ngừng lời, Lôtariô nhìn bạn hồi lâu như nhìn một vật gì xa lạ chưa từng thấy bao giờ, một vật làm cho chàng phải ngạc nhiên sửng sốt; cuối cùng chàng lên tiếng:

- Bạn Anxelmô, tôi không sao tin được rằng những điều anh vừa nói không phải là những câu nói đùa; nếu tôi nghĩ rằng anh nói thật, tôi đã không để anh nói hết, và khi tôi không nghe anh nói nữa tức là tôi đã cắt ngang bài diễn văn dài dòng của anh. Tôi cho rằng một là anh không hiểu tôi, hai là tôi không hiểu anh. Nhưng không, tôi biết rõ rằng anh là Anxelmô và anh cũng biết tôi là Lôtariô; điều đáng buồn là bây giờ tôi nghĩ rằng anh không còn là chàng Anxelmô trước kia và chắc anh cũng đã nghĩ rằng tôi không còn là Lôtariô như ngày trước, bởi vì những lời anh vừa thốt ra không phải là những lời của Anxelmô bạn tôi, và những điều yêu cầu của anh cũng không phải để cho Lôtariô này giải quyết. Ta cần thử thách bạn bè, song phải giao cho họ những việc làm đàng hoàng minh bạch, tôi muốn nói là không sử dụng tình bạn vào những việc chống lại đạo trời. Nếu một người tầm thường còn nghĩ được như vậy thì một giáo đồ Kitô phải hiểu biết hơn rằng không nên vì tình bạn mà làm điều trái đạo lý. Và chỉ khi nào cần bảo vệ danh dự và cuộc sống của bạn mình, chứ không phải vì những lý do hão huyền nào khác, người ta mới phải cưỡng lại những luật lệ của trời đất. Anxelmô, bây giờ anh hãy nói cho tôi biết: phải chăng danh dự hoặc cuộc sống của anh bị đe dọa khiến tôi phải giúp anh làm một công việc đáng ghét theo yêu cầu của anh như vậy? Chắc chắn là không. Trái lại, theo tôi hiểu, anh yêu cầu tôi hủy hoại danh dự và cuộc đời của anh và cả của tôi nữa. Nếu tôi làm cho anh mất danh dự tức là tôi giết chết anh vì không có danh dự còn đáng buồn hơn là chết; và một khi tôi là công cụ gây ra tai họa cho anh, tôi cũng sẽ nhục nhã không sống nổi. Bạn Anxelmô, chớ ngắt lời tôi và hãy lắng nghe tôi nói những ý nghĩ của tôi về điều mong ước của anh, sau đó tha hồ cho anh có ý kiến, tôi sẽ nghe.

- Được lắm, Anxelmô đáp, xin anh cứ nói.

Lôtariô tiếp tục:

- Anxelmô, tôi cảm thấy lúc này đầu óc anh cũng giống như đầu óc của những người Môrô vậy. Đối với họ, không thể dùng những lời trong Thánh kinh, những lý lẽ rút ra từ trí tuệ con người hoặc từ những tín điều để làm cho họ thấy rằng họ đã theo tà đạo; trái lại phải đưa ra cho họ những ví dụ cụ thể, dễ hiểu, rõ ràng, với những chứng minh bằng toán học không thể chối cãi được như khi ta nói: "Nếu ta trích những phần bằng nhau ở hai phần bằng nhau thì những phần còn lại vẫn bằng nhau"; một khi nói như vậy họ vẫn không hiểu, và chắc là họ không hiểu, phải lấy tay chỉ vào tận mắt họ; ấy thế mà vẫn không ai làm cho họ thấy được những chân lý tôn giáo thiêng liêng của chúng ta. Bây giờ, tôi cũng sẽ phải dùng cách đó đối với anh vì điều mong ước của anh quả là quá quẩn, vượt ra ngoài lý trí con người, và tôi nghĩ rằng tôi sẽ tốn thời giờ giải thích để làm cho anh nhận ra sự ngớ ngẩn của anh - tôi phải gọi như vậy vì không còn danh từ nào khác nữa, - thậm chí tôi muốn bỏ mặc anh để trừng phạt điều mong ước điên rồ của anh. Nhưng tình bạn của tôi đối với anh không cho phép tôi đối xử quá gay gắt và cũng không muốn tôi để cho anh lâm vào một tình trạng nguy hiểm như vậy. Và để anh nhìn thấy rõ điều đó, Anxelmô, anh hãy trả lời tôi: anh đã chẳng nói rằng tôi phải theo đuổi một người đàn bà kín đáo, cám dỗ một người đàn bà đứng đắn, mua chuộc một người đàn bà không vụ lợi, lung lạc một người đàn bà khôn ngoan ư? Phải, anh đã nói như vậy. Nếu anh đã biết rằng vợ anh kín đáo, đứng đắn, không vụ lợi và khôn ngoan, thử hỏi anh còn muốn gì nữa? Nếu anh cho rằng nàng sẽ vượt qua được những cuộc tấn công của tôi - chắc chắn nàng sẽ vượt được -, liệu sau này anh còn những danh từ gì đẹp đẽ hơn để tặng nàng ngoài những danh từ mà nàng hiện đã có, và liệu nàng có hơn bây giờ ở điểm nào không? Hoặc anh không tin rằng nàng nết na như anh đã khen, hoặc anh không hiểu mình muốn gì. Nếu anh không tin vợ anh nết na như anh đã nói thì còn thử thách làm gì nữa, hãy coi đó là một người đàn bà xấu xa, muốn đối xử thế nào tùy ý. Nhưng nếu vợ anh là một người đức hạnh như anh nghĩ thì đem sự thật ra thử thách là một điều khờ dại vì sau khi đã thử, sự thật vẫn là sự thật kia mà. Cho nên có thể kết luận rằng làm những việc lợi ít, hại nhiều là dại dột, liều lĩnh, nhất là khi ta không bị thúc ép, và những việc làm đó rõ ràng là một sự điên rồ. Người ta chỉ làm những việc khó khăn nguy hiểm vì Thượng đế hay vì nhân loại, hoặc vì cả hai: những việc làm vì Thượng đế là những việc mà các vị thánh đã làm trước đây (những vị này về hình thức cũng như mọi người trần nhưng muốn sống một cuộc đời của thiên thần); những việc làm vì nhân loại khiến con người ta phải vượt qua bao biển cả, qua bao địa phương thủy thổ khác nhau, qua bao nhiêu đất nước xa lạ để tìm ra những của cải quý giá; lại còn những việc làm vì Thượng đế và nhân loại của những chiến binh dũng cảm khi thấy trên tường thành của đối phương một lỗ hổng nhỏ do một viên đạn trái phá bắn vào, đã lao lên như bay giữa muôn ngàn cái chết đang chờ đợi họ, không chút sợ hãi, không phàn nàn và cũng không cần biết sự nguy hiểm đang đe dọa mình, được khích lệ bởi lòng tin và lòng mong muốn phụng sự đức vua và tổ quốc. Đó là những việc người ta thường làm, tuy đầy gian lao nhưng hiển hách, vinh quang và hữu ích. Còn việc anh định làm không được Chúa ban khen, không mang lại của cải quý giá và cũng không được người đời ca tụng. Dù việc đó có làm cho anh thỏa mãn, anh cũng không trở nên vinh hiển, giàu có, danh giá hơn bây giờ; còn nếu kết quả ngược lại, anh sẽ phải chịu một sự đau khổ lớn nhất mà người ta có thể tưởng tượng được; đừng tưởng rằng không ai biết nỗi bất hạnh của anh đâu, vả lại chỉ cần bản thân anh nhìn thấy sự bất hạnh của mình cũng đủ đau lòng lắm rồi. Để chứng minh điều này, tôi xin đọc một đoạn trong cuối phần thứ nhất tập thơ nhan đề Những giọt nước mắt của Xan Pêđrô, của thi sĩ nổi danh Luix Tanxilô:

"Khi trời rạng, Pêđrô cảm thấy nỗi đau khổ và hổ thẹn càng tăng lên; và tuy không có ai, chàng xấu hổ với chính mình về lỗi lầm đã gây ra. Đối với kẻ trượng phu, chỉ cần có trời đất biết sai lầm của mình cũng đủ nhục nhã rồi, hà tất phải chờ tới khi mọi người đều biết".

Bởi vậy, dù không ai biết, anh vẫn đau khổ, anh vẫn phải khóc, không phải bằng những giọt nước mắt mà bằng những giọt máu trong tim, giống như ông thầy khờ dại kể trong tập thơ đã đem thử chiếc bình 1 mà chàng Râynalđô khôn ngoan không dám đụng tới. Tuy tập thơ này cũng chỉ là truyện tưởng tượng nhưng nó chứa đựng những đạo lý đáng được suy nghĩ, hiểu thấu và học tập. Vả lại, điều tôi sắp nói ra đây sẽ làm cho anh thấy sai lầm lớn mà anh đang cố tình mắc phải. Anxelmô, tôi xin hỏi anh: nếu trời kia hay số phận may mắn khiến cho anh được làm chủ một viên kim cương rất quý, rất đẹp, ngay những người sành sỏi trông thấy cũng phải thích và nhất trí công nhận đó là viên đá đẹp nhất, sáng nhất, trong trẻo nhất loại, và chính anh cũng phải công nhận như vậy, không có điều gì nói ngược lại, thử hỏi anh có nên có ý định đặt viên kim cương đó lên trên một cái đe rồi lấy búa thẳng cánh nện xuống để xem nó có rắn hay không? Ví thử anh cứ làm việc đó và viên đá quý vẫn nguyên vẹn sau cuộc thử thách dại dột đó, nó cũng không vì thế mà trở nên quý giá hơn; còn nếu nó bị vỡ - điều có thể xảy ra - có phải là anh mất hết không? Đúng là mất hết, và chủ nhân viên đá quý còn bị mọi người coi là một kẻ khờ dại. Bạn Anxelmô, phải thấy rằng đối với anh cũng như với mọi người, Camila là viên đá quý nọ, và thật là khờ dại nếu ta đập thử cho vỡ. Vả chăng dù nàng có giữ được nguyên vẹn cũng chẳng danh giá gì hơn bây giờ, trái lại nếu nàng lỡ lầm không chống đỡ nổi, hãy thử nghĩ xem nàng sẽ ra sao một khi đã thất tiết, và anh sẽ phải tự trách mình đến đâu vì đã gây ra sự hủy diệt cho nàng và cho cả bản thân anh. Phải biết rằng không có vàng bạc châu báu nào trên đời này quý giá bằng một người đàn bà trong trắng nết na, và tất cả danh dự của người đàn bà tùy thuộc vào những nhận xét tốt của mọi người xung quanh. Anh đã biết là vợ anh rất mực nết na, vậy còn nghi ngờ sự thật đó làm gì? Bạn ạ, đàn bà là một động vật không hoàn thiện, chớ nên vứt những chướng ngại vật trên đường đi để họ va phải và ngã nhào, trái lại phải dọn đường lối quang quẻ khiến cho họ có thể nhanh chân nhẹ bước tiến tới sự hoàn thiện mà họ còn thiếu tức là đức hạnh. Các nhà sinh vật học kể rằng con chồn trắng là một con vật bé nhỏ có bộ lông trắng muốt; các nhà đi săn muốn bắt nó thường dùng kế như sau: biết được những nơi nó hay đi qua, họ lấy bùn chặn lại rồi lùa cho con vật chạy về phía đó; khi con chồn thấy đống bùn, nó dừng lại và chịu cho người ta bắt để khỏi phải qua đống bùn lầy sợ bẩn bộ lông trắng mà nó còn quý hơn cả tự do và cuộc đời của nó. Người đàn bà trong trắng nết na cũng tựa như con chồn trắng kia, và đức hạnh của họ còn trong trắng hơn cả băng tuyết; người nào muốn cho họ gìn giữ được đức tính đó, không để mất mát, phải dùng cách khác, không nên đánh bẫy họ bằng những quà cáp và những lời tán tỉnh của những anh đàn ông quá sốt sắng như thể dùng bùn đánh bẫy lũ chồn vậy; dù người đàn bà có đủ hay không có đủ đạo đức và nghị lực để tự mình đạp bằng và vượt qua những chướng ngại vật đó, ta cũng phải tránh trước cho họ và chỉ nên cho họ nhìn thấy những điều hay lẽ phải. Người đàn bà nết na giống như chiếc gương pha lê, bình thường thì trong sáng nhưng chỉ cần hà hơi vào là mặt gương hoen ố xỉn lại ngay. Phải coi người đàn bà đức hạnh như một vật thiêng liêng, chỉ để thờ phụng, không được đụng tới; phải gìn giữ nâng niu họ như một vườn đầy hoa hồng và các thứ hoa khác mà chủ nhân không đồng ý cho ai đặt chân đụng tay vào, đứng xa sau hàng rào sắt mà thưởng thức hương thơm sắc thắm của vườn hoa cũng đủ rồi. Cuối cùng, tôi muốn đọc cho anh nghe một vài câu thơ tôi còn nhớ được trong một buổi xem kịch, tôi thấy những câu thơ này rất phù hợp với câu chuyện của chúng ta. Một ông già khôn ngoan đã khuyên nhủ một người bạn phải giữ gìn con gái của mình, ông ta nói:

"Người đàn bà giống như tấm kính, không nên thử xem nó có dễ vỡ hay không vì mọi việc đều có thể xảy ra.

Rất có thể kính sẽ vỡ và thật là dại dột đem thử một vật không thể lành trở lại một khi đã vỡ.

Đó là ý nghĩ chung của thiên hạ và ý nghĩ đó đúng; vì nếu trên đời có những người như Đanaê thì cũng có những trận mưa vàng" 2.

Anxelmô, tất cả những điều tôi nói tới giờ liên quan đến anh, bây giờ cũng cần nói về phía tôi một chút; nếu tôi nói dài, hãy tha lỗi cho, chẳng qua chỉ vì anh tìm đường rậm mà đi rồi lại muốn tôi cứu anh ra khỏi. Anh coi tôi là bạn, nhưng lại muốn tôi bị mất danh dự vì một điều trái ngược với tình bằng hữu; đã vậy anh còn muốn tôi làm mất danh dự của anh. Rõ ràng anh muốn tôi mất danh dự vì một khi Camila thấy tôi tán tỉnh nàng theo yêu cầu của anh, chắc chắn nàng sẽ coi tôi là một kẻ xấu xa, hèn hạ vì tôi đã làm một điều xa lạ với con người tôi và tình bạn của anh đối với tôi. Ngoài ra anh còn muốn tôi làm mất danh dự của anh; điều này cũng rất rõ vì khi thấy tôi theo đuổi, Camila sẽ nghĩ rằng tôi đã phát hiện ra những chỗ yếu của nàng nên mới dám tỏ tình như vậy, và một khi nàng bị xúc phạm tức là anh cũng bị xúc phạm. Người ta thường nghĩ về ông chồng của một người đàn bà ngoại tình như sau: một người chồng, dù không biết vợ mình ngoại tình, dù không tạo điều kiện cho vợ mình làm điều bậy bạ, dù không thiếu sự chăm nom giữ gìn, vẫn bị thiên hạ gán cho những danh từ xấu xa, và trước hành vi tội lỗi của người đàn bà, người ta vẫn nhìn người chồng bằng con mắt khinh rẻ chứ không thương xót dù biết rằng nỗi bất hạnh đó không do người chồng gây ra mà do chính người vợ kia. Bây giờ tôi muốn nói cho anh biết nguyên nhân vì sao khi vợ làm điều bất chính, chính người chồng lại bị mất danh dự mặc dù anh ta không biết chuyện gì, không có lỗi gì, hoặc không làm điều gì khiến cho vợ mình đi theo kẻ khác. Hãy chịu khó nghe tôi nói vì những điều này chỉ có lợi cho anh. Khi Chúa tạo thành người cha đầu tiên của nhân loại trên trái đất này là Ađam, có kể lại rằng Người đã làm cho chàng ngủ thật say và trong khi Ađam ngủ, Người đã rút chiếc xương sườn cụt ở thân bên trái của chàng, tạo ra mẹ của chúng ta là Êva. Khi Ađam tỉnh dậy nhìn thấy Êva, chàng nói: "Đây là thịt của thịt tôi, xương của xương tôi". Chúa bèn nói: "Vì người đàn bà này, người đàn ông sẽ không ở với cha mẹ mình nữa, và hai người sẽ cùng xương cùng thịt như nhau". Từ đó, phép hôn phối được thiết lập, và giữa hai người có những sợi dây ràng buộc mật thiết, chỉ có cái chết mới làm cho họ xa rời nhau. Sự tụ hợp mầu nhiệm này chứa đựng một sức mạnh và một hiệu quả rất lớn khiến hai người khác biệt nhau lại cùng máu thịt như nhau; hơn thế, những cặp vợ chồng hòa hợp tuy có hai linh hồn nhưng cùng chung một ý chí. Vì máu thịt của vợ và chồng là một nên khi máu thịt của người vợ mang những vết nhơ bẩn hoặc bị hư hại, máu thịt của người chồng cũng phải chịu ảnh hưởng tuy rằng như đã nói ở trên, chàng ta không làm gì để gây ra chuyện không hay đó. Khi chân hoặc một bộ phận trong người bị đau, toàn thân cũng cảm thấy đau vì vẫn là da thịt ấy cả; khi mắt cá chân đau thì đầu cũng cảm thấy đau tuy đầu không gây ra sự đau đớn đó cho mắt cá. Cho nên khi vợ mất danh dự, chồng cũng phải chịu lây một phần vì hai người đã là một. Xưa nay những chuyện xấu xa đều phát sinh từ máu thịt, và những chuyện xấu xa hư hỏng của người đàn bà cũng phát sinh từ đó, cho nên nhất thiết người chồng phải chịu một phần và phải chịu ô danh dù chàng có biết chuyện đó hay không. Anxelmô, phải thấy rằng anh tự chuốc lấy tai họa nếu muốn khuấy động cuộc sống thanh bình của vợ anh; vì một sự hiếu kỳ dại dột viển vông, anh muốn thức tỉnh những ham muốn vùi sâu trong lòng người vợ trong trắng của anh. Phải thận trọng vì lợi bất cập hại; thôi, tôi chỉ nói thế vì không đủ lời diễn tả. Nếu tất cả những điều tôi đã nói không đủ cho anh thay đổi ý định không tốt của anh, anh hãy đi tìm người khác đưa anh tới ô nhục và đau khổ; tôi không làm việc đó đâu dù tôi mất bạn mất bè, một sự mất mát lớn nhất đối với tôi.

Tới đây, chàng Lôtariô đức độ và khôn ngoan ngừng lời; Anxelmô tỏ ra rất bối rối và tư lự, hồi lâu không đáp; cuối cùng chàng mới lên tiếng:

- Bạn Lôtariô, anh đã thấy tôi hết sức chăm chú nghe những điều anh muốn nói với tôi; qua những lý lẽ, những dẫn chứng cùng những sự so sánh của anh, tôi thấy anh là một con người rất mực khôn ngoan, một người bạn rất mực chân chính; tôi công nhận và thú nhận rằng nếu tôi không nghe lời khuyên của anh, cứ khăng khăng làm theo ý kiến của mình thì sẽ không gặp điều hay mà chỉ gặp điều dở. Thế nhưng anh phải thấy rằng lúc này tôi đang mắc một bệnh giống như những người đàn bà thường mắc phải khiến cho họ thèm ăn đất, phấn, than cùng những thứ khác tởm hơn, nhìn cũng đủ ghê nói chi ăn vào bụng; cho nên, phải làm cách nào cho tôi khỏi bệnh và việc này cũng dễ thôi, chỉ cần anh bắt đầu tán tỉnh Camila một cách nhẹ nhàng kín đáo, chắc nàng không quá nhẹ dạ mới nghe một vài lần đã xiêu lòng ngay đâu. Chỉ bằng cách đó tôi mới yên tâm và anh cũng mới làm tròn bổn phận đối với tình bạn của chúng ta vì không những anh làm cho tôi sống lại mà còn làm cho tôi tin rằng tôi không mất danh dự. Bắt buộc anh phải làm việc này vì một lý do sau đây: một khi tôi đã nhất quyết thực hiện việc này, anh sẽ không để tôi bộc lộ ý nghĩ điên rồ của tôi với người khác vì điều đó đe dọa danh dự của tôi mà anh rất muốn bảo vệ. Còn về phần anh, nếu vì phải theo đuổi Camila mà danh dự bị xúc phạm, điều đó không ngại lắm vì sau khi thử thách và thấy vợ tôi vẫn giữ được tiết hạnh, anh có thể nói rõ sự thật và sẽ lấy lại được tín nhiệm như trước. Anh làm việc này không có gì mạo hiểm lắm mà lại thỏa mãn được điều mong ước của tôi; thôi hãy bắt tay vào việc dù có gặp trở ngại khó khăn; như tôi đã nói, chỉ cần anh thử một vài lần thôi là ta có thể kết thúc được.

Thấy Anxelmô một mực không thay đổi và mình không còn lý lẽ hoặc dẫn chứng gì khác đưa ra để thuyết phục bạn, mặt khác thấy bạn dọa sẽ bộc lộ điều mong ước điên rồ đó với người khác, Lôtariô đành phải chiều theo ý bạn, nhận lời để tránh một tai họa lớn hơn; tuy nhiên chàng định bụng sẽ tiến hành thật khéo, vừa không xúc phạm tới tâm tư tình cảm của Camila, vừa thỏa mãn được Anxelmô. Chàng bảo bạn không cần nhờ người khác vì chàng sẽ làm việc này và sẽ tiến hành ngay khi nào thấy thuận tiện. Anxelmô ôm chặt lấy Lôtariô cảm ơn sự giúp đỡ của bạn như thể chàng vừa nhận được một ân huệ gì lớn lắm; hai người thỏa thuận với nhau là ngày hôm sau sẽ tiến hành, Anxelmô sẽ tạo cơ hội, thời gian để Lôtariô gặp gỡ riêng với Camila và sẽ trao tiền cùng các vật quý để chàng tặng cho Camila. Anxelmô còn khuyên Lôtariô dùng đàn ngọt hát hay và làm thơ ca ngợi để lung lạc Camila, và nếu Lôtariô ngại thì chàng sẽ làm hộ. Lôtariô đồng ý tất nhưng trong bụng chàng có ý định khác hẳn. Bàn bạc xong xuôi, cả hai trở về nhà Anxelmô. Ở nhà, Camila ngong ngóng chờ chồng vì thường ngày Anxelmô không bao giờ về chậm như vậy.

Sau đó, Lôtariô về nhà mình; Anxelmô vui vẻ bao nhiêu thì Lôtariô tư lự bấy nhiêu vì không biết làm cách nào để giải quyết ổn thỏa việc làm dại dột này. Đêm hôm đó, chàng nghĩ ra một kế để lừa được Anxelmô mà không phật ý Camila và ngày hôm sau, chàng đến nhà bạn ăn cơm. Camila tiếp đãi Lôtariô rất ân cần và thịnh soạn vì chàng là bạn thân của chồng mình. Sau khi ăn xong và đã dọn bàn, Anxelmô bảo Lôtariô ở nhà với Camila trong lúc chàng có việc cần phải đi, trong một tiếng rưỡi sẽ về. Camila nằn nì chồng ở nhà, còn Lôtariô thì xin đi theo, nhưng Anxelmô không nghe ai cả; đã thế, chàng còn yêu cầu Lôtariô chờ cho tới khi chàng về vì có một việc rất quan trọng cần bàn; chàng lại dặn Camila phải tiếp chuyện Lôtariô trong khi chờ. Tóm lại, chàng đã khéo tạo ra một sự vắng mặt cần thiết - hay một sự vắng mặt dại dột - khiến không ai có thể ngờ là đóng kịch. Anxelmô đi khỏi, trong phòng chỉ còn lại Camila và Lôtariô vì những người làm đều đi ăn cơm. Thế là Lôtariô đã bị bạn dồn vào giữa trận địa với kẻ thù trước mặt, một kẻ thù bằng sắc đẹp của mình có thể đánh bại được cả một đội hiệp sĩ vũ trang. Kể ra Lôtariô lo ngại là đúng. Chàng đã đối phó ra sao? Chàng đặt cánh tay lên ghế, bàn tay tì vào má, xin lỗi Camila về thái độ khiếm nhã của mình, nói rằng muốn nghỉ một lát trong khi chờ Anxelmô về. Thấy vậy, Camila mời chàng sang phòng khách nghỉ trên ghế có đệm cho được êm hơn nhưng Lôtariô từ chối, cứ thế ngủ. Anxelmô trở về, thấy Camila ở trong buồng riêng còn Lôtariô đang ngủ một mình, nghĩ rằng có lẽ vì mình vắng mặt khá lâu nên hai người đã có đủ thời giờ không những để chuyện trò mà còn để ngủ; chàng định bụng chờ cho Lôtariô tỉnh dậy sẽ kéo ra khỏi nhà để hỏi tình hình. Mọi việc đều xảy ra như ý Anxelmô. Lôtariô tỉnh giấc, hai người kéo nhau ra ngoài, rồi Anxelmô hỏi bạn điều mình đang muốn biết; Lôtariô đáp:

- Theo ý tôi, ta không nên bộc lộ hết ý tứ ngay lần đầu cho nên tôi mới chỉ ca ngợi sắc đẹp của Camila, rằng khắp cả tỉnh đều chỉ nói đến nhan sắc và tài trí của nàng. Tôi thấy bước đầu nên làm như vậy để gây được cảm tình khiến nàng sẽ sẵn sàng nghe một lần khác; đây là tôi bắt chước mưu con quỷ khi nó muốn lừa một đối phương có chuẩn bị; bản thân con quỷ là đen tối nhưng nó lại biến hóa thành thiên thần rực ánh hào quang, khoác trên người một hình thức mỹ miều; nếu lúc đầu mưu kế của nó không vỡ lở, cuối cùng nó mới lộ nguyên hình và hạ thủ đối phương.

Anxelmô nghe xong lấy làm hài lòng lắm và hứa hàng ngày sẽ tạo cơ hội cho Lôtariô; chàng sẽ vẫn ở nhà nhưng giả vờ bận bịu vào những công việc riêng khiến Camila không thể nghi ngờ gì hết.

Thế rồi ngày này qua ngày khác, Lôtariô vẫn chẳng nói gì với Camila; tuy nhiên, trước Anxelmô, chàng vẫn trả lời là có nói nhưng Camila không hề tỏ ra có hành động gì xấu xa hoặc có dấu hiệu gì khiến chàng thấy có một tia hy vọng nào, rằng nàng còn dọa nếu không từ bỏ ý nghĩ không tốt ấy đi thì nàng sẽ mách chồng. Thấy vậy, Anxelmô bảo Lôtariô:

- Thôi được, cho tới nay vợ tôi đã không xiêu lòng trước những lời tán tỉnh; bây giờ cần xem nàng có đứng vững trước của cải vật chất không. Ngày mai, tôi sẽ đưa anh hai ngàn đồng tiền vàng để anh tặng nàng cùng hai ngàn nữa để anh mua đồ nữ trang dử nàng. Xưa nay đàn bà dù trong trắng nết na, đều thích đeo đồ trang sức và trang điểm đẹp đẽ, nhất là khi họ có nhan sắc. Nếu Camila vẫn vững vàng, tôi sẽ được thỏa mãn và sẽ không làm phiền anh nữa.

Lôtariô hứa là một khi đã bắt tay vào việc này, chàng sẽ làm đến cùng, dù biết rằng sẽ tốn công vô ích. Ngày hôm sau, chàng nhận được bốn ngàn đồng tiền vàng; đối với chàng đó cũng là bốn ngàn điều lo lắng vì chàng không biết sẽ nói dối bạn ra sao. Tuy nhiên, chàng định tâm sẽ trả lời Anxelmô rằng, cũng như trước những lời tán tỉnh, Camila không hề lay chuyển trước những tặng phẩm và những lời hứa, và như vậy không nên tốn công tốn sức làm gì vì chỉ uổng phí thì giờ mà thôi. Nhưng rủi thay, sự việc lại diễn ra khác hẳn. Một hôm, cũng như mọi lần, Anxelmô bố trí cho Lôtariô và Camila gặp nhau; sau đó, chàng lẻn vào một buồng bên cạnh và qua lỗ khóa, chàng nhìn ra nghe ngóng xem hai người nói gì với nhau. Trong hơn nửa tiếng đồng hồ, không thấy Lôtariô nói gì với Camila - và dù suốt cả một thế kỷ, chàng ta cũng sẽ không nói gì hết -, Anxelmô chợt hiểu rằng tất cả những điều bạn mình đã nói về Camila đều là bày đặt cả. Để xác minh việc này, Anxelmô rời khỏi buồng, gọi Lôtariô ra một chỗ rồi yêu cầu chàng cho biết tình hình thái độ của Camila. Lôtariô đáp là chàng không muốn tiếp tục tiến hành nữa vì Camila tỏ ra rất nghiêm khắc và gay gắt khiến chàng không còn tinh thần để gặp lại nữa. Anxelmô bèn nói:

- Thôi đi, Lôtariô, anh đã không làm đủ bổn phận đối với tôi và không xứng đáng với lòng tin cậy của tôi! Hôm nay tôi đã theo dõi anh qua lỗ khóa và tôi đã thấy anh không nói với Camila nửa lời, từ đó tôi suy ra rằng anh chưa nói gì với vợ tôi cả. Nếu như vậy - và chắc chắn là như vậy -, anh lừa dối tôi làm gì? Tại sao anh mưu mô tước mất của tôi những phương tiện mà tôi có thể có được để thực hiện điều mong ước của tôi?

Anxelmô chỉ nói thế thôi, nhưng ngần ấy lời cũng đủ làm cho Lôtariô bối rối sượng sùng. Cảm thấy danh dự bị xúc phạm vì nói dối bị lộ, Lôtariô hứa với Anxelmô là từ giờ phút này, chàng sẽ hết sức chiều ý bạn và không nói dối nữa, và Anxelmô có thể thấy được điều đó nếu tò mò theo dõi. "Tuy nhiên, Lôtariô nói thêm, anh không cần phải để tâm theo dõi làm chi vì tôi sẽ hết lòng chiều theo ý anh khiến anh không còn điều gì để ngờ vực nữa". Anxelmô tin lời bạn nói, và để cho Lôtariô được thuận tiện và yên tâm, chàng quyết định vắng nhà trong tám ngày, đến ở nhà một người bạn tại một làng lân cận. Để có lý do với Camila về sự vắng mặt của mình, Anxelmô đã dặn người bạn này khẩn khoản mời mình về chơi nhà. Anxelmô, anh thật đáng thương và cũng thật dại dột! Anh định làm gì? Anh mưu toan gì? Anh đòi hỏi gì? Liệu đấy kẻo anh đang tự hại mình, tự bôi nhọ và tự hủy hoại đấy. Camila vợ anh là một người đàn bà đức hạnh; anh đang sống yên ấm với nàng; không ai phá rối hạnh phúc của anh; những ý nghĩ của vợ anh không vượt khỏi những bức tường nhà anh; anh là mặt trời của nàng trên trái đất này, là mục tiêu cho những mong ước của nàng, là hạnh phúc của nàng, là khuôn thước để nàng uốn nắn ý muốn của mình theo ý muốn của anh và của trời. Một khi cả cái kho danh dự, sắc đẹp và đức hạnh của nàng đã mang lại cho anh tất cả những cái gì quý giá nhất mà anh mong ước, tại sao anh còn muốn đào đất lên để tìm những nguồn mạch của một kho bảo vật khác xa lạ, một hành động nguy hiểm có thể làm sụp đổ tất cả vì cái kho đó dựa trên những trụ chống yếu ớt? Phải biết rằng kẻ nào đòi hỏi quá mức sẽ không được gì hết; một thi sĩ đã nói rõ điều đó như sau:

"Ta đi tìm cuộc sống trong cái chết, sức khỏe trong bệnh tật, tự do trong ngục tù, lối thoát giữa tường kín, lòng trung thành ở một kẻ phản bội.
Nhưng số phận của ta - một số phận hẩm hiu - cùng với trời kia muốn rằng ta sẽ mất hết vì ta đã đòi hỏi những điều không thể thực hiện được".

Hôm sau, Anxelmô về quê người bạn; chàng bảo Camila rằng trong thời gian chàng đi vắng, Lôtariô sẽ đến trông nom nhà cửa và ăn cùng với nàng, lại dặn nàng phải chú ý đối xử với Lôtariô như đối với chàng vậy. Camila vốn đứng đắn và hiểu biết nên có vẻ không vui trước lệnh của chồng; nàng đáp:

- Thật là một điều bất tiện để cho người khác ngồi vào ghế của chàng trong lúc chàng vắng mặt. Nếu chàng làm như vậy vì không tin rằng thiếp có thể đảm đương nổi việc nhà, xin hãy để cho thiếp làm thử lần này rồi qua thực tế, chàng sẽ thấy thiếp còn làm được những việc lớn hơn thế nữa.

Anxelmô đáp lại rằng đó là ý muốn của chàng và Camila chỉ có một việc là cúi đầu tuân theo. Camila hứa sẽ làm theo đúng lệnh của chồng dù nàng không vui lòng. Anxelmô đi khỏi, ngày hôm sau Lôtariô tới và được Camila tiếp đón ân cần và đúng mức. Camila xếp đặt rất khéo khiến Lôtariô không lúc nào thấy nàng một mình, trái lại luôn luôn có người hầu kẻ hạ bên cạnh, đặc biệt có một nữ tì tên là Lêônêla mà nàng rất quý mến vì hai người cùng sống với nhau từ hồi còn bé trong nhà cha mẹ Camila, và đến khi Camila lấy Anxelmô, nàng đem luôn cô hầu này về nhà chồng. Trong ba ngày đầu, Lôtariô không nói một câu nào với Camila mặc dù chàng có thể làm được việc đó trong lúc gia nhân dọn dẹp bàn và đi ăn ở chỗ khác (Camila đã dặn họ phải ăn thật nhanh và còn bắt Lêônêla phải ăn trước, không được rời nàng một bước); tuy nhiên cô ả này không thực hiện lệnh của chủ một cách đều đặn vì đầu óc còn bận tính toán những chuyện riêng tư và bản thân cũng cần có thời gian địa điểm riêng để thỏa mãn những yêu cầu của mình, và vì vậy, ả thường để hai người ngồi với nhau như thể đó là lệnh của chủ vậy. Nhưng thái độ đứng đắn của Camila, nét mặt nghiêm trang của nàng, vẻ khiêm nhường của con người nàng, tất cả làm cho cái lưỡi của Lôtariô cứng lại.

Nhưng nếu những đức tính của Camila có mặt tốt là ngăn chặn được cái lưỡi của Lôtariô, ngược lại nó cũng có mặt xấu gây tác hại cho cả hai người: số là trong lúc cái lưỡi của Lôtariô không hoạt động thì cái đầu của chàng được tự do suy nghĩ và chàng có dịp để quan sát những nét khả ái mỹ miều trên con người Camila khiến một pho tượng đá cũng phải mê mẩn huống chi lòng người. Và trong suốt mấy ngày, đáng lý phải nói chuyện với Camila, chàng đã dùng thời giờ đó để ngắm nghía và cuối cùng nhận thấy nàng thật đáng yêu. Ý nghĩ này bắt đầu tấn công dần vào sự kính nể của chàng đối với Anxelmô: một ngàn lần Lôtariô có ý định đi khỏi tỉnh đến một nơi nào mà Anxelmô không nhìn thấy chàng và chàng cũng không nhìn thấy Camila, nhưng sắc đẹp mê hồn của Camila đã ngăn và giữ chân chàng lại. Chàng cố đấu tranh với bản thân để xua đuổi những cảm giác khoan khoái mỗi khi nhìn Camila; những lúc ngồi một mình, chàng kết tội ý nghĩ điên rồ của mình, tự nhiếc là một người bạn và một tín đồ Kitô giáo không tốt; nhưng chàng so sánh giữa sự điên rồ và cả tin của Anxelmô với sự bất tín của mình rồi kết luận là Anxelmô có lỗi nặng hơn, tự nhủ rằng có thể bào chữa cho hành động của mình trước Chúa và mọi người, không sợ bị trừng phạt.

Quả thật nhan sắc và đức hạnh của Camila cùng với cơ hội tốt mà người chồng dại dột đã tạo ra khiến Lôtariô quên hết nghĩa tình, chỉ nghĩ làm sao thỏa mãn được ý thích của mình. Sau ba ngày liên tục đấu tranh để cố dẹp lòng ham muốn, chàng ta bắt đầu tỏ tình với Camila, với một vẻ rất lúng túng và những lời lẽ rất tình tứ khiến Camila phải sửng sốt, chỉ còn biết đứng dậy đi thẳng vào phòng riêng, không đáp nửa lời. Nhưng thái độ lạnh nhạt của Camila không làm cho Lôtariô cụt hy vọng, một niềm hy vọng nảy sinh cùng với tình yêu; trái lại nó càng làm tăng thêm quyết tâm của chàng. Thấy Lôtariô có một hành động mà nàng không bao giờ ngờ tới, Camila không biết xử sự ra sao. Nàng nghĩ rằng phải làm thế nào để Lôtariô không có điều kiện gặp gỡ lại và ngay đêm hôm đó, nàng sai gia nhân mang đến cho Anxelmô một lá thư trong đó nàng viết những dòng sau đây:


--------------------------------
1Bình thần có thể đo được lòng chung thủy của những người vợ.

2Đanaê bị giam trong tháp đồng, đã được con trai là Perxê biến thành trận mưa vàng vào thăm (thần thoại Hy Lạp).
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes


Chương XXXIV


KẾ TIẾP TRUYỆN ANH CHÀNG HIẾU KỲ KHỜ DẠI



"Cũng như người ta thường nói rằng quân vô tướng, nhà vô chủ là một điều bất lợi, thiếp trộm nghĩ một thiếu phụ vắng chồng lại càng bất lợi một khi không có những lý do thật xác đáng buộc hai người phải xa nhau. Thiếu chàng, thiếp rất đỗi buồn phiền, không chịu đựng nổi sự vắng vẻ; nếu chàng không sớm trở lại, thiếp sẽ phải về nhà cha mẹ cho khuây khỏa dù nhà chàng không có ai cai quản. Còn con người được chàng giao phó trông nom nhà cửa dường như lo thỏa mãn sở thích riêng hơn là lo tới lợi ích của chàng. Chàng là người hiểu biết, thiếp nói vậy thôi, vả chăng nói nhiều hơn không tiện".

Nhận được thư, Anxelmô hiểu ngay là Lôtariô đã bắt đầu tấn công và Camila đã tỏ thái độ đúng như ý chàng mong muốn. Khấp khởi mừng thầm, chàng nhắn miệng dặn Camila không được vì lý do gì rời khỏi nhà vì chàng sắp về. Câu trả lời của Anxelmô làm Camila ngạc nhiên và dồn nàng vào một tình thế khó xử hơn trước, phần không muốn ở lại, phần không dám về nhà cha mẹ, ở lại e không giữ trọn tiết mà về với cha mẹ thì trái lệnh của chồng. Cuối cùng nàng đã chọn giải pháp xấu nhất, không đi đâu cả và cũng không tránh mặt Lôtariô, để cho gia nhân khỏi xì xào bàn tán; nàng tự trách mình đã viết thư cho Anxelmô, sợ chàng nghĩ rằng có lẽ Lôtariô đã nhận thấy nàng ra chiều lả lơi nên mới có thái độ suồng sã không đúng mức như vậy. Tuy nhiên, tin tưởng vào lòng ngay thẳng của mình và cậy trông vào Chúa cùng những ý nghĩ tốt đẹp của mình, Camila định tâm sẽ lặng yên mặc cho Lôtariô tán tỉnh, và nàng cũng sẽ không kể lại cho Anxelmô nữa để chồng khỏi phiền lòng và mâu thuẫn với Lôtariô; nàng còn nghĩ cách trả lời chồng để xóa tội cho Lôtariô một khi Anxelmô hỏi lý do vì sao nàng viết thư.

Những ý nghĩ của Camila đầy thiện chí nhưng thiếu thận trọng và nguy hiểm. Ngày hôm sau, Lôtariô lại tấn công bằng những lời lẽ rất tình tứ khiến lòng quyết tâm của Camila bắt đầu lung lay, và nàng đã phải cố giữ cho đôi mắt không để lộ những tình cảm đang trỗi dậy trong lòng mình trước những giọt nước mắt và những lời cầu khẩn của Lôtariô. Nhưng Lôtariô cũng đã nhận thấy và chàng càng thêm mạnh bạo; chàng cho rằng trong thời gian Anxelmô vắng nhà, cần phải bao vây chặt bức thành đó. Với nhận định như vậy, chàng đánh vào tính hiếu thắng của Camila bằng những lời ca ngợi sắc đẹp của nàng vì đối với những người đàn bà có nhan sắc, không có gì chinh phục họ nhanh bằng cách dùng những lời đường mật khích động tính tự phụ của họ lên. Chàng đã nỗ lực phá vỡ tảng đá trinh tiết của Camila bằng những vũ khí vô cùng lợi hại khiến nàng phải xiêu dù cho toàn thân nàng là đồng khối. Chàng đã khóc lóc, cầu khẩn, hứa hẹn, vuốt ve, van xin, vờ vĩnh, tỏ ra vừa thiết tha, vừa chân thành khiến Camila không giữ được tấm lòng chung thủy với chồng và cuối cùng chàng đã chiến thắng Camila, điều mà chàng rất thiết tha và không ngờ tới.

Camila đã đầu hàng. Nhưng thử hỏi có gì đáng ngạc nhiên một khi Lôtariô không giữ vững được tình bạn. Rõ ràng muốn thắng được những tình cảm yêu đương thì chỉ có một cách là lánh xa tình yêu và không nên đương đầu với một kẻ địch đáng sợ, chỉ có một sức mạnh phi thường mới thắng nổi. Riêng cô hầu Lêônêla biết rõ sự mềm yếu của bà chủ vì thái độ của đôi nhân tình mới không lọt qua mắt ả. Lôtariô không muốn nói cho Camila biết rằng chính Anxelmô đã tạo ra cơ hội này e nàng sẽ đánh giá thấp tình yêu của mình và sẽ nghĩ rằng mình đã theo đuổi một cách ngẫu nhiên, vô tình, không mục đích.

Mấy ngày sau, Anxelmô trở về nhà nhưng chàng không nhận thấy sự mất mát, một sự mất mát rất lớn do chàng không biết gìn giữ. Chàng đến ngay nhà Lôtariô tìm bạn; hai người ôm hôn nhau rồi Anxelmô hỏi thăm tin tức hay dở ra sao. Lôtariô đáp:

- Bạn Anxelmô, tôi xin báo để anh biết rằng anh có một người vợ xứng đáng là tấm gương, là người đàn bà nết na nhất đời. Những lời tôi nói với nàng đã bay theo gió, nàng không nghe những câu hứa hẹn của tôi và không nhận quà cáp của tôi; nàng đã cười khi tôi giả vờ khóc. Tóm lại, Camila không những là hiện thân của sắc đẹp mà còn là biểu hiện của sự đoan chính, mực thước, thận trọng và tất cả những đức tính đáng quý của một người đàn bà đứng đắn nết na. Thôi, anh hãy cầm lại món tiền mà tôi đã không phải dùng tới vì đạo đức của Camila đã không chịu đầu hàng trước những tặng phẩm và những lời hứa hẹn tầm thường. Anxelmô, thế là đủ rồi, không nên thử thách thêm nữa làm gì; anh đã vượt qua biển cả đầy rẫy khó khăn, đánh tan muôn vàn ngờ vực mà người đàn bà thường gây ra cho ta, giờ đây xin chớ dấn mình vào một lần nữa làm chi cho thêm rắc rối, và cũng không nên đi tìm một người thủy thủ khác để thử sự vững chắc của con thuyền mà Thượng đế đã ban cho anh để vượt qua biển đời; hãy nghĩ rằng thuyền anh đã cập bến và hãy bám chặt lấy chiếc neo hạnh phúc cho tới ngày phải trả món nợ mà không một ai tránh khỏi.

Nghe Lôtariô nói, Anxelmô hởi lòng hởi dạ tưởng như đang nghe những lời của một nhà tiên tri; tuy nhiên, chàng vẫn yêu cầu Lôtariô tiếp tục cuộc thử thách dù chỉ để thỏa mãn tính hiếu kỳ, coi đó như một trò tiêu khiển; chàng bảo Lôtariô:

- Bây giờ ta không cần phải tiến hành gấp như trước nữa; tôi chỉ xin anh làm cho vài bài thơ ca ngợi vợ tôi mà trong thơ ta gọi là Clôri; tôi sẽ kể với Camila rằng anh có yêu một người và đã đặt tên cho người đó là Clôri. Như vậy, anh vẫn có thể ca tụng vợ tôi mà không sợ thất thố điều gì. Còn nếu anh ngại làm thơ, tôi xin làm đỡ.

- Không cần phải thế. Lôtariô nói, vì các thi thần cũng không đến nỗi ghét bỏ tôi và hàng năm vẫn tới lui thăm tôi đôi ba lần. Anh hãy kể cho Camila nghe về cuộc tình duyên tưởng tượng của tôi với nàng Clôri, còn tôi xin làm thơ; nếu tôi không diễn tả được hết ý trong thơ, ít nhất tôi cũng bỏ hết công sức ra làm.

Chàng Anxelmô khờ dại và đứa bạn phản phúc đã thỏa thuận với nhau như vậy. Trở về nhà, Anxelmô hỏi vợ lý do vì sao đã viết thư cho chàng (thực ra Camila rất lấy làm lạ vì đáng lý Anxelmô phải hỏi ngay khi mới về). Camila đáp là nàng cảm thấy Lôtariô có vẻ suồng sã hơn khi Anxelmô ở nhà, nhưng sau đó nàng đã thấy mình nghĩ sai sự vì Lôtariô thường tránh những cuộc gặp gỡ chỉ có hai người. Anxelmô bảo vợ không cần phải nghi ngờ như vậy vì chàng biết Lôtariô đang yêu một tiểu thư quý phái trong tỉnh mà chàng thường làm thơ ca tụng dưới cái tên là Clôri, vả chăng dù không có chuyện đó cũng không có gì phải nghi ngờ lòng chân thành và tình bạn thân thiết của Lôtariô. Đã được Lôtariô cho biết rằng chuyện yêu đương Clôri là không có, và sở dĩ chàng đã nói với Anxelmô như vậy cốt để có lý do làm thơ ca ngợi mình, Camila không bị sự ghen tuông giày vò và vẫn bình thản khi nghe chồng nói.

Hôm sau, lúc ba người vừa ăn xong, Anxelmô yêu cầu Lôtariô cho nghe một vài bài thơ ca ngợi người yêu tên là Clôri, chàng nói:

- Camila không biết Clôri là ai cho nên anh có thể tự do nói về cô ta.

- Dù chị Camila có biết, tôi cũng không giấu giếm gì hết, Lôtariô đáp. Khi một người đàn ông ca ngợi sắc đẹp của người yêu và trách móc sự độc ác của nàng, điều đó không xúc phạm tới thanh danh của nàng. Nhưng dù sao chăng nữa, tôi cũng xin đọc ra đây một bài mới làm hôm qua nói về sự bạc bẽo của Clôri, bài thơ như sau:
"Trong đêm khuya tịch mịch, khi mọi người đang say sưa giấc nồng, ta kêu trời và nàng Clôri thấu cho muôn vàn nỗi đau khổ của ta.
Khi vầng đông hiện ra trong khung cửa hồng rực, ta vẫn thổn thức khóc than nỗi bất hạnh triền miên.
Và khi từ trên vòm trời đầy hành tinh, những tia nắng rọi xuống trái đất, tiếng khóc than của ta càng thêm nức nở.
Đêm tối đã trở lại và ta cũng trở lại với nỗi đau thương; nhưng mặc cho ta khóc than tối ngày, trời kia vẫn làm thinh và nàng Clôri vẫn chẳng đoái hoài".

Camila và nhất là Anxelmô đều thích bài thơ; Anxelmô khen hay và trách Clôri quá nhẫn tâm vô tình trước một mối tình chân thật như vậy. Thấy thế, Camila hỏi:

- Vậy ra những điều các nhà thơ nói về những cuộc tình duyên đều có thật ư?

Lôtariô đáp:

- Những điều đó có thật khi họ không phải là nhà thơ nữa mà là những người đang yêu say đắm.

- Đúng như vậy, Anxelmô nhấn mạnh cốt để Camila hiểu rõ ý của Lôtariô; nhưng Camila nào có cần biết đến dụng ý của chồng vì tâm trí còn đang bận nghĩ tới người yêu.

Biết rằng những ý tứ và những lời thơ đó dành cho mình và chính mình là nàng Clôri trong thơ, Camila yêu cầu Lôtariô đọc cho nghe thêm một bài nữa.

- Tôi còn một bài khác, Lôtariô đáp, nhưng e không hay bằng bài vừa rồi, hay nói đúng hơn là kém. Để tôi đọc, anh chị sẽ thấy:
"Ta biết ta sẽ chết; và nếu em không tin ta, cái chết của ta càng thêm chắc chắn; hỡi con người xinh đẹp và bạc bẽo kia, ta sẽ chết bên chân em không hề hối tiếc đã yêu.
Ta sẽ về với thế giới của lãng quên, xa lánh cuộc đời, danh vọng, tiền tài; và trong trái tim ta khắc sâu hình ảnh xinh đẹp của nàng.
Hình ảnh thiêng liêng của nàng là niềm an ủi cho ta những khi ta bị giày vò day dứt, và tình ta càng thêm đằm thắm dù ta yêu mà chẳng được yêu.
Thương thay cho ai bềnh bồng giữa biển cả mênh mông, giữa mây đen mù mịt, tìm đâu cho thấy phương bắc, bến bờ!"

Anxelmô khen bài thơ hay không kém bài trước. Cho hay, chính chàng đã càng ngày càng bôi nhọ danh dự của mình vì Lôtariô càng làm nhục chàng bao nhiêu, chàng càng lấy làm vinh hạnh bấy nhiêu, và trong lúc Camila bước xuống những bậc thang cuối cùng của sự suy đồi thì chàng lại nghĩ rằng vợ mình đang leo tới đỉnh cao của tiết hạnh. Một hôm, trong lúc chỉ có hai người, Camila nói với nữ tì của mình:

- Em Lêônêla, ta lấy làm xấu hổ vì đã không biết giữ phẩm giá, để cho Lôtariô chiếm được con người của ta một cách quá nhanh chóng. Ta e chàng sẽ coi thường ta là một người đàn bà dễ dãi và nhẹ dạ, không thấy rằng ta không chống đỡ nổi trước sức tấn công mãnh liệt của chàng.

- Xin bà chớ bận lòng làm chi, Lêônêla đáp; dù bà đã dễ dàng trao thân cho chàng, điều đó không quan hệ và cũng không làm giảm phẩm giá một khi con người của bà đáng quý đáng yêu. Vả chăng, người ta thường nói rằng ai cho một cách dễ dàng, đáng quý gấp đôi.

Camila vặn lại:

- Nhưng người ta cũng lại nói rằng một vật dễ tìm có ít giá trị.

- Câu này không áp dụng đối với bà, Lêônêla đáp, vì em nghe nói rằng tình yêu có lúc bay nhanh, có lúc bước chậm; đối với người này nó chạy nhanh, đối với kẻ khác nó đi từ từ; nó làm lòng người nguội lạnh hoặc trở nên hăng hái; có người đau đớn ê chề và cũng có người phải chết vì nó; có khi tình yêu vừa mới nhen lên đã vội tắt; mới buổi sáng nó vây hãm một thành trì và ngay tối hôm đó nó đã chiếm được bởi chưng không một sức mạnh nào chống được nó. Đã như vậy, việc chi bà phải lo âu hốt hoảng vì chàng Lôtariô cũng nghĩ như vậy thôi: tình yêu đã thừa lúc ông chủ tôi vắng nhà để chinh phục bà. Và nhất định tình yêu phải đạt được mục đích trong thời gian đó không để cho ông chủ tôi kịp trở về làm lỡ hết việc. Thời cơ là điều kiện tốt nhất cho tình yêu thực hiện được mục đích của nó, và nó dựa vào điều kiện đó để hoạt động, nhất là trong bước đầu. Em biết rất rõ những điều này không phải vì được nghe ai nói mà chính do kinh nghiệm bản thân, và có một ngày em sẽ kể cho bà nghe vì em còn trẻ và cũng bằng xương bằng thịt như ai. Vả chăng, thưa bà, chắc chắn bà không dễ dàng hiến thân cho chàng Lôtariô nếu như bà không nhìn thấu lòng chàng qua khóe mắt nụ cười, lời ăn tiếng nói, qua những câu hứa hẹn và những quà tặng của chàng, khiến bà cảm thấy chàng xứng đáng với tình yêu của bà. Bởi vậy, xin bà chớ để cho ý nghĩ đó dằn vặt day dứt đầu óc làm chi; hãy tin rằng Lôtariô yêu bà cũng như bà yêu chàng và hãy lấy làm hạnh phúc vì bà đã gửi gắm mối tình cho một người danh giá và đáng kính trọng, không những có đủ bốn đức tính bắt đầu bằng chữ S 1 như mọi người tình nhân, mà còn có những đức tính bắt đầu bằng tất cả những chữ cái. Em xin đọc để bà nghe vì em đã thuộc lòng, đó là: Âu yếm, Bền vững, Cao thượng, Duyên dáng, Độ lượng, Êm dịu, Giàu sang, Hồ hởi, Lương thiện, Mạnh giỏi, Nền nếp, Oai nghiêm, Phong nhã, Quyền quý, Rộng rãi, Sáng suốt, Sắt son, Sôi Nổi, Sâu sắc (như đã nói lúc nãy), Thành thật, Vững vàng và, cuối cùng, Yêu thương bà một cách say đắm.

Lêônêla đọc xong các chữ cái, Camila thích chí cười mãi và khen cô hầu thông tỏ về tình yêu. Lêônêla cũng tự nhận như vậy và bộc lộ với chủ rằng ả có dan díu với một chàng trai thuộc một gia đình khá giả trong tỉnh. Nghe thấy vậy, Camila tỏ vẻ băn khoăn, e rằng vì chuyện này mà danh dự của mình bị đe dọa. Nàng yêu cầu cô hầu cho biết quan hệ giữa hai người có vượt quá những câu trao đổi chuyện trò không. Rất tự nhiên, Lêônêla trâng tráo đáp là có. Có một điều rõ ràng là những sai lầm của bà chủ trong nhà khiến cho những người hầu gái chẳng cần giữ gìn ý tứ gì nữa, và khi thấy chủ bước hụt một chân, chúng bước tập tễnh luôn cả hai chân, mặc cho thiên hạ biết. Camila chỉ còn một cách là yêu cầu Lêônêla không được kể cho người yêu về quan hệ của nàng với Lôtariô và dặn cô ta phải hành động thật kín đáo, không được để cho Anxelmô và Lôtariô biết. Lêônêla nhận lời nhưng trên thực tế ả làm trái hẳn khiến cho điều lo sợ của Camila trở thành sự thật: chính vì chuyện yêu đương của Lêônêla mà nàng đã mất hết thanh danh. Đứa hầu gái của Camila vốn bất lương và liều lĩnh; thấy bà chủ tiếp người yêu ngay trong nhà, nó cũng bắt chước đưa trai vào nhà, tin tưởng rằng dù Camila có bắt gặp cũng sẽ phải làm ngơ. Đó là một trong những hậu quả do hành động sai lầm của các bà chủ nhà gây ra: họ trở thành nô lệ của chính những người hầu của họ và buộc phải bao che những việc làm sai trái của chúng như trong trường hợp này. Nhiều lần Camila bắt gặp Lêônêla cùng người yêu ở trong buồng nhưng nàng không dám cất lời mắng mỏ mà còn tạo điều kiện cho hai đứa được yên ổn không sợ bị ông chủ bắt được. Tuy nhiên đối với Lôtariô, nàng đã không giữ kín được. Có một lần, Lôtariô trông thấy người yêu của Lêônêla ở trong nhà đi ra vào lúc sáng sớm. Không nhận ra ai, mới đầu chàng tưởng là ma; nhưng khi thấy người kia vừa đi vừa lấy áo choàng quấn kín cả người, chàng gạt bỏ ý nghĩ vớ vẩn đó và có ý nghĩ khác, một ý nghĩ sẽ đem lại hậu quả tai hại cho cả mấy người nếu Camila không kịp thời cứu vãn. Lôtariô cho rằng con người mà chàng vừa trông thấy ở trong nhà Anxelmô bước ra vào một giờ bất thường như vậy không phải là người yêu của Lêônêla (xưa nay chàng có đếm xỉa gì đến cô hầu gái này bao giờ đâu); trái lại, chàng ngờ Camila đã đem lòng yêu người khác cũng như trước đây nàng đã dễ dãi và nhẹ dạ đối với mình. Đây cũng là một hậu quả do tính tình xấu xa của người đàn bà hư hỏng dẫn tới: sau khi đã xiêu lòng trước những lời tán tỉnh và sa ngã, người đàn bà bị chính người yêu của mình khinh rẻ; người đàn ông sẽ nghĩ rằng người đàn bà kia cũng sẽ dễ dàng hiến thân cho kẻ khác, không còn điều gì phải nghi ngờ nữa. Chính trong lúc này đầu óc Lôtariô đã hết tỉnh táo và không còn suy nghĩ sáng suốt được nữa. Mất cả lý trí, trong lòng sôi sục vì ghen tuông và mong muốn trả thù Camila ngay cho hả dạ mặc dù nàng không làm điều gì phật ý, Lôtariô đi tìm Anxelmô lúc này còn đang ngủ, gọi dậy và bảo:

- Anxelmô, trong mấy ngày hôm nay, tôi phải đấu tranh với bản thân, cố giữ kín một điều mà lúc này tôi thấy không thể và không nên giấu anh nữa. Xin báo để anh biết rằng thành trì Camila đã đầu hàng và sẵn sàng làm tất cả theo ý muốn của tôi. Sở dĩ bây giờ tôi mới nói sự thật vì còn muốn biết có phải nàng xiêu lòng thật sự hay nàng định thử thách tôi để xem có đúng là tôi tỏ tình không. Vả chăng, tôi nghĩ rằng nếu quả thực nàng đứng đắn nết na như hai chúng ta đã nghĩ, chắc nàng đã kể lại với anh về những hành động ve vãn của tôi. Vì mãi không thấy nàng mách anh những chuyện đó, tôi cho rằng những điều nàng hứa hẹn với tôi đều có thật: nàng bảo tôi rằng lần sau anh vắng nhà, nàng sẽ tiếp tôi trong cái buồng xép chứa những đồ vật quý giá của anh (quả thật Camila vẫn tiếp Lôtariô trong buồng này). Nhưng tôi không muốn anh hấp tấp trừng trị Camila ngay lúc này, vì sự sai lầm của nàng còn ở trong phạm vi tư tưởng và có thể từ giờ tới lúc thực hiện, nàng sẽ nghĩ lại và thấy hối hận. Từ trước tới nay, anh vẫn nghe tôi khuyên nhủ; bây giờ xin hãy nghe lời tôi để khỏi có sự ngộ nhận và để sau đó anh sẽ liệu xử trí một cách thích đáng. Anh hãy giả đò vắng nhà một vài ngày như anh đã làm trước đây, rồi hãy nấp vào một góc ở trong buồng xép sau những tấm thảm và những đồ vật khác. Anh cũng như tôi sẽ được tận mắt biết Camila muốn gì. Nếu nàng có hành động xấu xa, điều mà ta lo ngại hơn là mong muốn, lúc đó anh sẽ trừng trị một cách kín đáo và khôn khéo.

Nghe Lôtariô nói, Anxelmô lặng người sửng sốt vì tin đó đến với chàng đúng vào lúc chàng ít ngờ tới nhất, đinh ninh rằng Camila đã thắng được những cuộc tấn công giả tạo của Lôtariô và trong lòng đang vui sướng về sự thắng lợi đó của vợ mình. Chàng lặng yên hồi lâu, mắt nhìn xuống đất không chớp, cuối cùng mới cất tiếng nói:

- Lôtariô, anh đã giúp tôi với tất cả tình bạn mà tôi mong đợi ở anh; tôi sẽ nghe lời anh. Hãy làm đi và giữ kín không cho ai biết sự việc bất ngờ này.

Lôtariô nhận lời. Sau khi chia tay với Anxelmô, Lôtariô mới hối hận về những điều đã nói và thấy đã hành động một cách ngu ngốc vì chàng có thể tự mình trả thù Camila được, hà tất phải dùng tới một biện pháp độc ác và hèn hạ như vậy. Chàng tự nguyền rủa đã quá ngu ngốc, trách mình quá hấp tấp, không biết làm thế nào để sửa sai và tìm ra một lối thoát thích đáng. Cuối cùng, chàng quyết định kể hết cho Camila. Muốn gặp riêng Camila không khó và trong ngày hôm đó chàng đến tìm ngay; vừa trông thấy Lôtariô, Camila nói:

- Anh Lôtariô, em có điều buồn phiền trong lòng; tim em như bị thắt lại muốn vỡ tung trong lồng ngực, và thật là một điều kỳ lạ nếu nó vẫn còn nguyên vẹn. Con hầu Lêônêla trơ tráo quá chừng, đêm nào cũng dẫn trai vào trong nhà này ngủ cho tới sáng; thật là nguy hiểm cho thanh danh của em vì người ta sẽ nghĩ ra sao một khi thấy có đàn ông ở trong nhà em đi ra vào một giờ bất thường như vậy. Có một điều đáng buồn là em không dám mắng mỏ, trừng phạt nó; nó biết hết chuyện của chúng ta thành thử em phải ngậm miệng không dám kể chuyện xấu của nó ra. Em e rằng việc này sẽ dẫn tới những chuyện chẳng lành.

Thoạt nghe Camila nói, Lôtariô nghĩ là mưu mẹo chi đây để thanh minh rằng người đàn ông mà chàng đã bắt gặp là nhân tình của Lêônêla, nhưng thấy nàng vừa khóc lóc thở than, vừa cầu cứu giải quyết hộ, chàng mới tin là chuyện thật khiến chàng càng thêm bối rối, ân hận. Tuy nhiên, chàng cũng lựa lời an ủi Camila và hứa sẽ tìm cách ngăn chặn sự hỗn xược của Lêônêla. Sau đó, chàng kể lại cho Camila về những điều mình đã nói với Anxelmô trong cơn giận dữ ghen tuông, về việc Anxelmô sẽ nấp trong buồng xép để được tận mắt chứng kiến sự phản bội của vợ mình. Chàng xin lỗi Camila về hành động điên rồ của mình và hỏi nàng có phương sách gì để thoát khỏi tình trạng rắc rối này do chính chàng gây ra trong một phút thiếu suy nghĩ.

Nghe Lôtariô kể, Camila nửa lo nửa giận; bằng lời lẽ nhẹ nhàng, nàng trách móc người yêu đã có ý nghĩ sai lầm và hành động dại dột. Xưa nay mỗi khi cần giải quyết việc gì - việc thiện cũng như việc ác -, đàn bà vẫn tỏ ra nhanh trí, còn đàn ông thường lại thấp mưu hơn họ. Camila đã tìm ngay được một cách để giải quyết một vấn đề tưởng như vô kế khả thi. Nàng bảo Lôtariô hãy bố trí cho Anxelmô ẩn nấp trong buồng xép ngay ngày hôm sau, nàng sẽ lợi dụng việc đó để tạo thuận lợi cho hai người sau này được tự do yêu đương không phải lo lắng gì nữa. Nàng không nói hết ý đồ của mình, chỉ dặn Lôtariô là sau khi thấy Anxelmô nấp trong buồng, phải sẵn sàng tới ngay khi nào Lêônêla gọi, nàng hỏi tới đâu thì trả lời tới đó như không biết có Anxelmô đang nghe trộm. Lôtariô khẩn khoản yêu cầu Camila cho biết rõ ý đồ để chàng liệu lựa lời cho thật chính xác. Camila đáp:

- Không có gì phải lựa lời cả, chỉ cần anh trả lời vào câu hỏi của em mà thôi.
Sở dĩ Camila không muốn nói rõ ý đồ của mình mà nàng coi là thượng sách, vì sợ Lôtariô bác bỏ và đưa ra ý kiến nào khác dở hơn.

Ngày hôm sau, Anxelmô lấy lý do thăm người bạn ở vùng quê, vờ đi ra khỏi nhà một lát rồi quay trở về nấp trong buồng; chàng làm việc này không khó khăn gì vì Camila và cô hầu gái đã cố tình tạo cho điều kiện dễ dàng.

Ngồi trong chỗ nấp với tất cả sự hồi hộp lo âu của một người sắp được nhìn tận mắt danh dự của mình bị phanh phui, Anxelmô cảm thấy sắp mất một vật gì quý nhất mà chàng vẫn gửi gắm ở người vợ yêu dấu. Biết rằng Anxelmô đã nấp xong xuôi, Camila và Lêônêla vào buồng; vừa bước chân vào, Camila thốt lên một tiếng thở dài và nói:

- Lêônêla em hỡi! Trước khi ta làm một việc mà ta không muốn cho em biết e rằng em sẽ ngăn cản ta, tốt hơn hết là em hãy cầm lấy con dao găm của chàng Anxelmô đây mà đâm vào lồng ngực ô uế này của ta. Nhưng hãy gượm, ta không muốn chịu tội thay người khác. Trước tiên, ta muốn biết tên Lôtariô trâng tráo và bất lương kia đã nghĩ gì về ta khiến hắn dám liều lĩnh ngỏ ý muốn xấu xa với ta, xúc phạm tới tình bạn của chồng ta và danh dự của ta. Em Lêônêla, hãy mở cửa sổ gọi hắn vào đây; chắc là hắn đang đứng ngoài đường lăm le thực hiện ý đồ bẩn thỉu của hắn. Nhưng ta sẽ đi trước hắn bằng một hành động tuy tàn nhẫn nhưng sẽ mang lại danh dự cho ta.

Cô hầu gái tòng phạm đáp rất khéo:

- Chết chửa, thưa bà, chẳng hay bà định dùng lưỡi dao đó làm gì? Phải chăng bà định tự kết liễu hay kết liễu cuộc đời của Lôtariô. Dù trong trường hợp nào, uy tín và thanh danh của bà cũng sẽ bị mất. Xin bà hãy dẹp nỗi tức giận và không để cho kẻ đó vào nhà trong lúc chỉ có hai bà con ta. Xin bà hãy nghĩ lại mà xem, chúng ta là thân gái chân yếu tay mềm, còn kẻ kia đang hung hăng với một ý đồ xấu xa và mù quáng. Em e rằng trước khi bà thực hiện được ý đồ của mình, kẻ đó đã làm nhục bà khiến bà còn khổ sở hơn là chết. Dại dột thay ông chủ tôi đã để cho kẻ láo xược đó vào nhà ta. Bà định giết kẻ đó ư? Ta biết làm ăn ra sao sau khi hắn chết?

- Sao ư? Camila đáp. Chúng ta sẽ để đấy cho Anxelmô mang đi chôn; chàng sẽ lấy làm thú vị được tự tay chôn vùi sự ô nhục của mình. Thôi, hãy gọi Lôtariô vào đây; chừng nào chưa trả thù kẻ đã xúc phạm ta, ta cảm thấy mình chưa trọn đạo vợ chồng.

Anxelmô nghe được hết và mỗi câu nói của Camila làm thay đổi những ý nghĩ của chàng. Khi thấy Camila tỏ ý nhất quyết giết Lôtariô, chàng muốn chạy ra khỏi chỗ nấp để can ngăn vợ; nhưng chàng đã tự ghìm lại để xem phần kết của một quyết định cứng rắn và đúng đắn như vậy, bụng bảo dạ sẽ ra mặt đúng vào lúc cần thiết để can ngăn. Lúc này, bỗng Camila ngất đi; Lêônêla vội đặt nàng lên giường, vừa khóc lóc thảm thiết vừa kêu:

- Thật là tội nghiệp cho tôi nếu chẳng may giờ đây tôi phải chứng kiến cái chết của bà chủ tôi, đóa hoa của lòng chung thủy trên đời này, bà chúa của những người đàn bà nết na, tấm gương của sự trong trắng!...

Lêônêla đã tuôn ra những lời như vậy khiến ai nghe cũng phải nghĩ rằng cô hầu này thật đáng thương và trung thành nhất thiên hạ, còn bà chủ thì đúng là nàng Pênêlôpê 2 thứ hai. Ít phút sau, Camila tỉnh lại, nói:

- Lêônêla, sao em chưa gọi ông bạn chân thành nhất đời tới đây? Đi đi, nhanh chân rảo bước lên, sự chậm trễ của em làm nguôi lửa giận trong lòng ta và biến sự trả thù chính đáng của ta thành những lời đe dọa nguyền rủa suông.

- Thưa bà, em xin đi, nhưng trước hết xin hãy đưa cho em con dao găm kia để trong lúc em vắng mặt, bà không làm một việc khiến cho tất cả những người yêu quý bà sẽ phải khóc thương suốt đời.

- Em Lêônêla, cứ yên tâm mà đi, ta sẽ không làm gì đâu; em tưởng ta liều lĩnh và xốc nổi trong việc bảo vệ danh dự ư? Không, ta sẽ không bắt chước nàng Lucrêxia vô tội kia tự kết liễu cuộc đời mà không giết kẻ đã làm cho mình đau khổ. Nếu cần phải chết, ta sẽ chết, nhưng trước đó ta phải trừng phạt kẻ đã làm cho ta đau khổ thế này mặc dù ta không làm nên tội gì.

Camila phải giục giã mãi Lêônêla mới chịu đi gọi Lôtariô. Còn lại một mình, Camila cất tiếng to như nói với chính mình:

- Trời hỡi! Lẽ ra ta phải đuổi Lôtariô ra khỏi nhà như ta đã làm nhiều lần trước đây, không nên để cho hắn nghĩ rằng ta là một người đàn bà xấu xa hư hỏng, dù rằng chỉ trong một thời gian ngắn ta sẽ làm cho hắn tỉnh ngộ. Đúng là phải làm như vậy. Ta sẽ không trả được mối thù và danh dự của chồng ta sẽ không được bảo toàn nếu kẻ kia được ung dung bước ra khỏi nhà này mặc dù hắn đã đến đây với những ý đồ đen tối. Tên phản phúc kia sẽ phải chết vì những ý muốn dâm ô của hắn. Xin mọi người biết cho rằng Camila này không những giữ trọn nghĩa phu phụ mà còn trừng phạt kẻ đã xúc phạm tới danh dự của chồng mình. nhưng ta cũng nên nói việc này cho chàng Anxelmô biết. Kể ra ta đã có nhắc tới trong bức thư ta gửi cho chàng khi chàng đi thăm bạn ở vùng quê nhưng chàng đã không hề có biện pháp ngăn chặn; có lẽ chàng đã quá tin bạn, không muốn và không thể nghĩ rằng người bạn tin cẩn nhất lại có ý định xúc phạm tới danh dự của mình. Bao lâu nay, chính ta cũng không ngờ tới cho đến khi Lôtariô tỏ ra quá trâng tráo lộ liễu bằng những quà tặng, những giọt nước mắt và những lời hứa hẹn dài dòng. Nhưng bây giờ có phải lúc cho ta kể lể không? Một quyết định cứng rắn có cần tới lời khuyên nhủ nào không? Nhất định không. Hãy đuổi sự phản bội ra khỏi nhà! Thù này phải trả! Tên phản phúc kia, hãy vào đây, lại đây; nó sẽ phải chết rồi sau muốn ra sao cũng được! Ta trong trắng khi bước chân về nhà chồng, ta phải giữ được trong trắng khi bước ra khỏi nhà chồng ta; không những thế ta sẽ bước ra với toàn thân đẫm dòng máu trong sạch của ta và dòng máu hôi tanh của đứa bạn phản phúc nhất trên đời này.

Vừa nói, Camila vừa đi đi lại lại trong buồng, tay lăm lăm con dao găm đã tuốt khỏi vỏ; nàng bước đi loạng choạng, thất thểu và có những cử chỉ của một người mất trí, hùng hùng hổ hổ, không còn vẻ gì nhu mì nữa.

Nấp sau những tấm thảm, Anxelmô nhìn rõ hết và lấy làm khoái chí lắm; chàng nghĩ rằng những điều mắt thấy tai nghe này đủ để đánh tan những sự ngờ vực lớn hơn, trong bụng thầm mong Lôtariô không tới, e xảy ra chuyện gì không hay. Chàng vừa định xuất đầu lộ diện để ôm hôn vợ và giải thích cho nàng hiểu thì phải vội ngừng lại vì cô hầu Lêônêla đang cầm tay Lôtariô dẫn vào nhà. Vừa nhìn thấy Lôtariô, Camila lấy mũi dao vạch xuống đất một vệt dài trước mặt mình rồi nói:

- Lôtariô, hãy chú ý nghe ta nói: giả sử mi liều lĩnh bước qua vạch này hay dù mi chỉ mới tới gần, lập tức ta sẽ dùng con dao đang cầm trong tay đây đâm vào giữa ngực ta. Trước khi mi có ý kiến về yêu cầu này, ta muốn mi hãy nghe ta nói, sau đó mi sẽ được tự do trả lời. Lôtariô, đầu tiên ta muốn hỏi mi có biết Anxelmô chồng ta không và mi nghĩ gì về chàng; sau nữa ta muốn hỏi mi có biết ta không. Hãy bình tĩnh trả lời, không cần phải suy nghĩ nhiều vì những câu hỏi của ta không có gì hóc hiểm cả.

Lôtariô không đến nỗi ngu dại gì nên ngay khi Camila bảo chàng bố trí chỗ nấp cho Anxelmô, chàng đã đoán được ý định của nàng; cho nên lúc này chàng trả lời rất ăn khớp và rất đúng lúc khiến cho màn kịch của hai người giống hệt như thật. Chàng đáp:

- Em Camila xinh đẹp, anh không ngờ em cho gọi anh để hỏi những điều hoàn toàn trái ngược với ý định của anh khi tới đây. Nếu em làm việc này vì chưa muốn ban cho anh ân huệ cuối cùng mà em đã hứa, sao em không làm từ trước? Theo lẽ thường tình, hy vọng đạt được mục đích càng gần bao nhiêu thì sự mong mỏi càng thôi thúc lòng người bấy nhiêu. Nhưng để em khỏi trách anh không trả lời những câu hỏi của em, anh xin thưa rằng anh có biết Anxelmô chồng em và chúng anh chơi với nhau từ khi còn nhỏ; anh không muốn nói về tình bạn giữa hai người mà em biết rất rõ, vì nói ra bao nhiêu anh càng thấy mình đã xúc phạm tới Anxelmô bấy nhiêu mặc dù tình yêu có thể dẫn con người ta tới những sai lầm còn lớn hơn. Anh có biết em và anh yêu em cũng như Anxelmô yêu em; nếu không như vậy, có khi nào anh lại hành động trái với lương tâm của anh, trái với đạo lý thiêng liêng của tình bạn chân chính ngày nay đã bị một kẻ thù đáng sợ là tình yêu chà đạp lên.

Camila đáp:

- Hỡi kẻ tử thù của tất cả những cái gì đáng yêu trên đời này! Nếu mi đã thú nhận như vậy, mi còn mặt mũi nào tới gặp ta, tấm gương soi của con người mà mi đã xúc phạm một cách trắng trợn? Ôi, thật là đau khổ cho ta! Bây giờ ta mới hiểu vì sao mi đã không làm trọn bổn phận với bản thân mi: chính vì ta đã có những cử chỉ quá thân mật đối với mi. Ta không nghĩ đã làm điều gì bất chính vì không phải ta cố tình; đây là một sự sơ xuất mà nhiều người đàn bà vô tình mắc phải khi họ nghĩ rằng không có điều gì cần phải giữ gìn. Tên phản bội kia, hãy trả lời ta đi. Có khi nào ta hưởng ứng những lời cầu khẩn của mi bằng một cử chỉ lời nói nào khiến cho mi thấy có chút hy vọng sẽ thực hiện được những mong muốn bẩn thỉu của mi không? Có khi nào ta không cự tuyệt những lời tán tỉnh của mi một cách gay gắt không? Có khi nào ta tỏ ra tin vào những lời hứa hẹn dài dòng và nhận những món quà đắt tiền của mi không? Nhưng thôi, ta nghĩ rằng một người sẽ không mất công theo đuổi tán tỉnh nếu không nuôi hy vọng trong lòng, và sở dĩ mi đã làm bậy là tại ta. Chính sự sơ suất của ta đã nuôi dưỡng ý đồ xấu xa của mi. Cho nên ta muốn tự trừng phạt và gánh trách nhiệm về sự sai lầm của mi. Nhưng để cho mi thấy rằng nếu ta tàn nhẫn với bản thân ta thì ta cũng tàn nhẫn đối với mi, ta gọi mi tới đây để chứng kiến một việc làm của ta: ta sẽ lấy cái chết để gỡ danh dự cho người chồng đáng kính của ta đã bị mi dùng hết cách xúc phạm; riêng ta tự nhận cũng đã xúc phạm tới chàng vì đã tạo ra cơ hội để gợi lên những ý nghĩ tội lỗi trong đầu óc mi. Ta rất đau lòng khi nghĩ rằng những ý đồ xấu xa của mi nảy sinh ra do sự sơ suất của ta và ta muốn dùng ngay cánh tay mình để trừng trị sự sơ suất đó vì nếu ta nhờ một kẻ khác trừng trị ta, có lẽ thiên hạ sẽ biết hết chuyện này. Nhưng trước khi ta chết, ta muốn giết mi để thỏa mãn lòng mong muốn trả thù của ta và để cho mi thấy rằng dù đi đến đâu, công lý bao giờ cũng trừng trị kẻ có tội và không bao dung kẻ đã dồn ta vào con đường tuyệt vọng này.

Nói tới đó, với một sức mạnh và một sự nhanh nhẹn không ngờ, Camila cầm dao xông vào Lôtariô như thể định đâm vào ngực chàng khiến Lôtariô cũng không hiểu đây là thực hay hư nữa, đành phải giở hết tài sức ra để tránh đòn. Trong lúc say sưa với màn kịch đang đóng, Camila muốn lấy máu của mình để tô điểm cho thêm phần chân thật. Thấy không đâm được vào người Lôtariô, đúng hơn là nàng làm như thể không đâm nổi, Camila kêu lên:

- Số mệnh đã không muốn cho ta thỏa mãn hoàn toàn điều mong ước chính đáng này song không thể ngăn cản ta thỏa mãn một phần điều mong ước của ta.

Nói xong, nàng dùng hết sức giằng lấy con dao găm trong tay Lôtariô, quay mũi dao về phía mình, nhằm vào một chỗ không nguy hiểm tới tính mạng, đâm luôn một nhát vào phía trên xương quai xanh bên trái, sát vai, rồi ngã vật ra đất như một người bất tỉnh nhân sự.

Lêônêla và Lôtariô vừa lo sợ vừa kinh ngạc trước sự việc đó và không hiểu thực hư ra sao khi thấy Camila nằm sóng sượt dưới đất trong vũng máu đào. Hết hồn hết vía, Lôtariô vội chạy lại rút lưỡi dao ra thì thấy vết thương không nặng; lúc này chàng mới hết lo và lại càng phục tài khôn khéo tinh vi của nàng Camila xinh đẹp. Tiếp tục thủ vai của mình, chàng gục đầu khóc lóc thảm thiết như thể Camila đã qua đời, vừa nguyền rủa mình, vừa trách móc kẻ đã gây ra cảnh ngộ này. Biết rằng ông bạn Anxelmô vẫn đang nấp, chàng thốt ra những lời lẽ thật ai oán khiến ai nghe cũng phải thương xót chàng hơn cả Camila dù tưởng nàng đã chết. Lêônêla bế bà chủ lên giường, bảo Lôtariô đi tìm thầy thuốc bí mật đến cứu chữa, rồi lại hỏi cách trả lời Anxelmô một khi chàng trở về trong lúc vết thương của bà chủ chưa lành. Lôtariô đáp:

- Cô hãy liệu lời đối đáp vì lúc này tôi không còn bụng dạ nào để giúp cô những lời khuyên hữu ích. Hãy làm thế nào cho vết thương cầm máu lại, còn tôi sẽ đi tới một nơi không có bóng người qua lại.

Với một vẻ vô cùng ân hận đau xót, Lôtariô bước ra khỏi nhà Camila. Tới một nơi vắng vẻ, nhìn quanh quẩn không thấy ai, chàng làm dấu lia lịa, trong lòng thầm phục mưu trí của Camila và vai phụ rất ăn khớp do Lêônêla đóng. Chàng cho rằng Anxelmô phen này chắc phải nghĩ vợ mình là một nàng Porxia 3 thứ hai; lúc ấy chàng muốn gặp ngay Anxelmô để ăn mừng một màn kịch đóng rất đạt, không ai tưởng tượng nổi.

Tại nhà Camila, cô hầu Lêônêla đang làm cho vết thương của bà chủ cầm máu. Thực ra, máu cũng chỉ chảy thế thôi, đủ để tô thêm màu sắc chân thật cho màn kịch. Ẳ ta lấy rượu lau sạch vết thương rồi vừa băng bó, vừa thốt ra những lời như thật, và Anxelmô chỉ cần nghe những lời đó cũng đủ tin rằng vợ mình là hình ảnh của lòng chung thủy. Lúc này Camila cũng làm ra vẻ đã hồi tỉnh, và cả thầy lẫn tớ ra sức kêu than. Camila tự trách đã quá yếu đuối hèn nhát, đến lúc cần thiết nhất lại không có đủ can đảm để tự kết liễu cuộc đời mà mình chán ghét. Nàng hỏi cô hầu có nên kể chuyện này với người chồng yêu quý của mình không. Lêônêla khuyên không nên vì nếu nói ra, Anxelmô sẽ phải trả thù, có khi nguy hiểm tới tính mạng chàng; ả nói tiếp:

- Một người đàn bà khôn ngoan không để cho chồng xô xát với ai và phải hết sức tránh cho chồng mình những chuyện không hay đó.

- Ý kiến của em rất đúng, Camila đáp, và ta sẽ nghe theo. Tuy nhiên, ta cũng phải tìm cách trả lời chàng Anxelmô về nguyên nhân vết thương này vì chàng sẽ biết.

- Dù với một ý định tốt, em cũng không biết nói dối, Lêônêla nói.

- Thế em tưởng ta biết nói dối ư? Dù có phải chết, ta cũng không dám bày đặt hay dựng ra một chuyện không có. Thôi, nếu không có cách nào khác, tốt nhất hãy nói sự thật còn hơn nói dối bị lộ.

- Xin bà đừng lo; từ giờ đến ngày mai, em sẽ nghĩ cách, nhưng theo ý em, bà có thể giấu được chuyện này không cho ông chủ biết vì vết thương nằm ở một chỗ khá kín đáo; Thượng đế sẽ phù hộ những ý nghĩ chính đáng và tốt đẹp của thầy trò ta. Xin bà hãy bình tâm, chớ tỏ vẻ bối rối hốt hoảng e ông chủ sẽ nhận thấy, còn đâu xin để cho em và Chúa lo hộ vì Chúa luôn luôn giúp đỡ người ngay.

Nấp trong chỗ kín, Anxelmô chăm chú theo dõi màn kịch, một màn kịch giết chết danh dự của chàng, được những diễn viên biểu diễn một cách rất tài nghệ, tưởng đâu những vai họ đóng biến thành những con người thật trong cuộc đời. Chàng mong sao trời chóng tối để có thể ra khỏi nhà đến tìm ông bạn quý Lôtariô, cùng chàng chia sẻ nỗi mừng vui vì đã phát hiện ra viên đá quý qua cuộc thử thách lòng chung thủy của vợ mình. Được Camila và cô hầu gái tạo cơ hội thuận tiện, chàng không bỏ lỡ dịp ra khỏi nhà và đến tìm Lôtariô ngay. Thật không ngòi bút nào tả xiết thái độ vồ vập của Anxelmô khi gặp bạn, những câu nói đầy thỏa mãn của chàng, những lời ca ngợi Camila. Nghe bạn nói, Lôtariô không hề tỏ vẻ mừng vui; quả thật chàng vui sao được khi nghĩ rằng bạn đã bị lừa dối và chính mình đã xúc phạm danh dự của bạn. Thấy vậy, Anxelmô lại tưởng Lôtariô buồn phiền vì đã làm cho Camila đau đớn. Nghĩ rằng tất cả đều do mình gây ra, chàng bèn lấy lời an ủi Lôtariô, khuyên bạn không nên phiền lòng về chuyện đã xảy ra, vả chăng vết thương của Camila không nặng vì nàng và cô hầu gái đã bàn nhau giấu kín không cho chàng biết. Chàng bảo Lôtariô:

- Theo tôi, không có điều gì phải lo lắng cả và từ nay anh có thể mừng cho tôi vì nhờ sự khôn ngoan khéo léo của anh, tôi đã đạt tới đỉnh cao của niềm hạnh phúc mà tôi mong ước. Từ nay, tôi sẽ dùng thời giờ làm thơ ca ngợi Camila để mua vui, và những dòng thơ của tôi sẽ làm cho nàng sống mãi trong những thế kỷ tương lai.

Lôtariô khen ý kiến đó hay và hứa sẽ giúp một tay.

Thế là Anxelmô đã trở thành người chồng bị lừa dối một cách tinh vi nhất trên đời này. Chính tay chàng đã dắt vào nhà kẻ hủy hoại thanh danh của mình mà vẫn tưởng y làm cho nhà mình nên danh nên giá. Thấy chàng trở về, Camila ra vẻ âu sầu nhưng trong bụng thì mở cờ. Đôi gian phu dâm phụ còn lừa dối Anxelmô được vài tháng nữa cho tới một ngày kia, bánh xe của thần Tư mệnh xoay vần 4, âm mưu xảo trá của họ từ trước vẫn được bưng bít, bị phơi trần ra ánh sáng, và Anxelmô đã phải trả giá cho tính hiếu kỳ khờ dại bằng cả cuộc đời mình.


--------------------------------
1Bốn đức tính đó là: Sáng suốt, Sắt son, Sôi nổi, Sâu sắc.

2Một nhân vật trong thần thoại Hy Lạp, tượng trưng cho tình yêu chung thủy.

3Vợ Marcô Brutô. Biết Brutô có âm mưu lật đổ Xêdar, hoàng đế La Mã, nàng yêu cầu cho biết kế hoạch tiến hành; để chồng thấy mình là một người đáng tin cậy và chịu được đau đớn, đã tự đâm vào người trước mặt chồng.

4Ý nói: Có những sự việc bất kỳ xảy ra.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes


Chương XXXV

CUỘC CHIẾN ĐẤU ÁC LIỆT VÀ RÙNG RỢN GIỮA ĐÔN KIHÔTÊ VỚI NHỮNG BAO RƯỢU VANG ĐỎ VÀ PHẦN CUỐI TRUYỆN ANH CHÀNG HIẾU KỲ KHỜ DẠI



Cha xứ sắp đọc xong cuốn truyện bỗng đâu Xantrô từ trong buồng ngủ của Đôn Kihôtê cuống cuồng chạy ra, mồm kêu vang:

- Các ngài ơi, mau mau lại đây cứu ông chủ tôi đang lâm vào một cuộc chiến đấu vô cùng khó khăn ác liệt mà mắt tôi chưa từng thấy bao giờ. Nhờ ơn Chúa, ông tôi đã phạt một nhát ngang vai tên khổng lồ thù địch của công chúa Micômicôna, chặt đứt đầu nó như ta chặt củ cải vậy.

Cha xứ ngừng đọc phần cuối cuốn truyện, lên tiếng hỏi:

- Người anh em nói gì vậy? Xantrô, anh tỉnh hay mê? Làm quái gì có chuyện như anh nói vì tên khổng lồ ở cách đây hai ngàn dặm kia mà.

Bỗng mọi người nghe thấy một tiếng động ầm vang trong buồng và tiếng Đôn Kihôtê thét:

- Nào, thử đánh đi, tên đạo tặc vô lại và ngu xuẩn kia! Ta kiềm chế được mi rồi, lưỡi gươm của mi vô dụng rồi!

Lại nghe thấy tiếng gươm chém chan chát vào tường, Xantrô vội bảo mọi người:

- Các ngài không nên ngồi đấy nghe ngóng làm gì, hãy vào can hai bên ra hoặc giúp ông chủ tôi một tay tuy việc đó không cần thiết vì chắc chắn tên khổng lồ đã ngoẻo rồi và lúc này đang khai trước Chúa về cuộc đời tội lỗi của mình. Tôi nhìn thấy máu chảy lênh láng dưới đất và một cái đầu to như bao rượu lăn lông lốc ở một xó nhà.

Nghe thấy vậy, chủ quán vội nói:

- Tôi đánh cuộc cái đầu tôi là ngài Đôn Kihôtê hay Đôn quỷ quái gì đó, đã phang gươm vào một trong những bao rượu xếp đầy đầu giường ông ta rồi và bác giám mã ngây thơ này thấy rượu đỏ chảy ra lại nghĩ là máu.

Nói rồi, chủ quán vào, mọi người cũng đi theo; đến nơi, thấy Đôn Kihôtê ăn mặc thật hết sức kỳ cục. Trên người chàng độc có chiếc sơ-mi, hai vạt đằng trước không đủ che kín đôi bắp vế, vạt đằng sau lại ngắn hơn sáu ngón tay, đùi dài ngoằng, khẳng khiu, lông lá và bẩn thỉu, đầu đội một cái mũ nỉ vừa nhỏ vừa cáu ghét của chủ quán, cánh tay trái quấn tròn trong một cái khăn trải giường mà Xantrô rất căm thù vì những lý do chỉ có bác ta biết thôi 1, tay phải cầm một thanh gươm tuốt trần, đâm chém lung tung, mồm hò hét inh ỏi như đang giao chiến thực sự với một tên khổng lồ nào vậy. Có điều nực cười là mắt Đôn Kihôtê nhắm nghiền vì chàng vẫn đang ngủ và mơ thấy mình đánh nhau với tên khổng lồ. Đó là vì đầu óc chàng luôn luôn tơ tưởng tới cuộc phiêu lưu sắp tới khiến chàng ngủ mê thấy mình đã tới vương quốc Micômicôn và đang đọ sức với kẻ thù. Tưởng những bao rượu là tên khổng lồ, chàng nhè vào đâm chém lia lịa làm rượu chảy lênh láng khắp buồng. Trước quang cảnh đó, chủ quán điên tiết xông tới Đôn Kihôtê, tay nắm chặt, ra sức thụi, nếu không có Carđêniô và Cha xứ can, cuộc chiến đấu của Đôn Kihôtê với tên khổng lồ sẽ kết thúc tại đây. Tuy thế, chàng hiệp sĩ khốn khổ vẫn chưa tỉnh giấc; bác phó cạo phải ra giếng múc một bình nước to mang về dội lên khắp người, bấy giờ Đôn Kihôtê mới tỉnh lại mặc dù chàng vẫn bàng hoàng, ngơ ngơ ngác ngác. Thấy chàng mặc áo ngắn cũn và mỏng manh, Đôrôtêa không dám vào xem cuộc đọ sức giữa đấng cứu tinh và tên khổng lồ thù địch của mình.

Xantrô lục lọi khắp buồng xem cái đầu tên khổng lồ ở đâu; tìm mãi chẳng thấy, bác nói:

- Biết ngay là tất cả mọi thứ trong cái nhà này đều có bàn tay yêu ma phù phép cả mà. Lần trước cũng ở chỗ tôi đang đứng đây, tôi bị đấm đá túi bụi mà không biết là ai và cũng không nhìn thấy ai; bây giờ lại không tìm ra cái đầu mà chính mắt tôi nhìn thấy ông chủ chém đứt, máu từ thân tên khổng lồ phun ra như suối.

- Máu nào, suối nào, hỡi kẻ thù của Chúa và của các vị thánh thần? Chủ quán hỏi. Tên gian ác kia, mi không thấy rằng máu và suối chỉ là những bao rượu bị chọc thủng khiến cho rượu đỏ chảy ra ngập cả phòng đó ư? Mong sao mắt ta được nhìn thấy linh hồn kẻ đã chọc thủng những bao rượu này cũng bị ngập ngụa dưới địa ngục.

- Tôi chẳng biết gì hết, Xantrô đáp; chỉ biết rằng tôi rất vô phúc vì một khi không tìm ra cái đầu tên khổng lồ kia, chức bá tước của tôi và cả lãnh địa của tôi sẽ tiêu tan cũng như muối tiêu tan trong nước vậy.

Tuy Xantrô tỉnh nhưng đầu óc bác còn rồ dại hơn cả Đôn Kihôtê lúc ngủ; sở dĩ như vậy là do những lời hứa hẹn của chủ bác mà thôi. Trước thái độ thản nhiên của tớ và những hành động phá phách của thầy, chủ quán chỉ còn biết vò đầu bứt tai; lão thề sẽ không để cho thầy trò Đôn Kihôtê ra đi không trả tiền như lần trước nữa, và kỳ này họ không thể viện cớ ưu tiên ưu đãi hiệp sĩ để quỵt các khoản tiền, kể cả tiền khâu vá những bao rượu bị đâm thủng.
Cha xứ cầm lấy hai tay Đôn Kihôtê; thấy vậy, chàng hiệp sĩ lại tưởng cuộc giao chiến đã kết thúc thắng lợi và mình đang đứng trước công chúa Micômicôna, bèn phủ phục trước mặt Cha xứ và nói:

- Kính thưa tiểu thư cao quý và danh tiếng, từ ngày hôm nay nàng có thể sống yên ổn, chắc chắn không bị tên súc sinh kia làm hại nữa; còn tôi, cũng từ ngày hôm nay, tôi đã làm đúng lời hứa đối với nàng nhờ có sự phù hộ của Thượng đế cao cả và sự giúp đỡ của con người mà tôi coi là mục đích của đời tôi và hơi thở của tôi.

Được thể, Xantrô nói với mọi người:

- Đó, tôi đã bảo mà; tôi có say đâu. Chả phải ông chủ tôi đã làm gỏi tên khổng lồ rồi là gì! Phen này thì ăn chắc chức bá tước rồi.

Thử hỏi ai nhịn được cười trước những lời nói ngô nghê của cả thầy lẫn tớ? Mọi người đều cười, chỉ có chủ quán thì không ngớt nguyền rủa. Cuối cùng, bác phó cạo, Carđêniô và Cha xứ phải vất vả lắm mới dìu được Đôn Kihôtê lên giường, và chàng hiệp sĩ lại ngủ thiếp, có vẻ rất mỏi mệt. Mặc cho chàng ngủ, mọi người ra ngoài cổng vỗ về Xantrô Panxa chớ buồn phiền vì nỗi không tìm thấy cái đầu tên khổng lồ; tuy nhiên họ còn mất nhiều công sức hơn để an ủi chủ quán đang khóc dở mếu dở vì những bao rượu trong phút chốc đi đời nhà ma. Vợ chủ quán rít lên:

- Mắt tôi chưa thấy một hiệp sĩ giang hồ nào như lão này; hắn vào nhà tôi vào một giờ hung. Hắn đã làm hại tôi. Lần trước, hắn ra đi không trả tiền ngủ đêm, tiền ăn, tiền giường, tiền rơm, tiền lúa mạch của hắn, của giám mã, của con ngựa và của con lừa, viện cớ hắn là hiệp sĩ giang hồ (cầu Chúa bắt tội hắn và tất cả những kẻ giang hồ khác trên đời này!) nên không phải trả tiền nong gì hết vì điều này đã được ghi trong bảng giá cả của giới hiệp sĩ giang hồ. Sau đó, lại có một vị khác đến đây hỏi mượn bộ lông đuôi con bò, đến khi trả lại chỉ còn một nửa, xơ xác cả ra, khiến chồng tôi không còn dùng để cài lược được nữa. Và cuối cùng, người ta chọc thủng những bao rượu của tôi làm đổ hết rượu. Sao máu của họ không đổ ra cho tôi được hả dạ! Tôi xin thề độc là nếu người ta không trả tôi đủ tiền, không thiếu một xu, tôi sẽ không còn mang tên tôi nữa và cũng không phải là con gái của mẹ tôi nữa!

Vợ chủ quán kêu la om sòm, như điên như dại, cô hầu Maritornêx cũng phụ họa thêm. Con gái chủ quán lặng yên, chốc chốc cười tủm. Cha xứ hết lời khuyên can, hứa sẽ cố gắng đền bù những thiệt hại, bao bị thủng, rượu bị đổ và nhất là cái đuôi bò bị hư hại mà hai vợ chồng chủ quán cứ nhắc đi nhắc lại mãi. Đôrôtêa cũng lựa lời an ủi Xantrô Panxa, nàng bảo:

- Ta nghĩ rằng đúng là chủ anh có chặt đứt đầu tên khổng lồ và ta hứa một khi đất nước ta trở lại bình yên, sẽ ban cho anh chức bá tước và một lãnh địa tốt nhất.

Nghe thấy vậy, Xantrô cũng nguôi cơn phiền, bác đáp:

- Xin công chúa hãy tin rằng mắt tôi đã nhìn thấy cái đầu tên khổng lồ và còn thấy cả bộ râu của nó dài đến tận thắt lưng; sở dĩ bây giờ không tìm thấy đâu là vì cả cái nhà này bị phù phép như tôi đã nghiệm trong lần trước nghỉ tại đây.

Đôrôtêa đáp là nàng tin vào lời Xantrô và bác chớ phải bận tâm, rồi đâu sẽ vào đó như ý sở cầu. Thế là mọi người đều bằng lòng. Cha xứ muốn đọc tiếp tập truyện vì chỉ còn một phần nhỏ; Carđêniô, Đôrôtêa cùng cả bọn cũng yêu cầu ông ta đọc. Để làm vui lòng mọi người và chính mình, ông cất tiếng đọc tiếp:

- Anxelmô rất hài lòng về đức hạnh của vợ mình và chàng sống những ngày hạnh phúc, thanh bình. Trong khi đó, Camila làm ra vẻ giận dỗi Lôtariô để cho chồng ngỡ là mình ghét bỏ anh chàng này; để cho Anxelmô càng tin vào hành động của vợ, Lôtariô ngỏ ý không muốn lui tới nhà chàng nữa vì rõ ràng Camila tỏ ý không vui, nhưng chàng Anxelmô khờ dại đáp là không khi nào làm thế. Cho hay, Anxelmô đã bằng mọi cách tự tay bôi nhọ danh dự mà vẫn tưởng mình đang tạo ra hạnh phúc. Lại nói tới Lêônêla quá say sưa với cuộc tình duyên đẹp đẽ của mình, chẳng cần giữ gìn ý tứ gì cả, tin tưởng được bà chủ không những bao che mà còn mách nước cho nữa. Một đêm kia, Anxelmô thấy có tiếng chân người trong buồng Lêônêla. Chàng đẩy cửa vào xem là ai thì thấy có người giữ bên trong khiến chàng càng muốn mở ra. Chàng cố lấy sức đẩy, cửa bật ra, chàng bước vào thì vừa trông thấy một người đàn ông nhảy qua cửa sổ ra ngoài đường. Chàng vội rượt theo để bắt hoặc để nhận mặt nhưng không được vì Lêônêla đã giữ chàng lại và nói:

- Xin ông chủ bớt giận chớ làm ầm lên và không cần đuổi theo kẻ vừa nhảy qua cửa làm gì; đó là người yêu của tôi mà tôi coi cũng như chồng rồi.

Anxelmô không tin; đang cơn thịnh nộ, chàng rút dao găm ra định đâm Lêônêla, bắt phải nói thật nếu không sẽ giết. Lêônêla sợ quá nói bừa:

- Xin ngài đừng giết tôi, tôi sẽ kể cho ngài nghe những điều còn hệ trọng hơn, ngoài sự tưởng tượng của ngài.

- Nói ngay nếu không mày phải chết.

- Bây giờ tôi chưa nói được vì còn đang bối rối; xin cho đến ngày mai, tôi sẽ nói những điều khiến ngài phải sửng sốt. Xin ngài tin rằng kẻ vừa nhảy qua cửa sổ là một chàng trai trong tỉnh đã hứa sẽ lấy tôi làm vợ.

Nghe Lêônêla nói, Anxelmô dẹp cơn giận và đồng ý chờ đến ngày hôm sau; vì tin vào đức hạnh của Camila, chàng không hề nghĩ rằng cô hầu sẽ tiết lộ những điều gì không hay về vợ mình. Chàng rời khỏi phòng Lêônêla, khóa trái cửa nhốt ả trong đó, dọa nếu không nói sẽ không cho ra.

Sau đó, chàng trở về phòng thuật lại cho vợ những lời Lêônêla đã nói, bảo rằng cô hầu đã hứa sẽ cho biết những điều rất quan trọng. Không cần phải nói cũng biết rằng Camila hồn vía lên mây vì nghĩ rằng Lêônêla đã kể hết với Anxelmô về sự lừa dối của mình; không còn bụng dạ nào để xác minh xem cô hầu có nói điều đó với chồng mình hay không, ngay trong đêm, chờ cho Anxelmô ngủ, nàng thu thập những đồ tư trang quý giá nhất cùng một số tiền, lẳng lặng ra khỏi nhà đến tìm Lôtariô kể lại sự tình và yêu cầu chàng đưa mình tới một nơi nào yên ổn, hoặc cả hai cùng lánh đi xa không cho Anxelmô tìm thấy. Nghe Camila kể, Lôtariô cuống cuồng không biết nói năng gì và giải quyết ra sao. Cuối cùng, chàng tính đưa Camila tới một tu viện do một người chị của chàng trông nom. Camila ưng thuận; trong tình thế cấp bách, Lôtariô đưa nàng tới ngay nơi đó rồi bản thân cũng rời khỏi tỉnh không cho ai biết.

Sáng hôm sau, Anxelmô trở dậy, nhưng chàng không nhận thấy sự vắng mặt của vợ. Trong bụng còn đang muốn biết Lêônêla sẽ nói gì, chàng đi ngay sang chỗ nhốt cô hầu, mở khóa bước vào thì không thấy ả đâu, chỉ thấy một cái dây bện bằng khăn trải giường bên cửa sổ chứng tỏ Lêônêla đã thoát bằng lối đó. Chàng buồn rầu trở về phòng định kể cho Camila thì phòng không lặng ngắt, tìm khắp nhà cũng chẳng thấy vợ đâu, khiến chàng vô cùng kinh ngạc. Chàng hỏi gia nhân đầy tớ nhưng cũng chẳng ai biết nguyên nhân ra sao. Trong lúc tìm kiếm Camila, ngẫu nhiên chàng thấy cánh cửa tủ mở toang, bên trong thiếu những đồ tư trang đáng tiền nhất. Lúc này chàng mới nhận ra đây là nỗi bất hạnh của mình, còn việc con hầu trốn mất chỉ là phụ thôi. Buồn rầu và tư lự, chàng mặc vội quần áo đến tìm ông bạn Lôtariô để kể về nỗi bất hạnh của mình nhưng cũng không thấy bạn đâu và được người nhà cho biết là hồi đêm chàng ta đã bỏ nhà ra đi mang theo hết tiền nong. Anxelmô tưởng mình sắp loạn trí. Đã thế, khi trở về nhà, bao nhiêu gia nhân đầy tớ cũng đi đằng nào cả, nhà cửa vắng lặng như tờ, khiến chàng không biết tính sao. Dần dần tĩnh trí lại, chàng suy nghĩ và thấy mình phút chốc mất cả vợ, cả bạn lẫn gia nhân đầy tớ, mất cả sự phù trợ của trời và nhất là mất danh dự vì đối với chàng, mất Camila là mất hết. Sau hồi lâu suy nghĩ, chàng quyết định đến nhà người bạn ở vùng quê, nơi chàng đã cố tình về ở để tự gây ra cho mình nỗi bất hạnh ngày nay. Chàng đóng cổng ngõ, leo lên ngựa, mệt mỏi ra đi. Mới được nửa đường, đầu óc quay cuồng vì suy nghĩ, chàng dừng lại, buộc ngựa vào một thân cây rồi nằm vật xuống cạnh đấy thở dài não nuột mãi khi trời gần tối. Lúc này, có một người cưỡi ngựa từ phía tỉnh đi tới; sau khi hai bên chào nhau, Anxelmô hỏi thăm tin tức tỉnh nhà; người kia đáp:

- Đã lâu lắm tôi mới lại được nghe những tin lạ lùng như vậy. Trong tỉnh người ta đồn ầm rằng đêm qua anh chàng Lôtariô ở Xan Huan, bạn thân của chàng Anxelmô giàu có, đã đem Camila vợ Anxelmô đi đâu mất, còn bản thân chàng Anxelmô cũng biệt tăm. Chuyện này do cô hầu của Camila khai ra sau khi bị ngài tỉnh trưởng bắt quả tang đang tụt từ trên cửa sổ xuống đất bằng dây bện tại nhà Camila. Tôi không rõ sự việc ra sao, chỉ biết là cả tỉnh đều sửng sốt vì không ai ngờ rằng việc này có thể xảy ra giữa hai người rất thân nhau, thân đến mức người ta đã mệnh danh cho họ là đôi bạn tri kỷ.

- Chẳng hay ngài có biết Lôtariô và Camila đi đường nào không? Anxelmô hỏi.

- Tôi không rõ, người kia đáp, mặc dù ngài tỉnh trưởng đã rất khẩn trương phái người đi tìm họ.

- Chúc ngài lên đường bình an, Anxelmô nói.

- Chúc ngài ở lại mạnh giỏi, người kia đáp rồi ra đi.

Tin đâu sét đánh ngang tai khiến Anxelmô như điên như dại, không sống nổi. Chàng gượng đứng lên đi đến nhà người bạn; anh này chưa biết chuyện gì nhưng nhìn thấy mặt chàng vàng vọt, hốc hác, đoán chắc đã có chuyện gì chẳng lành xảy ra. Anxelmô nhờ bạn thu xếp chỗ nghỉ và cho giấy bút để viết. Anh bạn dẫn Anxelmô vào phòng nghỉ, đưa cho chàng giấy bút và, theo lời yêu cầu của Anxelmô, đi ra đóng chặt cửa. Còn lại một mình, Anxelmô suy nghĩ về nỗi bất hạnh vừa xảy đến và cảm thấy không thể sống được nữa. Để mọi người hiểu rõ nguyên nhân cái chết của mình, chàng lấy giấy bút ra nhưng chưa viết xong thì kiệt sức qua đời vì không chịu đựng nổi đau khổ. Cho hay, tính hiếu kỳ khờ dại đã giết chết Anxelmô. Lâu không thấy chàng ở trong phòng lên tiếng, anh bạn chủ nhà mở cửa vào xem bệnh tình ông khách ra sao thì thấy Anxelmô nằm úp mặt, nửa thân trên giường, nửa thân trên bàn, tay vẫn cầm bút, trang giấy viết dở. Chủ nhà vội chạy lại gọi Anxelmô thì không thấy trả lời, sờ tay lạnh ngắt, lúc đó mới biết chàng đã tắt thở. Vô cùng kinh ngạc, chủ nhà vội hô hoán gia nhân tới, cầm trang giấy xem thì thấy bút tích của bạn để lại như sau:

"Một mong ước ngu ngốc và khờ dại đã khiến tôi phải chết. Nếu tin này đến tai Camila, xin nàng hãy nghĩ rằng tôi tha thứ cho nàng; nàng không bị buộc phải làm một việc phi thường và tôi cũng không nên đòi hỏi nàng làm việc đó. Vì chính tôi đã gây ra cho mình sự bất hạnh này cho nên không có điều gì...".

Bức thư chấm dứt tại đây chứng tỏ rằng đến chỗ đó, Anxelmô không tiếp tục được nữa và qua đời. Hôm sau, anh bạn chủ nhà báo tin cho gia đình Anxelmô nhưng họ đã biết cả rồi; họ còn được tin Camila ở trong một tu viện, cũng sắp theo chân chồng làm một cuộc viễn du không ai tránh khỏi, không phải vì nghe tin chồng chết mà vì những tin tức về người yêu. Thấy đồn rằng sau khi chồng chết, nàng vẫn ở lì trong tu viện nhưng không chịu tuyên thệ. Sau đó không lâu, nàng được tin Lôtariô, hối hận quá muộn, đã đi tìm cái chết trong một trận giao chiến giữa ngài Lôtrếch với viên tướng vĩ đại Gônxalô Phernanđêx đê Corđôba tại vương quốc Napôlêx; tới lúc đó, Camila mới tuyên thệ và ít lâu sau nàng qua đời vì quá đau buồn. Câu chuyện của ba người, mở đầu bằng một mong ước dại dột, đã kết thúc như vậy đó.

- Truyện này hay đấy, Cha xứ nói, nhưng tôi không tin có thật; nếu là hư cấu thì tác giả đã hư cấu một cách vụng về vì không ai có thể nghĩ rằng có một anh chồng nào ngu ngốc như Anxelmô dám thử lòng vợ để rồi phải trả một giá quá đắt. Nếu là chuyện xảy ra giữa một đôi tình nhân, điều đó nghe được, nhưng giữa vợ chồng thì không thể có trên đời này; tuy nhiên tôi không chê lối kể chuyện của tác giả.


--------------------------------
1Xantrô đã bị một bọn người dùng khăn trải giường tung lên vật xuống tưởng chết (chương XVII).
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes

Chương XXXVI

THÊM NHỮNG SỰ VIỆC LẠ LÙNG TRONG QUÁN TRỌ


Lúc này, chủ quán đứng trước cửa bỗng reo lên:

- Có một đám khách sộp đang đi tới; nếu họ nghỉ tại đây, lạy Chúa, thật sung sướng quá!

- Họ là những người như thế nào? Carđêniô hỏi.

Chủ quán đáp:

- Có bốn người cưỡi ngựa mang thương và khiên, đeo mặt nạ đen, lại có một người đàn bà mặc toàn đồ trắng ngồi trong một cái ghế đặt trên lưng ngựa, mặt cũng che kín, cùng với hai người hầu đi bộ.

- Họ sắp tới chưa? Cha xứ hỏi.

- Họ đã đến nơi, chủ quán đáp, họ đây rồi.

Thấy vậy, Đôrôtêa bèn che kín mặt, còn Carđêniô thì chạy vào buồng Đôn Kihôtê, vừa xong thì đám khách lạ bước vào trong quán. Bốn chàng kỵ sĩ nhảy xuống ngựa, người nào cũng khôi ngô, tuấn tú, họ đỡ người phụ nữ đang ngồi trên lưng ngựa xuống, rồi một người trong bọn bế nàng đặt vào một chiếc ghế kề ngay cửa buồng Đôn Kihôtê, nơi Carđêniô vừa chạy vào nấp. Trong khoảng thời gian đó, đám người mới tới vẫn đeo mặt nạ và không ai nói năng gì, chỉ thấy người đàn bà khi ngồi xuống ghế bỗng thốt ra một tiếng thở dài não nuột, hai tay buông thõng, nom có vẻ ốm yếu, buồn bã. Hai người hầu dắt ngựa vào chuồng.

Thấy đám khách mới tới che mặt nạ và quá kín tiếng, Cha xứ tò mò muốn biết họ là ai, bèn xuống chuồng ngựa hỏi một trong hai người theo hầu; anh này đáp:

- Lạy Chúa, tôi cũng chẳng biết họ là ai để thưa lại với ngài; chỉ thấy họ có vẻ sang trọng lắm, đặc biệt là anh chàng bế người con gái mà ngài đã nhìn thấy; sở dĩ tôi nói thế vì những người kia tỏ vẻ kính nể chàng ta, nhất nhất đều tuân lệnh.

- Thế còn người đàn bà là ai? Cha xứ hỏi.

- Tôi cũng không biết nói gì, anh hầu đáp, vì suốt dọc đường, tôi không nhìn thấy mặt mũi ra sao cả; nhưng tôi nghe thấy cô ta thở dài luôn và đôi lúc than vãn, mỗi lần như vậy tưởng như cô ta sắp lìa cõi đời. Nếu chúng tôi không biết gì hơn nữa, điều đó không đáng lạ vì anh bạn tôi đây và tôi mới đi theo họ có hơn hai hôm nay. Họ gặp chúng tôi giữa đường, yêu cầu chúng tôi đi cùng tới miền Anđaluxia, hứa sẽ trả công hậu hĩ.

- Thế anh có thấy họ gọi tên nhau không? Cha xứ hỏi.

- Không có, anh hầu đáp; họ không nói năng gì với nhau, thật là lạ; chỉ thấy những tiếng thở than, thổn thức của cô gái đáng thương kia, nghe nẫu cả ruột; chúng tôi ngờ là cô ta bị cưỡng bức đưa đi. Cứ nhìn cách ăn mặc của cô ta, chúng tôi đoán cô ta đi tu hoặc sắp đi tu thì đúng hơn, và sở dĩ cô ta có vẻ buồn bã vì không muốn vào nhà tu.

- Có thể lắm, Cha xứ nói rồi trở vào quán tìm Đôrôtêa.

Trong quán trọ, cô gái che mặt mới tới vẫn ngồi thở dài; động lòng trắc ẩn, Đôrôtêa lại gần hỏi:

- Chị đau đớn ra sao? Nếu phải một bệnh mà phụ nữ chúng ta có kinh nghiệm chữa được, tôi xin vui lòng giúp chị.

Cô gái đáng thương lặng yên không đáp; mặc cho Đôrôtêa tiếp tục hứa hẹn giúp đỡ, cô ta vẫn không hé răng. Lúc này, một kỵ sĩ đeo mặt nạ tới (theo lời anh hầu kể với Cha xứ, đó là người có uy quyền nhất trong bọn) và nói với Đôrôtêa:

- Xin nàng chớ nhọc lòng hỏi han giúp đỡ người đàn bà này làm chi vì cô ta xưa nay không quen chịu ơn những ai đã giúp đỡ mình; nàng cũng không nên yêu cầu cô ta trả lời làm gì nếu không muốn nghe những lời dối trá từ cửa miệng cô ta thốt ra.

- Tôi không bao giờ dối trá, người con gái bỗng bật lên tiếng nói; chỉ vì tôi quá thật thà không biết dối trá nên mới khốn khổ như thế này đây. Tôi muốn rằng bản thân anh sẽ làm chứng cho tôi vì chính sự thật thà của tôi đã khiến anh trở thành một kẻ tráo trở, dối trá.

Carđêniô đứng ngay bên cạnh cô gái, chỉ cách tấm cửa buồng của Đôn Kihôtê, nên nghe rõ mồn một những lời cô ta nói; chàng vội kêu lên:

- Lạy Chúa! Ta nghe thấy gì vậy! Tiếng ai vừa lọt vào tai ta?

Chợt nghe tiếng Carđêniô kêu, cô gái giật mình quay ngoắt đầu lại; không thấy ai, cô ta đứng dậy định đi thẳng vào trong buồng của Đôn Kihôtê thì chàng kỵ sĩ nọ trông thấy vội giữ lại không cho đi. Trong lúc giằng co vùng vẫy, cái mạng che của cô ta rơi xuống đất để lộ một khuôn mặt xinh đẹp tuyệt vời tuy có phần nhợt nhạt; đôi mắt cô ngơ ngác đảo nhìn khắp nơi như một người mất trí; trước cảnh tượng đó, Đôrôtêa và mọi người đều rất thương xót tuy họ không biết nguyên nhân vì sao. Chàng kỵ sĩ nắm chặt hai vai cô; vì hai tay bận giữ cô gái, chiếc mặt nạ của chàng tụt dần rồi rơi xuống đất. Đang đỡ cô gái, Đôrôtêa ngửng mặt lên thì nhận ra chàng kỵ sĩ nọ chính là Đôn Phernanđô chồng nàng; nàng chỉ kịp kêu lên: "Ôi"! - một tiếng kêu não nuột tự đáy lòng thốt ra - rồi ngã ngửa ra phía sau, bất tỉnh nhân sự. May sao bác phó cạo đứng ngay bên cạnh kịp dang tay ra đỡ, nếu không, ắt nàng nhào xuống đất. Cha xứ vội chạy lại gỡ chiếc mạng để té nước vào mặt nàng; thoạt trông thấy, Đôn Phernanđô (tức là chàng kỵ sĩ đang giữ cô gái mới đến) nhận ra ngay là Đôrôtêa và chàng đờ người ra như chết rồi; tuy nhiên chàng vẫn không buông Luxinđa lúc này đang cố vùng vẫy thoát khỏi tay chàng. Số là Luxinđa đã nhận ra tiếng Carđêniô và Carđêniô cũng đã nhận ra nàng; khi Đôrôtêa thốt lên tiếng kêu "Ôi!" rồi ngất đi, Carđêniô lại tưởng Luxinđa kêu; chàng hốt hoảng từ trong buồng chạy xổ ra thì nhìn thấy Đôn Phernanđô đang giữ Luxinđa. Đôn Phernanđô cũng nhận ra Carđêniô ngay và cả bốn người - Đôn Phernanđô, Luxinđa, Carđêniô và Đôrôtêa - đều sững sờ sửng sốt trước một tình huống quá bất ngờ.

Họ lặng yên đưa mắt nhìn nhau. Đôrôtêa nhìn Đôn Phernanđô, Đôn Phernanđô nhìn Carđêniô, Carđêniô nhìn Luxinđa, Luxinđa nhìn Carđêniô. Cuối cùng Luxinđa phá tan bầu không khí yên lặng, nói với Đôn Phernanđô những lời như sau:

- Chàng Đôn Phernanđô, nếu không vì một lý do nào khác, xin chàng hãy làm trọn bổn phận đối với chính mình và buông tha tôi ra. Tôi là cây leo, hãy trả tôi về với bức tường kia, về với con người kia là nơi nương tựa của tôi mà những lời đe dọa, hứa hẹn và những quà cáp của chàng không làm cho tôi xa rời. Chàng cũng đã thấy rằng trời kia, bằng những con đường xa lạ và bí ẩn, đã đưa tôi đến với người chồng thực sự của tôi; qua bao sự việc thực tế, chàng cũng hiểu rõ rằng chỉ có cái chết mới có thể xóa nhòa hình ảnh con người đó trong tâm trí tôi. Ngần ấy sự việc đủ để cho chàng vỡ mộng, khiến chàng biến yêu thành ghét, biến thương thành giận, và thực ra chàng cũng không thể làm khác được. Thôi, xin hãy kết liễu cuộc đời tôi đi; được chết trước mặt người chồng yêu quý của tôi, tôi cảm thấy không chết uổng. Có lẽ với cái chết của tôi, chồng tôi sẽ hài lòng thấy tôi đã giữ trọn tình trọn nghĩa tới giờ phút cuối cùng.

Lúc này, Đôrôtêa đã hồi tỉnh; nghe những lời Luxinđa nói, nàng đã đoán ra là ai; thấy Đôn Phernanđô vẫn lặng thinh giữ chặt Luxinđa, nàng gượng đứng dậy, đến quỳ trước mặt Đôn Phernanđô, vừa khóc lóc thảm thiết vừa nói:

- Chàng ôi, nếu như những tia sáng của vầng ô kia mà chàng đang dùng hai cánh tay che khuất, không làm mờ mắt chàng, chàng sẽ nhận ra kẻ đang quỳ dưới chân chàng chính là Đôrôtêa bất hạnh, bất hạnh chừng nào chàng chưa buông tha cho. Tôi là cô thôn nữ hèn mọn mà chàng đã vì lòng tốt hay vì ý thích riêng muốn đưa lên một địa vị cao sang làm bạn trăm năm cùng chàng. Tôi là cô gái sống một cuộc đời êm ấm trong một khung cảnh trong sạch, lành mạnh cho tới một ngày kia, trước những lời cầu khẩn và những câu tỏ tình có vẻ thành thật của chàng, đã mở toang cánh cửa của sự e lệ để trao cho chàng chiếc chìa khóa xưa nay vẫn khóa chặt sự tự do của tôi, và trước tấm thịnh tình của tôi, chàng đã đối xử tệ bạc khiến ngày hôm nay chàng thấy tôi đang sống ở nơi xa lạ này và gặp lại chàng trong một tình trạng như thế này đây. Tuy nhiên, tôi không muốn chàng phải nghĩ rằng tôi tới đây bằng một con đường nhục nhã. Không đâu, tôi đã bỏ nhà ra đi chỉ vì đau khổ và vì thấy bị chàng ruồng bỏ. Trước đây, chàng muốn rằng con người tôi thuộc về tay chàng và chàng đã có một hành động khiến cho ngày nay chàng không thể nào rứt bỏ tôi được dù chàng có ý định đó. Chàng ôi, nếu như tôi kém sắc thua tài khiến chàng đã phải chạy theo một mục đích khác, trái lại tôi có tấm lòng, một tấm lòng rộng lớn có thể bù đắp được những thiếu sót trên. Chàng không thể là chồng cô Luxinđa xinh đẹp được vì chàng đã thuộc về tôi, cô ta cũng không thể là vợ chàng được vì đã thuộc về Carđêniô. Chàng thử nghĩ mà xem và phải biết kiềm chế ý muốn của mình vì rằng yêu một người có tình cảm với mình tốt hơn yêu một người ghét bỏ mình. Bằng những lời van xin, cầu khẩn, chàng đã đến tấn công vào tấm lòng trung kiên của tôi; chàng không lạ gì tính nết tôi và chàng cũng đã thấy tôi trao thân cho chàng trong một hoàn cảnh như thế nào, cho nên chàng không có lý do gì để bào chữa rằng đó là một sự nhầm lẫn. Sự thể là như vậy; nếu chàng là một giáo đồ Kitô ngoan đạo, một hiệp sĩ đức độ, cớ sao chàng phải đi tìm những con đường quanh co để mang lại hạnh phúc cho tôi, người đã được chàng làm cho sung sướng trước kia. Nếu như chàng không muốn tôi trở thành vợ chính thức của chàng - điều mà tôi xứng đáng được hưởng - ít ra xin hãy nhận tôi làm kẻ nô lệ của chàng; được sống dưới quyền của chàng, tôi lấy làm sung sướng, may mắn lắm rồi. Đừng ruồng bỏ tôi để cho thiên hạ xì xào làm nhục tôi; đừng để cha mẹ tôi phải đau khổ lúc tuổi già; cha mẹ tôi đã tỏ ra là những người đầy tớ trung thành của cha mẹ chàng và không đáng phải chịu một cảnh ngộ như vậy. Nếu chàng cho rằng dòng máu của chàng sẽ trở nên nhơ bẩn vì pha tạp dòng máu của tôi, xin hãy nghĩ rằng hiếm có gia đình quyền quý nào không trải qua con đường đó, và dù người đàn bà có thuộc dòng dõi quý phái hay không, điều đó cũng chẳng ảnh hưởng gì tới tương lai con cháu sau này. Vả chăng con người ta phải có đức mới thực là cao quý; nếu chàng không chịu thỏa mãn yêu cầu chính đáng của tôi tức là chàng thiếu đức, và như vậy tôi sẽ còn cao quý hơn chàng. Cuối cùng, tôi xin nói rằng tôi đã là vợ của chàng dù chàng muốn hay không, chứng cớ là những lời hứa hẹn của chàng, những lời hứa không thể dối giả được một khi chàng vẫn tự khoe mình là con nhà quyền quý để có quyền khinh rẻ tôi, chứng cớ là chữ ký của chàng, là Chúa mà chàng đã viện ra để chứng giám cho những lời thề thốt của chàng. Và dù cho không có chứng cớ gì chăng nữa, lương tâm của chàng sẽ lặng lẽ nhắc nhở chàng giữa những cuộc vui, gợi lại sự thật tôi vừa nói ra, làm vẩn đục những giờ phút hạnh phúc của chàng.

Nàng Đôrôtêa đáng thương đã thốt ra những lời như vậy với tất cả tình cảm xúc động của mình, nước mắt ròng ròng, khiến ngay những người đi cùng đoàn của Đôn Phernanđô và tất cả những ai có mặt đều khóc theo. Đôn Phernanđô lặng yên đứng nghe; nói xong, Đôrôtêa nức nở than khóc với một vẻ đau khổ khiến một người có trái tim sắt đá cũng phải mềm lòng. Luxinđa nhìn Đôrôtêa, vừa thương xót vừa thán phục trước nhan sắc và những lời lẽ chí tình; nàng muốn chạy tới lựa lời an ủi nhưng Đôn Phernanđô vẫn giữ chặt lấy nàng. Lúc này, Đôn Phernanđô tỏ ra sượng sùng, bối rối; chàng chăm chú nhìn Đôrôtêa một lúc lâu, cuối cùng buông hai tay thả Luxinđa ra và nói:

- Đôrôtêa xinh đẹp, em đã thắng! Không ai có đủ can đảm để phủ nhận những sự thật đó.

Được Đôn Phernanđô buông tha, Luxinđa ngất đi, chực ngã lăn ra đất. Quên cả sợ hãi và mọi nguy hiểm có thể xảy đến, Carđêniô, từ nãy vẫn đứng sau Đôn Phernanđô để tránh mặt, chạy lại đỡ người yêu, ôm chặt trong tay và nói:

- Em xinh đẹp và kiên trinh của ta, nếu Thượng đế đầy lòng bác ái kia muốn cho em được hưởng sự yên lành, ta nghĩ rằng không đâu chắc chắn bằng đôi cánh tay đang ôm em đây, đôi cánh tay đã từng ôm ấp em khi số mệnh muốn cho em thuộc về ta.

Luxinđa mở mắt nhìn người vừa nói những câu đó; khi nghe tiếng Carđêniô, nàng đã nhận ra và lúc này nàng càng tin chắc là đúng. Cuống cuồng, quên cả giữ gìn ý tứ, nàng dang hai cánh tay ôm cổ Carđêniô, áp mặt mình vào mặt chàng và nói:

- Chàng đây rồi, chàng mới là chủ nhân thực sự của đứa con gái nô lệ này mặc dù số phận đôi ta ngang trái, mặc dù bao nỗi nguy nan đe dọa cuộc đời em, một cuộc đời đã được gửi gắm vào tay chàng.

Thật là một cảnh tượng kỳ lạ; Đôn Phernanđô và mọi người đều kinh ngạc trước sự việc bất ngờ như vậy. Đôrôtêa nhận thấy Đôn Phernanđô biến sắc và có hành động muốn hại Carđêniô vì thấy chàng kéo tay về phía đốc gươm. Nhanh như cắt, nàng ôm chặt hai chân chàng, vừa hôn vừa khóc, nàng nói:

- Chỗ nương tựa của đời tôi ơi! Chàng định có hành động gì vậy trước tình huống bất ngờ này? Vợ chàng đang quỳ dưới chân chàng, còn con người mà chàng muốn lấy làm vợ đang ở trong tay của chồng cô ta. Chàng nghĩ lại xem có nên hoặc có thể cưỡng lại ý trời được chăng. Chàng hãy đoái thương tới đứa con gái đã vượt mọi chông gai, một lòng một dạ kiên trì và tin tưởng vào chân lý, giờ đây đang ở trước mặt chàng, nước mắt ròng ròng thấm ướt cả mặt và ngực người chồng mà mình yêu quý. Tôi van xin chàng; một con người như chàng không nên mất bình tĩnh trước một sự thật hiển nhiên như vậy. Chàng hãy dẹp nỗi tức giận và để cho đôi trai gái kia được tự do hưởng hạnh phúc yên lành chừng nào trời kia còn cho họ sống làm người. Được vậy, chàng sẽ tỏ rõ sự độ lượng của một con người thuộc dòng dõi danh giá và người đời sẽ thấy rằng lý trí của chàng đã thắng được những tình cảm nhỏ nhen.

Trong lúc Đôrôtêa nói, Carđêniô vẫn ôm Luxinđa trong tay, mắt nhìn chằm chằm vào Đôn Phernanđô, chỉ chờ có một hành động đối địch nào là chàng sẵn sàng tự bảo vệ và đánh trả đích đáng tất cả những kẻ nào định hãm hại mình, dù có phải hy sinh tính mạng. Những người bạn cùng đi với Đôn Phernanđô, Cha xứ, bác phó cạo, nói tóm lại tất cả những người có mặt, kể cả Xantrô Panxa, xúm quanh Đôn Phernanđô van xin chàng hãy động lòng trước những giọt nước mắt của Đôrôtêa. Họ nói: "Theo thiển ý chúng tôi, nàng đã nói lên sự thật, ngài chớ nên làm cho những hy vọng chính đáng của nàng trở thành thất vọng". Cha xứ nói thêm:

- Không phải ngẫu nhiên mọi người chúng ta họp mặt tại một nơi mà không ai hề nghĩ tới; đây chính là một sự sắp xếp của Thượng đế. Ngài nên biết rằng chỉ có cái chết mới làm cho Luxinđa và Carđêniô chia lìa, và dù cho lưỡi gươm kia có làm cho họ phải xa rời nhau, họ sẽ cảm thấy cái chết đối với họ rất êm ái. Vả chăng, ngay trong những trường hợp khó xử nhất, nếu ta cố thắng được bản thân, vui vẻ để cho đôi trai gái hưởng hạnh phúc mà trời đã dành cho họ, tức là ta đã tỏ ra một người độ lượng, rất mực khôn ngoan. Bây giờ, xin ngài hãy nhìn Đôrôtêa; ngài sẽ thấy rằng hiếm có một người xinh đẹp như nàng; đã thế, nàng còn tỏ ra khiêm nhường và yêu ngài tha thiết. Hơn nữa, nếu ngài tự nghĩ mình là một hiệp sĩ và một tín đồ Kitô giáo, ngài không có cách nào khác là làm đúng lời hứa của mình. Làm được như vậy, ngài sẽ thực hiện lời thề với Chúa và làm đẹp lòng những người thức thời hiểu biết rằng một cô gái tuy phận thấp hèn nhưng có nhan sắc và nết na vẫn có quyền được hưởng một địa vị cao sang, và người nào nâng cô ta lên ngang hàng với mình, người đó không hề bị mất phẩm giá. Vả chăng, làm thỏa mãn lòng ham muốn của một người khác không phải là một tội lỗi một khi tính chất của hành động đó không xấu xa.

Cha xứ nói xong, mỗi người thêm mỗi câu và cuối cùng, dòng máu hào hiệp đã quay trở về tim Đôn Phernanđô khiến chàng xúc động và phải chịu công nhận một sự thật không thể chối cãi được. Để tỏ rằng mình đã chịu nhận lẽ phải, chàng cúi xuống ôm Đôrôtêa và nói:

- Xin nàng hãy đứng lên; tôi không thể để cho con người mà tôi ấp ủ trong lòng phải quỳ dưới chân tôi; nếu từ trước tới nay tôi chưa tỏ tình ra được, có lẽ vì trời kia muốn như vậy để cho tôi nhìn thấy rõ mối tình chung thủy của nàng, do đó mà biết quý trọng nàng một cách đúng mực. Tôi xin nàng đừng trách tôi đã có thái độ không tốt và tỏ ra quá hững hờ với nàng: cũng một hoàn cảnh, cũng một sức mạnh đã khiến tôi muốn làm chủ con người nàng để rồi sau đó lại thúc đẩy tôi tìm cách xa rời nàng. Để nàng thấy rõ điều đó, xin hãy quay lại nhìn vào đôi mắt của nàng Luxinđa, con người lúc này đây đã tìm thấy hạnh phúc; nàng sẽ tha thứ cho những sai lầm của tôi: Luxinđa đã được toại nguyện và tôi cũng đã tìm thấy ở nàng những gì mà tôi mong ước. Tôi chúc cho cô ta được hưởng hạnh phúc bền lâu với Carđêniô và tôi cũng cầu trời cho tôi được sống sung sướng mãi mãi với nàng Đôrôtêa của tôi.

Nói xong, Đôn Phernanđô lại ôm chặt Đôrôtêa vào lòng, áp mặt mình vào mặt nàng, với một tình cảm rất đằm thắm, và chàng đã phải cố ngăn những giọt nước mắt đang muốn trào ra, những giọt nước mắt của tình yêu và của sự hối hận. Trái lại, Luxinđa và Carđêniô đã khóc, và hầu hết những người có mặt cũng khóc. Họ khóc vang nhà, người khóc vì hạnh phúc của mình, kẻ khóc vì hạnh phúc của người khác, tưởng đâu có một tai biến nghiêm trọng đã đến với tất cả vậy. Cả Xantrô Panxa cũng khóc, nhưng sau đó bác thanh minh là bác đã khóc vì thấy Đôrôtêa - con người sẽ ban cho bác nhiều ân huệ như bác vẫn hy vọng - không phải là nàng công chúa Micômicôna như bác đã tưởng. Phút xúc động và kinh ngạc đã qua, Carđêniô và Luxinđa đến quỳ trước mặt Đôn Phernanđô, cảm tạ chàng bằng những lời lẽ rất chân tình khiến Đôn Phernanđô không biết nói sao; chàng đỡ hai người lên ôm hôn với một vẻ vừa tình cảm, vừa tao nhã.

Sau đó, Đôn Phernanđô hỏi Đôrôtêa đã bằng cách nào tới một nơi xa xôi như vậy. Bằng những lời lẽ gọn gàng và văn vẻ, nàng thuật lại đầu đuôi câu chuyện như đã kể cho Carđêniô trước đây. Đôn Phernanđô và những người đi theo chàng lấy làm thích thú lắm, cứ muốn câu chuyện kéo dài ra mãi. Cho hay Đôrôtêa đã biết kể lại những nỗi bất hạnh của mình một cách có nghệ thuật. Tiếp đó, Đôn Phernanđô cũng thuật lại những sự việc đã xảy ra với chàng sau khi tìm thấy bức thư trên ngực Luxinđa trong đó nàng tự nhận là vợ của Carđêniô và không chịu làm vợ Đôn Phernanđô. "Khi ấy, tôi muốn giết cô ta, Đôn Phernanđô kể, và tôi sẽ làm việc đó nếu như cha mẹ nàng không cản tôi lại. Tôi sượng sùng bước ra khỏi nhà nàng, bụng bảo dạ quyết trả thù cho thật đích đáng. Ngày hôm sau, tôi nghe tin Luxinđa đã rời nhà cha mẹ, không ai biết đi đâu; mấy tháng sau, tôi được tin nàng đang sống trong một tu viện với ý định ở lại suốt đời nếu không được chung sống với Carđêniô. Biết được việc đó, tôi chọn ba hiệp sĩ cùng đi với tôi tới tu viện; tới nơi, tôi không báo cho nàng biết e rằng trong tu viện sẽ tăng cường việc canh phòng. Chờ mãi cho tới một hôm, cổng tu viện ngỏ, tôi bố trí hai người trong bọn đứng gác ngoài cửa, còn tôi và một người nữa vào tìm Luxinđa. Thấy nàng đang ngồi nói chuyện với một nữ tu sĩ trong phòng kín, chúng tôi bắt mang đi luôn không cho nàng kịp trở tay, rồi đưa đến một làng lân cận tại đó chúng tôi đã chuẩn bị đầy đủ để ra đi. Công việc được tiến hành trôi chảy vì tu viện ở giữa cánh đồng, xa làng xóm. Khi Luxinđa thấy đã sa vào tay tôi, nàng ngất đi; khi hồi tỉnh lại, nàng chỉ khóc và thở dài, không nói một câu nào. Và cứ như vậy, trong sự yên lặng chung và giữa những tiếng khóc than của Luxinđa, chúng tôi đi tới quán trọ này; đối với tôi, đó là con đường đi tới thượng giới ở đó mọi nỗi khổ đau trên trái đất đều tiêu tan".
 
Top