Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes

5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes

Chương V

NÓI VỀ CUỘC TRÒ CHUYỆN HAY HO LÝ THÚ GIỮA XANTRÔ PANXA VÀ VỢ BÁC LÀ TÊRÊXA PANXA CÙNG NHỮNG SỰ VIỆC KHÁC ĐÁNG GHI NHỚ



Khi làm tới chương năm này, dịch giả cho rằng cuốn sách có sự giả mạo vì thấy trong đó Xantrô Panxa có những lời lẽ không phù hợp với trí tuệ cằn cỗi của bác, nói những điều quá tinh tế mà ông nghĩ rằng bác không thể nào biết được. Tuy nhiên, làm đúng chức trách của mình, ông tiếp tục dịch như sau:

Xantrô trở về nhà, mặt mày hớn hở vui mừng, cách xa một tầm nỏ bác gái cũng nhận ra khiến bác không thể không hỏi chồng:

- Thầy Xantrô nó ơi, có điều gì mà thầy trở về vui vẻ thế?

Xantrô đáp:

- Bu nó ạ, nếu đó là ý Chúa, tôi vui lòng từ bỏ niềm vui này.

- Tôi chả hiểu thầy nó nói gi cả, và tôi cũng chả biết ý tứ thầy nó ra sao, mà lại bảo là vui lòng từ bỏ niềm vui nếu đó là ý Chúa. Đần độn như tôi đây cũng chả thấy ai muốn khổ vào thân bao giờ.

- Têrêxa hãy nghe tôi nói; tôi vui vì tôi đã quyết định trở lại hầu hạ ông chủ Đôn Kihôtê. Ông chủ muốn đi lần thứ ba tìm kiếm những chuyện phiêu lưu, và tôi sẽ đi cùng ông. Tôi ra đi vì cảnh nhà bấn bách và cũng vì nuôi một hy vọng; hy vọng làm tôi sung sướng khi nghĩ rằng có thể kiếm được một trăm đồng tiền vàng nữa như số tiền ta đã tiêu; tuy thế, tôi cũng thấy buồn vì phải xa bu nó và các con. Giá như Chúa cho tôi được sống êm ấm ở nhà, mưa không tới mặt, nắng chẳng tới đầu, đừng bắt tôi phải mang thân vào những nơi hang cùng ngõ hẻm - điều mà ngài có thể làm được dễ dàng, miễn là ngài muốn, - hiển nhiên là niềm vui sướng của tôi càng tăng thêm nhiều. Phải xa bu nó, tôi nửa buồn nửa vui. Vì thế nên tôi nói rằng tôi vui lòng từ bỏ vui sướng này nếu đó là ý Chúa.

- Này thầy nó ơi, nhưng từ ngày ra nhập hiệp sĩ giang hồ, thầy nó nói năng quanh co quá, chẳng ai hiểu nổi.

- Chúa hiểu cho tôi là đủ rồi, bu nó ạ; Người hiểu hết mọi chuyện. Nhưng thôi, xếp việc đó lại. Bây giờ, bu nó hãy chăm sóc con lừa trong ba ngày liền để nó có đủ sức xông pha trận mạc, hãy cho nó ăn gấp đôi và tìm cho tôi bộ yên cương cùng những phụ tùng khác vì thấy rằng thầy trò tôi không đi ăn cưới mà đi khắp hoàn cầu nói chuyện phải trái với những tên khổng lồ, những loài yêu quái, tai phải nghe những tiếng rít, tiếng gầm, tiếng rống, tiếng gào. Tuy nhiên, tất cả những cái đó đều không đáng kể nếu như không phải chạm trán với bọn lái la và những tên pháp sư Môrô.

- Thầy nó ạ, tôi nghĩ rằng làm giám mã giang hồ cũng phải sẩy vẩy mới kiếm được miếng ăn. Vì vậy, tôi cầu xin Đức Chúa trời phù hộ cho thầy nó sớm thoát khỏi cảnh này.

- Tôi nói cho bu nó biết là nếu tôi không nghĩ rằng chỉ nay mai sẽ trở thành thống đốc một hòn đảo, tôi sẽ chết ngay bây giờ.

- Thầy nó đừng nói như thế. Con gà có nhọt ở lưỡi mà vẫn sống. Dù cho quỷ tha đi hết những hòn đảo trên đời này, thầy nó vẫn sống được, không làm thống đốc, thầy nó vẫn từ trong bụng mẹ mà ra, không làm thống đốc, thầy nó vẫn sống cho tới ngày nay, và không làm thống đốc, thầy nó vẫn sẽ xuống hố hoặc sẽ bị người ta khiêng xuống hố khi nào trời bắt tội. Thiên hạ có khối người không làm thống đốc mà vẫn sống và vẫn được tính trong dân số. Loại nước chấm ngon nhất trên đời là cái đói, mà người nghèo thì không thiếu, cho nên họ ăn bao giờ cũng ngon miệng. Thế nhưng, thầy nó ạ, nếu may ra thầy nó trở thành thống đốc, chớ quên tôi và các con nhé. Phải nhớ rằng thằng Xanchicô nhà ta đã tròn mười lăm tôi đầu và đã đến lúc đi học nếu như chú nó là tu viện trưởng muốn nó gia nhập giáo hội. Lại còn con gái chúng ta là Mari Xanta nữa. Phải lo cho nó sống được một khi gả chồng cho nó. Tôi ngờ ngợ là nó muốn lấy chồng cũng như thầy nó muốn làm thống đốc vậy. Thôi thì con gái có chồng, dù xấu tốt, còn hơn đi theo trai.

- Bu nó ạ, nếu Chúa cho tôi một chức gì, như thống đốc chẳng hạn,chắc chắn tôi sẽ gả con Mari Xanta vào nơi quyền quý cao sang, cao tới mức người ta phải thưa nó là lệnh bà.

- Chớ, chớ, thầy nó ạ. Tốt nhất là phải tìm nơi bằng vai phải lứa mà gả chồng cho nó; còn như bắt nó bỏ guốc xỏ chân vào giày, bỏ váy ngắn bằng dạ nâu để mặc váy lồng dài thườn thượt bằng tơ lụa, không gọi tên nó trống không là Marica mà phải thưa phu nhân này, bà lớn nọ, con bé sẽ chẳng theo nổi đâu, và mỗi bước đi nó sẽ vấp, để lộ hết chân tẩy ra thôi.

- Mụ lẩm cẩm im mồm đi. Chỉ hai ba năm sau, nó sẽ ra dáng một mệnh phụ đài các ngay. Bằng không cũng chẳng hề gì. Nó cứ làm bà lớn đi, rồi muốn ra sao thì ra.

- Thầy nó phải biết thân biết phận mình, đừng với tay quá cao. Phải nhớ câu phương ngôn: "Hãy chùi mũi con ông hàng xóm và coi nó như con cái trong nhà" [SUP]1[/SUP]. Gả con Mari nhà ta cho ông bá tước hay ông quý tộc để rồi bị họ nhiếc móc, xỉ vả là con nhà hạ lưu, bố cu mẹ đĩ thì thật đẹp mặt! Thôi, tôi chả nghe thầy nó đâu. Tôi nuôi con gái tôi khôn lớn không phải để cho người ta mắng chửi nó. Trong làng có thằng Lôpê Tôchô, con ông Huan Tôchô; trông nó rắn rỏi, khỏe mạnh, lại là chỗ quen biết cả. Tôi thấy cu cậu để mắt tới con bé nhà ta đấy. Chỗ bằng vai phải lứa, con Mari lấy nó thật đẹp đôi và vợ chồng ta cũng được gần nó. Thế là cả nhà, cha mẹ, con cháu, dâu rể đoàn tụ, bình an dưới sự che chở của Chúa. Chớ cho nó vào làm dâu những nơi lầu hồng gác tía làm gì kẻo rồi người ta chẳng hiểu nó và bản thân nó cũng chẳng hiểu mình ra sao nữa.

- Mụ vợ ngu xuẩn kia, tại sao mụ cứ định ngăn cấm ta kiếm cho con gái một tấm chồng danh giá để rồi mai sau những đứa cháu ta được gọi là Đức ông. Têrêxa, nghe ta bảo đây: ta vẫn thấy các cụ ta nói rằng kẻ nào gặp may mắn mà không biết hưởng thì không được phàn nàn một khi điều may qua đi mất. Lúc này, vận may gõ cửa nhà ta, nếu đóng lại là ngu. Gió lành đang thổi, hãy để gió đưa bay bổng lên cao.

Ở đoạn trên của như dưới đây, Xantrô nói năng khôn ngoan như vậy cho nên dịch giả cuốn sách nghĩ rằng chương này ắt là giả mạo.

Xantrô nói tiếp:

- Con mụ đần độn kia, nếu ta được cai trị một vùng nào bở ăn, khiến ra thoát khỏi cảnh chân lấm tay bùn này, như vậy không tốt hay sao? Rồi ta sẽ tha hồ kén chồng cho con Mari Xanta, và mụ sẽ được người ta gọi là Đônha Têrêxa Panxa, vào nhà thờ ngồi trên thảm đệm len, mặc cho những mụ quý tộc khác trong vùng lườm nguýt. Không tốt à. Nếu thế thì cuộc đời mụ cũng sẽ chỉ như bây giờ, không tăng không giảm, giống hệt một bức hình trên thảm mà thôi. Nhưng không bàn cãi nữa, dù mụ muốn nói gi, con Xanchica cũng phải trở thành bá tước phu nhân.

- Thầy nó nói năng phải nghĩ chứ. Tôi e rằng chức bá tước phu nhân sẽ mang lại tai họa cho con gái tôi. Thầy nó muốn làm gì thì tùy, muốn nó trở thành công nương hay công chúa, tôi cũng mặc. Tôi chỉ xin nói rằng tôi không muốn và không tán thành việc đó. Thầy nó ạ, tôi luôn luôn muốn có bình đẳng, không thích lên mặt rởm. Tên rửa tội của tôi là Têrêxa, không hơn cũng không kém, không tô điểm thêm bằng chữ đôn hay đônha. Bố nhà tôi tên là Caxcahô, đúng lý ra, phải gọi tên tôi là Têrêxa Caxcahô, nhưng vì tôi làm bạn với thầy nó nên người ta gọi tôi là Têrêxa Panxa. Phép tắc nhà vua như vậy, không theo cũng chẳng được. Tôi vui lòng mang tên đó, chẳng cần thêm chữ đôn lên đầu làm gì cho nặng mình, mang chả nổi. Tôi cũng chả muốn để cho thiên hạ nói mỗi khi thấy tôi ăn mặc theo kiểu các bà bá tước hay thống đốc: "Trông con mẹ xề ra vẻ chưa! Mới hôm qua, chị ả còn gò lưng ra kéo sợi đay, đi lễ nhà thờ còn phải lấy gấu váy che đầu vì không có khăn vuông, ấy thế mà bây giờ cũng váy lồng, cũng trâm cài đầu, mặt vênh vác lên. Tưởng người ta không biết đấy hẳn?". Nếu Chúa muốn cho tôi có đủ cả thất quan hay ngũ quan, hoặc còn đủ những giác quan mà tôi có, tôi sẽ không để cho thiên hạ dè bỉu tôi như thế. Thầy nó cứ việc đi làm thống đốc mà lên mặt với tôi. Có linh hồn mẹ tôi chứng giám, tôi và con gái tôi sẽ không rời một bước khỏi làng này đâu. Đàn bà cấm cung đàn bà đứng đắn, con gái hay làm con gái nết na. Thôi, thầy nó đi mà tìm kiếm những chuyện phiêu lưu cùng với ông chủ Đôn Kihôtê, mặc cho mẹ con tôi ở nhà rau cháo lần hồi. Ơn nhờ Chúa, mẹ con tôi ở hiền gặp lành. Mà tôi cũng chả biết ai đã gọi ông chủ thầy nó là Đôn vì cha ông nhà ông ta có chức phận gì đâu.

Xantrô đối đáp lại:

- Ta nói cho mà biết, mụ có phúc lắm đấy. Lạy Chúa, mụ kể lể dây cà dây muống, chẳng có đầu xuôi đuôi ngược gì cả. Thử hỏi ông Caxcahô, những cái trâm cài đầu, những câu phương ngôn và thái độ hợm hĩnh có liên quan gì tới những điều ta nói? Lại đây, con mụ đần độn, dốt nát kia (ta phải gọi mụ như vậy vì mụ không hiểu điều ta nói và lại chẳng muốn sung sướng). Nếu ta bảo mụ rằng con gái ta gieo mình từ trên tháp cao xuống, hoặc giả nó giao du bừa bãi như mụ Uruca lẳng lơ thì mụ không theo ta là đúng. Nhưng nếu trong khoảnh khắc ta áp lên lưng nó chức đôn và chức lãnh chúa, ta lôi nó ra khỏi đống rơm và đặt nó vào chốn cao sang, trên một cái bệ trải toàn đệm nhung, tại sao mụ không tán thành và không làm theo ý muốn của ta?

- Thầy nó có biết tại sao không? Tại vì phương ngôn có câu: Y phục phải xứng người, không có tài đức mà đòi ăn mặc đẹp chỉ tổ lòi cái đuôi ra. Thiên hạ không nhìn kẻ nghèo mà chỉ để ý tới nhà giàu; nếu người giàu có một mai trở nên nghèo khổ, những kẻ xấu mồm sẽ không ngớt xì xào, dị nghị, mà những kẻ xấu mồm thì có cả đống, như đàn ong vậy.

- Mụ Têrêxa kia, hãy lắng nghe ta nói vì có lẽ cả đời mụ chưa được nghe những lời như vậy bao giờ. Những lời ta sắp nói ra đây không phải là của ta mà là của cha truyền đạo trong tuần chay vừa qua tại làng ta. Nếu ta nhớ không nhầm, cha đã nói rằng tất cả sự vật hiện tại mà ta đang nhìn thấy, in vào trí nhớ của ta một cách sâu sắc hơn những sự vật đã qua.

Một lần nữa, lời nói trên đây của Xantrô khiến người dịch chương này là giả vì nó vượt quá sức của bác.

Xantrô nói tiếp:

- Vì vậy, khi ta nhìn thấy một người nào đó ăn mặc sang trọng đẹp đẽ, có kẻ hầu người hạ. ta cảm thấy người đó buộc ta phải kính trọng, và mặc dù trí nhớ của ta nhắc ta rằng người đó có một quá khứ không hay - hoặc là gia cảnh nghèo hèn, hoặc là gốc gác xấu xa, - ta cũng chẳng hề quan tâm vì đó là chuyện cũ. Điều mà ta quan tâm là sự việc đang diễn ra trước mắt. Và nếu một người gặp may mắn, từ chốn bùn lầy nước đọng (đây là lời của cha truyền giáo) đạt tới đỉnh cao của phú quý, lại tỏ ra niềm nở, hào phóng, lịch thiệp với mọi người, không kèn cựa với các nhà quý tộc dòng dõi, mụ có thể tin rằng không một ai nhớ tới chuyện cũ của người đó nữa; trái lại, thiên hạ sẽ nhìn vào hiện tại mà kính trọng, trừ những kẻ ghen ghét, quen thói rèm pha bất cứ một sự phú quý nào.

- Tôi chả hiểu thầy nó nói gì cả. Thầy nó muốn làm gì thì tùy, nhưng đừng mang những bài diễn thuyết hùng hồn ra bổ đầu tôi nữa. Và nếu thầy nó kiết tâm làm những điều đã nói...

- Quyết tâm chứ không phải kiết tâm, Xantrô bẻ.

- Thầy nó đừng cãi với tôi, Têrêxa đáp lại. Tôi nói Chúa nghe cũng thuận tai, chẳng như thầy nó đâu. Thôi, nếu thầy nó vẫn cứ khăng khăng muốn làm thống đốc thì hãy cho thằng con của thầy đi theo để mà dạy nó cách cai trị. Con trai phải theo và học nghề của bố.

- Khi nào tôi làm thống đốc, tôi sẽ nhờ bưu vụ đưa nó đến chỗ tôi và tôi sẽ gửi tiền về cho bu nó. Tôi sẽ không thiếu tiền, vì một khi thống đốc không có tiền, sẽ không thiếu kẻ cho vay. Bu nó sẽ lo may mặc cho con, sao cho che đậy được cái gốc tích của nó và làm cho nó ra dáng con một vị thống đốc.

- Cứ gửi tiền về, tôi sẽ may cho nó vô số quần áo.

- Thế ta thỏa thuận với nhau là con gái chúng ta sẽ trở thành bá tước phu nhân nhé.

- Khi nào tôi thấy nó làm bá tước phu nhân, tôi sẽ đưa nó đi chôn, Têrêxa đáp. Nhưng thôi, tôi nhắc lại là tùy thầy nó muốn làm gì cũng được; đàn bà chúng tôi sinh ra để nghe lời chồng, dù chồng mình ngu đần.

Nói rồi bác khóc hu hu như thể đã nhìn thấy con gái mình chết và bị đưa đi chôn vậy. Xantrô lựa lời khuyên giải vợ, nói rằng bác sẽ cố gắng thu xếp cho con Xanchica trở thành nữ bá tước trong thời gian chậm nhất.

Tới đây kết thúc cuộc trò chuyện. Xantrô trở lại gặp Đôn Kihôtê và chuẩn bị cuộc xuất hành.


--------------------------------
1. Có nghĩa là: Cha mẹ một khi dựng vợ gả chồng cho con cái phải chọn những đám mình biết rõ.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes


Chương VI


NÓI VỀ NHỮNG CHUYỆN XẢY RA GIỮA ĐÔN KIHÔTÊ VỚI CÔ CHÁU GÁI BÀ QUẢN GIA, MỘT TRONG NHỮNG CHƯƠNG QUAN TRỌNG NHẤT CỦA TOÀN BỘ PHO SÁCH


Trong lúc diễn ra cuộc đàm thoại tức cười giữa Xantrô Panxa và vợ bác là Têrêxa Caxcahô như kể trên, cô cháu gái và bà quản gia của Đôn Kihôtê có nhiều việc phải làm. Quá nhiều dấu hiệu, hai người đoán là cậu và chủ họ muốn trốn ra khỏi nhà lần thứ ba và trở lại nghề hiệp sĩ giang hồ mà họ nguyền rủa. Họ cố gắng tìm mọi cách để cho chàng từ bỏ ý nghĩ xấu xa đó, song chỉ như truyền giáo trên bãi sa mạc, quai búa vào sắt nguội mà thôi. Trong lúc chuyện trò với chủ, bà quản gia có nói một câu như sau:

- Thưa ông chủ, nếu quả thật ngài không chịu ngồi yên ở nhà và không từ bỏ ý định lang thang khắp núi đồi để tìm kiếm những chuyện phiêu lưu mà tôi gọi là những chuyện oan trái, tôi sẽ phải kêu gào Chúa và Đức Vua tìm phương cứu chữa cho.

Đôn Kihôtê đáp lại:

- Bà quản gia, trước những lời kêu gào của bà, ta không biết Chúa sẽ trả lời ra sao và ta cũng chẳng hay nhà vua sẽ trả lời ra sao; ta chỉ biết nếu ta là vua, ta sẽ không trả lời cả đống những yêu cầu phi lý nhận được hàng ngày. Một ông vua có nhiều công việc, và một trong những việc chính là phải nghe mọi người và trả lời họ. Vì vậy, ta không muốn làm bận lòng nhà vua bằng những chuyện riêng của ta.

- Xin ngài cho biết trong triều có hiệp sĩ không ạ? Bà quản gia hỏi.

- Có chứ, Đôn Kihôtê đáp, có nhiều chứ. Cần phải có để làm tôn uy quyền và phô trương thanh thế của các vua chúa.

- Vậy sao ngài không làm một chân hiệp sĩ hầu hạ nhà vua trong triều?

- Bà nên biết rằng không phải tất cả các hiệp sĩ đều có thể là triều thần, Đôn Kihôtê đáp, và không phải tất cả các triều thần đều có hoặc phải là hiệp sĩ giang hồ. Trên đời này có đủ loại. Và mặc dù tất cả chúng tôi là hiệp sĩ, có sự khác biệt giữa những hiệp sĩ này và những hiệp sĩ kia. Các triều thần không rời khỏi nhà họ hoặc không bước ra khỏi ngưỡng cửa cung đình; họ ngao du khắp thiên hạ trên một tấm bản đồ, không mất một đồng xu nhỏ, không phải chịu nóng lạnh, đói khát; còn những hiệp sĩ giang hồ thực thụ như chúng tôi phải đi đo trái đất bằng đôi chân của mình, chịu nóng, chịu rét, dầm mưa dãi nắng, chịu mọi sự khắc nghiệt của thiên nhiên, đêm cũng như ngày; không phải chúng tôi có những kẻ thù tưởng tượng mà là bằng xương bằng thịt, và trước mọi gian nguy, trong mọi trường hợp, chúng tôi xông lên tấn công chúng không cần để ý đến những chuyện vụn vặt hoặc những luật lệ đấu võ như ngọn giáo hoặc lưỡi gươm của địch thủ có quá ngắn hay không, kẻ địch có giấu trong người bùa phép gì không, chọn khoảng đất nào cho khỏi bị mặt trời chiếu vào mặt, cùng bao nhiêu thủ tục tương tự khác mà chỉ có ta biết, còn bà thì chẳng hay. Bà cần biết thêm rằng một hiệp sĩ giang hồ giỏi giang không hề run sợ dù đứng trước mười tên khổng lồ cao đến nỗi đầu chúng không những chạm mà còn vượt trên các đám mây, chân mỗi đứa là hai tòa tháp lớn, tay là những cột buồm to và chắc, mắt như phiến đá cối xay và đỏ rực như lò nung thủy tinh. Trái lại, với một thái độ bình tĩnh và một trái tim dũng cảm, người hiệp sĩ xông lên tấn công chúng và nếu có thể, đánh cho chúng thất điên bát đảo trong chớp mắt, mặc dù người ta đồn rằng vũ khí của chúng là những cái vỏ của một loài ốc rắn chắc như kim cương, là những thanh đao bằng thép hoa hoặc những quả chùy sắt đầu bọc thép mà người ta thường nhìn thấy. Bà quản gia này, ta nói vậy để bà thấy được sự khác biệt giữa hai loại hiệp sĩ, và đúng là không có vua chúa nào không quý trọng các hiệp sĩ giang hồ, loại người đáng quý trọng nhất vì, như chúng ta đã đọc sách về họ, có hiệp sĩ đã cứu không những một mà nhiều vương quốc.

- Ôi, cậu ơi! Cô cháu gái kêu lên. Xin cậu hãy nhớ rằng tất cả những điều cậu vừa nói về các hiệp sĩ giang hồ đều là hoang đường dối giả, và những cuốn sách kiếm hiệp, nếu không bị đốt, đáng phải khoác áo xambênitô [SUP]1[/SUP] hoặc mang một dấu hiệu gì chứng tỏ đó là một vật xấu xa, có hại đến thuần phong mỹ tục.

- Có chúa chứng giám, Đôn Kihôtê kêu lên, nếu mày không phải là cháu ruột ta và con gái của chị ruột ta, ta sẽ trừng trị thích đáng những lời mày vừa nói ra, khiến cho bàn dân thiên hạ đều biết tới. Một con bé chưa biết sử dụng thành thạo mười hai cái trục dệt đăng ten mà dám mở mồm phê phán sách viết về hiệp sĩ giang hồ ư? Ngài Amađix sẽ nói ra sao khi nghe những lời như vậy? Nhưng thôi, chắc chắn chàng sẽ tha thứ cho vì thuở sinh thời, chàng là một hiệp sĩ khiêm nhường và phong nhã nhất, lại hay che chở các cô tiểu thư. Nhưng có thể có các hiệp sĩ khác nghe thấy và điều đấy bất lợi cho mày đấy. Không phải tất cả các hiệp sĩ đều lịch thiệp và có giáo dục và cũng có những kẻ bất nhã và thô bạo. Và cũng không phải cứ mang danh hiệp sĩ là vẹn toàn đâu; có những hiệp sĩ chân chất, có những hiệp sĩ giả; mặc dù tất cả họ đều là hiệp sĩ nhưng không phải tất cả đã chịu sự thử thách của thực tế. Có những người địa vị thấp hèn cố ngoi lên để trở thành hiệp sĩ, cũng có những hiệp sĩ cao sang cố tình làm cho mình trở nên thấp hèn, một đằng tự nâng mình lên bằng lòng ham muốn hoặc bằng phẩm hạnh, một đằng tự hạ mình xuống do mềm yếu hoặc do thói hư tật xấu. Cần phải vận dụng sự hiểu biết tinh tế của mình để phân biệt hai loại hiệp sĩ này, tuy giống nhau về danh nghĩa những rất khác nhau về hành động.

- Lạy Chúa, cô cháu gái nói. Cậu biết rất rộng và nếu cần, chắc chắn cậu có thể bước lên bục hoặc ra giữa phố để truyền giáo. Tuy nhiên, cậu rơi vào một sự mù quáng quá lớn và một sự điên rồ quá hiển nhiên khiến cậu tự cho là dũng cảm mặc dù đã già, là có sức mặc dù đã yếu, là có thể uốn nắn những sai trái mặc dù tuổi đã cao, và nhất là cậu tự cho mình là hiệp sĩ mặc dù không phải như vậy, bởi vì nếu các nhà quý tộc có thể trở thành hiệp sĩ, quy luật đó không áp dụng đối với những người quý tộc nghèo.

- Cháu nói đúng lắm, Đôn Kihôtê đáp, và ta có thể dẫn ra đây những chuyện về dòng giống khiến cháu phải ngạc nhiên; song, ta không nói để khỏi lẫn lộn giữa thần và nhân. Hai bạn hãy chú ý nghe ta nói đây: có thể thâu tóm tất cả các dòng họ trên đời này và chia thành bốn loại: loại thứ nhất gồm các dòng họ từ thấp hèn đã phát triển dần lên, cuối cùng đạt tới địa vị cao sang; loại thứ hai gồm những dòng họ vốn dĩ quyền quý và giữ vững được địa vị đó như lúc ban đầu; loại thứ ba là những dòng họ ra đời bằng sự cao sang những kết thúc theo hình chóp, giống như kim tự tháp (loại này tự teo dần tới mức hầu như chẳng còn gì, giống như chân với đỉnh kim tự tháp vậy); loại thứ tư chiếm số đông, gồm những dòng họ có gốc gác bình thường, không phát triển, cũng không có tiếng tăm gì, là những dòng họ bình dân hoặc thường dân. Nói về dòng họ thứ nhất, từ chỗ thấp hèn leo đến địa vị cao sang ngày nay, ta có thể đơn cử dòng họ Thổ Nhĩ Kỳ, từ một kẻ chăn cừu thấp hèn đạt tới đỉnh cao như ngày nay ta đã chứng kiến. Về loại thứ hai gồm những dòng họ vốn dĩ quyền quý và giữ nguyên trạng địa vị đó, có thể kể ra đây ví dụ của rất nhiều người được thừa hưởng ngôi vua chúa và tiếp tục giữ vững địa vị đó, không tăng cũng không giảm, sống yên ổn trong lãnh thổ của mình. Về những dòng họ ra đời trong sự cao sang và kết thúc theo hình chóp có hàng ngàn ví dụ: dòng họ Pharaôn và Tôlômêô ở Ai Cập; dòng họ Xêdar ở Rôma cũng cả đống (nếu ta có thể dùng được từ này), vua chúa ở Mêđi, Axiri, Ba Tư, Hy Lạp, Barbari, tất thảy các dòng họ quyền quý đó đều kết thúc theo hình chóp tới mức bản thân họ cũng như ông cha họ hầu như không còn để lại dấu vết gì, ngày nay ta không tìm đâu được một người trong số con cháu của họ hoặc giả nếu có thì chỉ giữ một địa vị thấp hèn trong xã hội. Về những dòng họ bình dân, ta muốn nói rằng họ chỉ góp phần làm gia tăng dân số, ngoài ra không có danh vọng gì và cũng không có gì đẻ ca ngợi. Các con ngốc nghếch của ta ơi, từ những điều ta vừa nói, ta muốn các con rút ra kết luận là rất dễ có sự lẫn lộn giữa các dòng họ, vì chỉ có dòng họ nào đức độ, giàu sang và rộng rãi mới được coi là quyền quý, danh giá. Ta nói tới đức độ, giàu sang và rộng rãi vì nhà quyền quý mà xấu sẽ trở thành một nhà quyền quý xấu; người giàu không thảo sẽ trở thành một kẻ ăn mày keo kiệt; người có tiền cứ giữ khư khư thì không sung sướng gì, phải tiêu và biết tiêu, không tiêu bừa bãi. Người hiệp sĩ nghèo chỉ có một cách để tỏ ra mình là hiệp sĩ, đó là tỏ ra đức độ, nhã nhặn, nền nếp, lịch thiệp, lễ phép, ân cần, không kiêu căng, không ngạo mạn, không gièm pha, nhất là có lòng từ thiện vì một người sẵn lòng cho kẻ nghèo hai xu cũng rộng rãi không kém một kẻ vừa bố thí vừa khua chiêng gõ trống. Một người có đức tính như vậy thì dù không quen biết, ai cũng phải công nhận là người đó xuất thân quý tộc, và thật kỳ lạ nếu không phải như thế. Xưa nay, những lời khen ngợi vẫn là phần thưởng cho đạo đức, và có những con người có đức không thể không được ca ngợi. Các con ạ, có hai con đường để người ta trở nên giàu có và nổi tiếng: một là con đường văn chương, hai là con đường võ bị. Ta giỏi võ hơn văn; ta thiên về nghề võ vì sinh ra có sao Martê [SUP]2[/SUP] chiếu mạng. Vì vậy ta bắt buộc phải đi theo con đường đó, dù ai nói ngả nói nghiêng. Các con sẽ phí công vô ích nếu muốn thuyết phục ta từ bỏ một việc làm mà trời muốn, số phận ra lệnh, lẽ phải yêu cầu, hơn thế nữa, đó là ý của ta. Vì ta biết những công việc của hiệp sĩ giang hồ nên ta nhìn thấy những sự tích vô biên mà nghề đó mang lại. Ta cũng biết rằng, con đường đi tới đạo đức rất hẹp, còn con đường đi tới thói hư tật xấu thì rộng thênh thang. Hai con đường dẫn tới hai mục đích khác hẳn nhau. Con đường quang quẻ của thói hư tật xấu dẫn tới chỗ chết, còn con đường khổ ai của đạo đức dẫn tới sự sống, một sự sống không bao giờ kết thúc, vô tận. Và, như một nhà thơ lớn của Tây Ban Nha chúng ta đã nói:
Bằng những con đường gập ghềnh
Ta lần tới đỉnh cao của bất diệt
Không ngả nghiêng, không nao núng...

- Rõ khổ tôi chưa, ông cậu tôi còn là thi sĩ nữa ư? Cô cháu gái kêu lên. Việc gì ngài cũng biết, việc gì ngài cũng làm được. Tôi đánh cuộc là nếu ngài muốn làm thợ nề, ngài có thể xây nhà dễ dàng như xây chuồng chim vậy.

Đôn Kihôtê đáp:

- Ta cam đoan với cháu gái ta rằng nếu những ý nghĩ hào hiệp đó không thu hút hết tâm trí ta, chắc chắn không có việc gì ta không làm được, không có vật quý gì tay ta không tạo ra, đặc biệt là chuồng chim và tăm xỉa răng.

Lúc này có người gọi ngoài cổng. Trong nhà hỏi ai thì thấy tiếng Xantrô Panxa đáp: "Tôi đây". Vừa nhận ra Xantrô Panxa, bà quản gia vội lánh đi nơi khác vì bà ghét cay ghét đắng, không muốn nhìn mặt. Cô cháu gái mở cổng. Đôn Kihôtê tay bắt mặt mừng ra đón Xantrô và đưa vào phòng riêng, tại đó diễn ra một cuộc trao đổi khác lý thú không kém cuộc trao đổi vừa qua.


--------------------------------
1. Áo của những tội nhân bị Tòa thẩm tra tôn giáo kết án.
2. Martê là thần Chiến tranh.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes

Chương VII

NÓI VỀ CUỘC TRAO ĐỔI CỦA ĐÔN KIHÔTÊ VỚI GIÁM MÃ CỦA CHÀNG, CŨNG NHƯ NHỮNG SỰ VIỆC HAY HO KHÁC


Thấy Xantrô Panxa và ông chủ kéo nhau vào phòng riêng, bà quản gia biết ngay họ bàn bạc với nhau chuyện gì. Bà đoán là qua cuộc trao đổi này, họ sẽ quyết định cuộc xuất hành lần thứ ba. Trong lòng buồn rầu, bà mặc áo đi tìm cậu Tú Xanxôn Caraxcô, nghĩ rằng cậu có tài ăn nói, lại mới kết bạn với Đôn Kihôtê, chắc có thể thuyết phục chủ mình từ bỏ ý định điên rồ đó được. Đến nơi, thấy cậu dạo mát trong sân nhà, bà bèn phủ phục dưới chân, thở hổn hển, nét mặt ủ rũ. Thấy bà có vẻ rầu rĩ, hốt hoảng, Caraxcô cất tiếng hỏi:

- Sao thế, bà quản gia? Có chuyện gì mà trông bà như người mất hồn vậy?

- Thưa ngài Xanxôn, không có chuyện gì cả. Chẳng là ông chủ tôi đi... chắc chắn ông ta đi.

- Thế ông ta đi bằng đường nào? Trong người ông ta có bộ phận nào bị dập gãy không? Xanxôn hỏi.

- Thưa không, bà quản gia đáp. Ông ta đi bằng con đường của sự điên rồ. Thưa ông Tú kính mến, tôi muốn nói ra là ông định ra đi một lần nữa, tức lần thứ ba, đi khắp thiên hạ để tìm kiếm cái mà ông ta gọi là những chuyện phiêu lưu mạo hiểm. Tôi cũng chẳng hiểu ông ta gọi thế nghĩa là gì. Lần thứ nhất, ông ta trở về nhà nằm vắt ngang lưng một con lừa, mình mẩy giập nát vì những trận đòn. Lần thứ hai, ông ta trở về trên một chiếc xe bò, bị nhốt trong một cái cũi mà vẫn tưởng mình bị phù phép. Trông ông ta thiểu não đến nỗi mẹ để ông ta chắc cũng chả nhận ra: người gày đét, da vàng ệch, mắt sâu hoắm. Tôi lại phải bỏ ra hơn sáu trăm quả trứng để tẩm bổ cho ông ta lại sức. Chúa và mọi người đều biết; cả đàn gà của tôi cũng biết, chúng không cho phép tôi nói dối đâu.

- Tôi tin như vậy, cậu Tú nói: những con gà của bà rất hay, rất béo và rất ngon, có phải chết chúng cũng không nói sai đâu. Nhưng bà quản gia này, còn việc gì nữa không? Ngoài điều lo lắng của bà về ngài Đôn Kihôtê, có chuyện gì chẳng lành nữa không?

- Thưa ngài, không ạ, bà quản gia đáp.

- Nếu vậy, bà chớ lo phiền làm chi, cậu Tú nói. Hãy vui vẻ trở về nhà chuẩn bị cho tôi một bữa ăn nóng sốt. Trong khi đi đường, bà hãy đọc kinh Xanta Apôlônia, nếu bà thuộc. Tôi sẽ đến ngay và bà sẽ được nhìn thấy những điều kỳ lạ.

- Rõ khổ tôi chưa! Bà quản gia kêu lên. Ngài bảo tôi đọc bài kinh Xanta Apôlônia ư? Nếu ông chủ tôi đau răng mới đọc bài đó chứ, đằng này ông ta lại đau đầu kia.

- Bà quản gia ạ, chẳng lẽ tôi lại không biết tôi nói gì sao! Thôi, bà cứ về đi, đừng tranh cãi với tôi làm gì vì bà đã biết rằng tôi đỗ tú tài ở Xalamanca tức là nhất về khoa ăn nói đấy.

Thế là bà quản gia trở về nhà còn cậu Tú đi tìm ngay Cha xứ để bàn bạc những việc sau này sẽ có dịp nhắc lại.

Sách kể một cách chính xác và trung thực rằng trong khi Đôn Kihôtê và Xantrô tại buồng riêng, họ đã bàn với nhau như sau:

- Thưa ngài, Xantrô nói với chủ, tôi đã làm cho vợ tôi phải lồng ý để tôi đi với ngài đến nơi nào ngài muốn đưa tôi tới.

- Xantrô phải nói đồng ý mới đúng, lồng ý là sai, Đôn Kihôtê bảo.

- Nếu tôi nhớ không nhầm, Xantrô đáp, có một đôi lần tôi đã xin ngài đừng bắt bẻ tôi về chữ nghĩa một khi ngài hiểu được điều tôi muốn nói, còn nếu ngài không hiểu thì cứ bảo tôi: "Xantrô hoặc thằng quỷ kia, ta không hiểu mi nói gì cả", nếu khi tôi vẫn không giải thích được rõ hơn, thì khi ấy ngài hãy bắt bẻ. Tôi là một con người rất phù thiện...

- Xantrô, ta không hiểu phù thiện nghĩa là gì cả, anh định nói thế nào? Đôn Kihôtê hỏi.

- Phù thiện nghĩa là phù thiện ấy mà, Xantrô đáp.

- Ta lại càng không hiểu, Đôn Kihôtê nói.

- Nếu ngài không hiểu thì tôi cũng chịu, chỉ biết nói thế thôi, có Chúa biết cho tôi, Xantrô đáp.

- À, ta hiểu rồi, Đôn Kihôtê nói, anh muốn nói anh là một người rất phục thiện, nhu mì, ngoan ngoãn, bảo sao nghe vậy, bảo gì làm nấy.

- Tôi đánh cuộc là ngay từ đầu ngài đã hiểu tôi định nói gì, nhưng ngài muốn làm cho tôi sốt ruột để thốt ra hai trăm câu ngớ ngẩn.

- Có thể như vậy, Đôn Kihôtê nói. Nhưng thôi, Têrêxa bảo sao?

- Têrêxa bảo tôi làm việc gì phải suy tính kỹ càng đừng nói thừa, không làm hai việc khác nhau cùng một lúc, làm việc gì phải ăn chắc. Lời khuyên của đàn bà thường ngắn ngủi, xong kẻ nào không nghe là dại.

- Ta cũng nghĩ vậy, Đôn Kihôtê bảo. Anh bạn Xantrô hãy tiếp tục. Sao ngày hôm nay, anh nói năng khôn ngoan thế.

- Thưa ngài, ngài biết rõ hơn tôi, tất cả chúng ta đều phải chết, nay ở, mai đi, già cũng chóng chết mà trẻ cũng chóng chết, không ai trên đời này có thể tự cho phép mình sống một khi Chúa đã định, cái chết không nghe ai cả, và khi nó tới gõ cửa cuộc sống của chúng ta, bao giờ nó cũng vội vàng. Theo lời đồn của công chúng của như những lời giảng của các vị giáo sư, những lời van xin, quyền lực, vua chúa hay tất cả các giáo chủ đều không ngăn nổi.

- Tất cả những điều anh nói đều đúng, Đôn Kihôtê đáp, song ta không hiểu anh định đi tới đâu.

- Đi tới điều sau đây, xin ngài nói rõ khoản tiền công hàng tháng ngài sẽ trả cho tôi trong thời gian hầu hạ ngài là cố định, rằng số tiền đó sẽ được trích vào tài sản của ngài. Tôi không muốn nhận được tiền thưởng vì có khi chậm, có khi ít, có khi chẳng bao giờ được. Với số tiền công hàng tháng, tôi sẽ liệu tiêu cho đủ. Tóm lại, tôi muốn biết số tiền kiếm được là bao nhiêu, dù ít hay nhiều, ở đời, có bột mới gột nên hồ, tích tiểu thành đại, được đồng nào hay đồng ấy, không mất đi đâu cả. Quả thật, nếu ngài ban cho tôi hòn đảo mà ngài đã hứa (điều mà tôi không tin tưởng gì), tôi sẽ không quên ơn và vui lòng để cho người ta tính số tiền lời hàng năm của hòn đảo đó và khấu hao vào tiền công của tôi theo tỷ lệ.

- Ta hiểu rồi, Đôn Kihôtê đáp, ta đi guốc vào óc anh rồi đấy. Anh sử dụng những câu phương ngôn tục ngữ như những mũi tên để bắn vào đích vậy. Xantrô, hãy nghe đây, ta vui lòng quy định công xá cho anh nếu như anh tìm được trong các sách kiếm hiệp và chỉ cho ta một ví dụ nào hé ra rằng các giám mã hàng tháng hoặc hàng năm nhận được một khoản tiền công cố định. Riêng ta đã đọc hết hoặc gần hết các cuốn sách kiếm hiệp, song ta không hề nhận thấy có hiệp sĩ giang hồ nào quy định rõ công xá cho giám mã của mình cả. Ta chỉ biết tất cả các giám mã đều được khen thưởng vì công hầu hạ của họ. Việc này thường đến bất kỳ. Khi chủ họ gặp vận thì tất nhiên họ được ban cho một hòn đảo hoặc một món quà tương tự, xoàng xoàng ra cũng là một chức quyền quý. Xantrô, nếu anh vui lòng hầu hạ ta vì hy vọng về những món thưởng đó thì tốt lắm, còn nếu như nghĩ rằng ta phải phá bỏ luật lệ của hiệp sĩ đạo thì là điều không thể xảy ra được. Bởi vậy, anh bạn Xantrô của ta hãy quay về nhà và nói rõ ý kiến của ta với Têrêxa. Nếu vợ anh và anh vui lòng nhận điều kiện đó thì được; nếu không chúng ta chỉ là bạn như trước thôi. Chuồng chim bồ câu sẵn mồi thì sẽ có nhiều chim. Con ơi, con phải biết rằng thà sống trong hy vọng còn hơn sống trong bần hàn, thả con săn sắt bắt con cá sộp. Xantrô, ta nói năng kiểu cách này để anh thấy rằng ta cũng có thể tuôn ra hàng tràng những câu phương ngôn tục ngữ như anh. Cuối cùng, ta muốn nói với anh rằng, nếu anh không muốn đi theo ta với điều kiện đó và đi tìm vận may như ta, cầu Chúa phụ hộ cho anh và hóa anh thành Thánh. Ta không thiếu những giám mã dễ bảo hơn và sốt sắng hơn, lại không vụng về và ba hoa như anh đâu.

Trước những lời lẽ cứng rắn của chủ, Xantrô thấy trời đất tối sầm, tim thắt lại, vì bác đinh ninh rằng chủ bác không thể nào lên đường nếu bác không đi cùng. Bác còn đang do dự băn khoăn bỗng đâu thấy Xanxôn Caraxcô, bà quản gia và cô cháu gái bước vào. Số là ba người muốn biết bác đã nói những gì để thuyết phục chủ bác từ bỏ ý định tìm kiếm những chuyện phiêu lưu. Chàng Xanxôn láu lỉnh tiến lên ôm Đôn Kihôtê như lần đầu rồi cất cao giọng nói:

- Ôi! Tinh hoa của ngành hiệp sĩ giang hồ! Ôi, ánh sáng chói lọi của nghề võ! Ôi, vinh dự và tấm gương của dân tộc Tây Ban Nha! Lạy Chúa toàn năng, cầu cho kẻ nào hoặc những kẻ nào có ý định ngăn cản cuộc xuất hành thứ ba của ngài sẽ bị lúng túng và không bao giờ thực hiện được những điều họ tha thiết mong muốn.

Quay lại bà quản gia, chàng bảo:

- Bà quản gia chẳng cần phải đọc kinh Xanta Apôlônia làm chi nữa. Tôi biết là thánh thần đã quyết định để ngài Đôn Kihôtê thực hiện ý đồ cao cả và mới mẻ của ngài, và tôi sẽ nghiêm khắc kết án lương tâm tôi nếu như tôi không thuyết phục và không buộc nổi hiệp sĩ không được giam hãm lâu hơn nữa sức mạnh của một cánh tay dũng cảm và lòng nhân từ của một tâm hồn cao cả, vì chậm ngày nào thì kẻ yếu còn bị ức hiếp, trẻ mồ côi không nơi nương tựa, các tiểu thư còn bị làm nhục, các bà quả phụ không được chư chở, đàn bà có chồng thiếu sự giúp đỡ, và còn bao nhiêu điều khác nữa liên quan và phụ thuộc chặt chẽ vào hiệp sĩ đạo. Ôi, ngài Đôn Kihôtê của tôi! Con người đẹp đẽ và dũng cảm, xin đại nhân hãy lên đường ngay hôm nay, chớ để đến ngày mai. Nếu ngài còn yêu cầu gì nữa để thực hiện việc đó, tôi xin đem cả con người tôi và tài sản để cung phụng ngài; và nếu cần phải làm giám mã để hầu hạ ngài, tôi coi đó là niềm hạnh phúc vô biên.

Cậu Tú dứt lời, Đôn Kihôtê quay lại bảo Xantrô:

- Xantrô kia, ta đã bảo anh là ta không thiếu giám mã đấy ư? Hãy nhìn xem ai làm giám mã cho ta; chính là ông Tú Xanxôn Caraxcô phi thường, con người vui nhộn trên sân các trường đại học ở Xalamanca, con người mạnh khỏe, nhanh nhẹn, ít nói, chịu được nóng lạnh, đói khát, có mọi đức tính để làm giám mã cho một hiệp sĩ giang hồ. Được một giám mã như vậy thì thật hợp ý ta, song trời kia không cho phép ta hủy hoại cột trụ của nền khoa học và văn học, một bậc xuất chúng trên nền nghệ thuật nước nhà. Thôi, chàng Xanxôn hãy ở lại để làm rạng rỡ cho tổ quốc và cho cha mẹ già. Đối với ta, giám mã nào cũng được cả một khi Xantrô không thèm đi với ta.

- Có chứ, Xantrô xúc động đáp, nước mắt vòng quanh. Thưa ông chủ, tôi không quen nói câu: "Qua cầu cất nhịp"; tôi không thuộc dòng bạc ác bất nhân; mọi người, nhất là dân làng, đều biết họ Panxa nhà tôi. Hơn nữa, qua những hạnh động và lời nói đầy thiện chí của ngài, tôi hiểu rõ ý định tốt đẹp của ngài đối với tôi; sở dĩ tôi kỳ kèo bớt một thêm hai đồng lương là để chiều lòng vợ tôi mà thôi. Một khi bắt ai làm theo ý mình, mụ ép người ta chặt hơn cả đóng đai một cái thùng vậy. Thế nhưng, đàn ông vẫn là đàn ông, đàn bà vẫn là đàn bà. Một khi không thể chối cãi được là ở đâu tôi cũng vẫn là đàn ông, cho nên tôi phải làm đàn ông ở ngay trong nhà tôi, ai phản đối cũng mặc. Thôi, xin ngài hãy làm phần chúc thư có kèm phần bổ sung để không ai phá bỏ được, rồi ta lên đường ngay để ông Xanxôn khỏi phiền lòng vì ông đã nói rằng lương tâm ông lệnh cho ông phải thuyết phục bằng được để ngài ra đi lần thứ ba. Một lần nữa, tôi xin theo hầu ngài, nguyện làm một giám mã trung thành hơn tất cả các giám mã của các hiệp sĩ giang hồ thời xưa và thời nay.

Trước cung cách nói năng của Xantrô Panxa, cậu Tú lấy làm ngạc nhiên vì tuy đã đọc cuốn sách thứ nhất viết về bác, cậu không thể ngờ bác lại có duyên đến thế như người ta tả. Tuy nhiên, khi nghe bác nói tới câu chúc thư có kèm phần bổ sung để không ai phá bỏ được - đáng lẽ phải nói rằng chúc thư có kèm phần bổ sung để không ai phế bỏ được, - cậu mới tin những điều đã đọc và mới khẳng định rằng bác là một trong những kẻ ngốc nghếch của thời đại chúng ta, bụng bảo dạ là trên đời này chưa từng có cặp thầy trò nào điên rồ như Đôn Kihôtê và Xantrô Panxa vậy. Cuối cùng, Đôn Kihôtê và Xantrô Panxa ôm hôn nhau thắm thiết. Theo ý kiến và được sự thỏa thuận của chàng Caraxcô vĩ đại - lúc này Đôn Kihôtê coi chàng là một nhà tiên tri, - ba ngày nữa sẽ xuất hành. Trong thời gian đó, phải chuẩn bị những thứ cần thiết cho chuyến đi và tìm một cái mũ sắt có vành mà Đôn Kihôtê khăng khăng muốn mang theo. Cậu Xanxôn hứa sẽ tìm được vì cậu biết một người bạn có cái mũ đó và sẽ không từ chối, tuy rằng mũ gỉ đen chứ không sáng bóng.

Bà quản gia và cô cháu gái không tiếc lời nguyền rủa cậu Tú. Họ rứt tóc, cào mặt, giống như những người đàn bà khóc thuê trong các đám ma; họ khóc than cho chuyến đi như chủ và cậu của họ đã chết. Sở dĩ Xanxôn thuyết phục Đôn Kihôtê ra đi lần thứ ba là cốt để thực hiện một ý đồ mà cậu đã bàn bạc trao đổi với Cha xứ và bác phó cạo, sau này sẽ kể.

Trong ba ngày, Đôn Kihôtê và Xantrô Panxa chuẩn bị đầy đủ những thứ cần thiết cho chuyến đi. Vào một buổi chập tối, sau khi Xantrô Panxa đã dỗ dành vợ cũng như Đôn Kihôtê đã an ủi bà quản gia và cô cháu gái, hai người lẳng lặng lên đường đi Tôbôxô. Riêng cậu Tú được chứng kiến vì cậu muốn tiễn họ nửa dặm đường. Đôn Kihôtê cưỡi con Rôxinantê trung thành của mình, Xantrô cưỡi con lừa xưa. Bác đeo chiếc túi hai ngăn chứa đầy những vật dụng cần thiết, còn số tiền của Đôn Kihôtê để chi tiêu dọc đường thì bác cất trong túi. Rồi Xanxôn ôm hôn Đôn Kihôtê và dặn chàng báo tin về, nếu tin vui sẽ để chia sẻ niềm vui, nếu tin buồn sẽ để chia sẽ nỗi buồn, vì đó là luật lệ của tình bằng hữu. Đôn Kihôtê hứa sẽ làm. Xanxôn quay về làng, còn hai thầy trò nhằm hướng thành vĩ đại thẳng tiến [SUP]1[/SUP].


--------------------------------
1. Xin độc giả lưu ý tới lời nói hài hước của Xervantex, gọi làng Tôbôxô là thành Tôbôxô vĩ đại. Dưới thời đó, làng này có 900 dân.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes


Chương VIII


ĐÔN KIHÔTÊ ĐÃ GẶP NHỮNG CHUYỆN GÌ TRÊN ĐƯỜNG ĐI THĂM TÌNH NƯƠNG LÀ ĐULXINÊA LÀNG TÔBÔXÔ?


Amêtê Bênêhenli mở đầu chương tám này bằng câu: "Cảm ơn thánh Ala toàn năng!" và nhắc đi nhắc lại ba lần. Ông giải thích sỡ dĩ thốt lên những lời cảm tạ đó vì ông nhìn thấy Đôn Kihôtê và Xantrô lên đường, và độc giả cuốn sách lý thú của ông có thể tin tưởng được rằng từ đây trở đi bắt đầu những công tích của Đôn Kihôtê cũng như những câu nói đậm đà của bác giám mã. Ông yêu cầu độc giả hãy quên những chiến công mà nhà quý tộc đã giành được trên cánh đồng Môntiel [SUP]1[/SUP] và hãy chú ý tới những chiến công tương lai mà chàng sẽ lập trên con đường đi tới Tôbôxô. Kể ra, yêu cầu của ông cũng không quá cao so với điều ông hứa hẹn. Ông kể tiếp như sau:

Lúc này, trên con đường chỉ còn lại Đôn Kihôtê và Xantrô Panxa. Cậu Tú Xanxôn Caraxcô vửa đi khỏi thì con Rôxinantê bắt đầu hí vang và con lừa cũng lên tiếng khiến chàng hiệp sĩ và bác giám mã coi là điềm vô cùng tốt lành. Nói của đáng tội, tiếng kêu và tiếng thở dài của con lừa to hơn tiếng hí của con ngựa khiến cho Xantrô kết luân rằng vận may của bác phải lớn hơn của chủ. Không hiểu có phải bác căn cứ vào khoa chiêm tinh học mà bác nắm được không, sách không nói rõ điều này. Chỉ biết mỗi khi bác vấp hoặc ngã, người ta lại nghe thấy bác lẩm bẩm: "Thà đừng bước ra khỏi nhà vì một lần vấp ngã chỉ tổ rách giày và gẫy xương sườn". Tuy ngốc nghếch, bác nói câu đó không đến nỗi sai lầm.

Lúc này, Đôn Kihôtê bảo bác:

- Anh bạn Xantrô ạ, chúng ta càng đi thì trời càng tối, tối quá mức cần thiết khiến chúng ta không thể nhìn thấy Tôbôxô vào đầu ngày mai được. Tôi quyết tâm tới đó trước khi lao vào một cuộc phiêu lưu mới để xin nàng Đulxinêa vô song ban phúc và cho phép ta ra đi. Sau khi được phép của nàng, ta nghĩ và tin chắc sẽ giải quyết một cách tốt lành mọi cuộc phiêu lưu mạo hiểm vì không có gì trên đời này làm cho một hiệp sĩ giang hồ trở nên dũng cảm hơn sự chở che của tình nương.

- Tôi cũng nghĩ như vậy, Xantrô đáp; tuy nhiên, tôi thấy ngài khó có thể nói chuyện được với bà ta hoặc gặp được bà ta ở nơi nào thuận tiện để nhận lời chúc phúc trừ phi bà ta leo lên bức tường ở sân nuôi gà vịt để ban phúc cho ngài. Chính tại đây, lần đầu tiên tôi gặp bà ta khi tôi đem đến bức thư kể những hành động ngớ ngẩn và điên rồ của ngài trong núi Môrêna sâu thẳm.

- Xantrô, sao anh dám nói là đã gặp con người kiều diễm, xinh đẹp ấy ở sân nuôi gà vịt, một con người mà bao nhiêu lời ca ngợi cũng không đủ? Chắc hẳn phải gặp nàng trong hành lang và sân trước của một tòa lâu đài nguy nga tráng lệ.

- Có thể như vậy, Xantrô đáp. Tuy nhiên, nếu tôi không thiếu trí nhớ, tôi cảm thấy đó là sân nuôi gà vịt.

- Xantrô, ta lên đường thôi, Đôn Kihôtê bảo; miễn là ta gặp được nàng, dù ở sân nuôi gà vịt hay trong vườn hoa. Chỉ cần sắc đẹp của nàng rọi một ánh hào quang vào mặt ta cũng đủ soi sáng trí tuệ và khích lệ trái tim ta, khiến ta trở thành một con người trí dũng vô song.

Xantrô đáp:

- Quả thật khi tôi nhìn thấy ánh hào quang của bà Đulxinêa làng Tôbôxô, tôi chẳng thấy nó rực rỡ gì lắm để có thể tỏa ra những tia sáng cả. Có thể là lúc đó lệnh bà đang sàng thóc, bụi mù như mây đen ám cả mặt.

- Sao, anh Xantrô, anh vẫn một mực nghĩ, tin và nói rằng nàng Đulxinêa của ta sàng thóc ư? Đó là một công việc và một nghề hoàn toàn xa lạ đối với những yếu nhân sinh ra trên đời để làm những việc khác, đứng cách xa một tầm nỏ cũng thấy được tính chất quan trọng của những công việc đó. Ôi, Xantrô, anh quên mất rồi những câu thơ của một thi sĩ miêu tả công việc của bốn nữ thần ở động pha lê, khi họ từ lòng sông Tahô đáng yêu nhô đầu lên và ngồi xuống thảm cỏ xanh dệt những tấm vải quý bằng vàng, bằng lụa, bằng ngọc. Chắc là khi anh gặp tình nương của ta, anh cũng thấy cảnh đó, trừ phi có một pháp sư xấu xa đem lòng ghen ghét, biến tất cả những cái gì hay của ta thành dở. Chính vì vậy mà ta e rằng cuốn sách in viết về những chiến công của ta, tác giả - nếu như là một pháp sư thâm thù ta - sẽ đưa ra những câu chuyện bịa đặt, trong một nghìn chuyện giả mới có một chuyện thật, hoặc kể lại sự việc lạc đề làm mất liên tục của toàn bộ câu chuyện. Ôi, ghen ghét, nguồn gốc gây nên bao tai họa, sâu mọt đục khoét những đức tính của con người! Anh Xantrô, tật xấu nói chung chứa đựng một cái đáng yêu, riêng tật ghen ghét chỉ đem lại kinh tởm, hiềm thù và tức giận.

- Tôi cũng nghĩ như ngài, Xantrô nói, và tôi đoán rằng trong cuốn sách mà cậu Tú bảo là có thấy người ta viết về ngài và tôi, người ta đem tôi ra bêu giếu hết lời. Lấy danh dự của một người quân tử, tôi không hề nói xấu một pháp sư nào, và tôi cũng chẳng có cái gì để thiên hạ phải tức tối. Thực tình, tôi cũng vào loại ranh ma, xỏ lá ba que cũng được, song tất cả những cái đó được che đậy dưới bộ mặt chất phác thật thà, không chút giả dối của tôi. Một khi tôi giữ vững lòng tin sắt đá và chân thành vào Chúa và tin vào tất cả những gì mà giáo hội công giáo Rôma tin, một khi tôi là kẻ tử thù của bọn Do thái, chắc các sử gia sẽ thương tới tôi và nói tốt về tôi. Nhưng thôi, tùy họ muốn nói gì cũng được, tôi sinh ra trần trụi và cũng chẳng được gì; cứ biết là tôi có tên tuổi trong sách và sách đó được chuyển từ tay người này sang tay người khác khắp thế gian, ngoài ra họ muốn gì về tôi, tôi cũng chẳng quan tâm.

- Thế thì cũng giống như câu chuyện một thi sĩ nổi danh thời nay. Ông ta làm một bài thơ châm biếm các mệnh phụ trong triều; trong bài thơ đó, ông ta không nêu tên một bà mà người ta không biết có phải là mệnh phụ hay không. Không thấy nhắc tới mình trong bài thơ, bà ta bèn phàn nàn với nhà thơ, nói rằng: "Ông coi tôi như thế nào mà không liệt tôi vào hàng những mệnh phụ kia. Xin hãy kéo dài thơ ra để nói về tôi. Nếu không, hãy coi chừng". Nhà thơ phải thêm một đoạn nữa, trong đó ông ta châm biếm bà ta một cách sâu cay; riêng bà ta lấy làm hài lòng vì thấy mình được nổi tiếng, mặc dù tiếng xấu. Lại có một chuyện tương tự, kể một anh chàng chăn cừu muốn cho tên tuổi mình được sống mãi trong các thế kỷ tương lai, đã châm lửa đốt ngôi đền nổi tiếng thờ nữ thần Điana, một trong bảy kỳ quan thế giới; và mặc dù có lệnh cấm không ai được nhắc tới tên chàng đó - hoặc bằng miệng, hoặc nhắc trên giấy - để cho anh ta không đạt được nguyện vọng, người ta vẫn biết tên anh chàng là Erôxtratô. Lại có một chuyện khác cũng giống như chuyện bà mệnh phụ nọ, đó là chuyện đại đế Carlô thứ năm ở Rôma. Một hôm, hoàng đế muốn thăm ngôi đền Rôtunđa nổi tiếng. Thời trước, người ta gọi là đền thờ các vị thần, còn ngày nay gọi là đến thờ các vị thánh. Trong số những ngôi đền do người dị giáo lập nên, đó là công trình còn nguyên vẹn nhất nói lên tất cả tính chất vĩ đại của những người xây dựng nó. Ngôi đền Rôtunđa trông như trái cam bổ đôi, rộng mênh mông, bên trong rất sáng sủa, mặc dù ánh sáng chỉ lọt qua một khung cửa sổ, hay nói đúng hơn, một cái cửa mắt bò ở trên nóc. Từ trên cái cửa tròn đó, hoàng đế nhìn xuống ngôi đền. Một triều thần La Mã đứng bên cạnh giới thiệu những đường nét tinh xảo của công trình kiến trúc vĩ đại và tuyệt vời này. Khi hai người rời khỏi ngôi đền, viên quan mới thưa với hoàng đế: "Muôn tâu bệ hạ, một nghìn lần thần đã nảy ra ý định ôm chặt lấy thánh thể và gieo mình từ trên cửa sổ mắt bò xuống đất để được mãi mãi nổi tiếng trên đời". Hoàng đế đáp: "Trẫm cảm ơn ngươi đã không thực hiện ý nghĩ tai hại đó. Từ nay trở đi, trẫm sẽ không để cho ngươi có dịp nào khác thử thách lòng trung thành của mình nữa, bởi thế trẫm truyền từ nay ngươi không bao giờ được nói với trẫm và đứng bên cạnh trẫm". Nói rồi, nhà vua ban thưởng cho viên quan. Xantrô, qua những điều kể trên, ta muốn nói rằng, lòng ham danh vọng của con người thật vô cùng mãnh liệt. Anh có biết ai đã đẩy chàng Ôraxiô mình đầy vũ khí từ trên cầu xuống sông Tibrê sâu thẳm không? Ai đã thiêu cháy tay và bàn tay của Muxiô? Ai đã thúc đẩy Curxiô lao mình xuống vực sâu nóng bỏng ngay giữa thành Rôma? Ai, mặc dù nhìn thấy điềm không lành, đã thúc giục Huliô Xêxar vượt sông Rubicôn? Lại còn những ví dụ gần đây hơn. Ai đánh đắm chiến thuyền của các chiến binh dũng cảm Tây Ban Nha ở Tân thế giới do ngài Cortêx chỉ huy khiến cho họ thất điên bát đảo? Tất cả những sự việc kinh thiên động địa ấy cùng bao nhiêu những chuyện khác, đã, đang và sẽ là kết quả của lòng ham danh vọng mà người đời coi là phần thưởng quý giá đưa họ tới chỗ bất diệt mà họ xứng đáng được hưởng. Thế nhưng, những người Kitô giáo và những hiệp sĩ giang hồ như chúng ta không ham muốn những hư danh mỏng manh của thời hiện tại. Chúng ta muốn vươn tới vinh quang của những thế kỷ tương lai, một vinh quang vĩnh cửu trên cõi đời thanh khiết. Danh vọng, dù bền lâu đến mấy, cũng sẽ tiêu tan cùng thế giới này, một thế giới không tồn tại mãi mãi. Bởi vậy, anh Xantrô ạ, chúng ta không được hành động ngoài khuôn khổ quy định của tôn giáo mà chúng ta đang theo. Chúng ta phải diệt bỏ tính kiêu ngạo bằng cách trừ bỏ bọn khổng lồ, chúng ta phải khắc phục tính ghen ghét bằng tấm lòng độ lượng và cao thượng, nỗi tức giận bằng sự kiềm chế và thư thái của tâm hồn, tính ham ăn ít ngủ bằng ăn ít và thức nhiều, tính dâm đãng bằng lòng chung thủy với con người ta tôn thờ là nữ chủ nhân của linh hồn ta, và cuối cùng, người ta khắc phục tính lười biếng bằng cách đi khắp thiên hạ tìm những cơ hội khiến cho chúng ta - những người Kitô ngoan đạo - trở thành những hiệp sĩ nổi danh. Xantrô, đó là những biện pháp đạt tới đỉnh cao của vinh quang, kết quả của một sự nổi danh chính đáng.

- Tất nhiên những điều ngài vừa nói, tôi đều hiểu hết, Xantrô đáp. Tuy nhiên, tôi mong ngài giả đáp cho một thắc mắc mới nảy ra trong đầu óc tôi.

- Xantrô, chắc anh định nói giải đáp, Đôn Kihôtê bảo. Được, cứ nói, ta biết tới đâu sẽ trả lời tới đó.

- Xin hỏi ngài, Xantrô tiếp tục, các ông Huliô, Agôxtô cùng tất cả các hiệp sĩ có công mà ngài vừa kể ra không còn sống ở trên đời này nữa, vậy bây giờ họ ở đâu?

- Chắc chắn là những người dị giáo ở dưới địa ngục, Đôn Kihôtê đáp; còn những người Kitô giáo ngoan đạo ở nơi luyện tội hoặc ở trên thiên đàng.

- Tốt lắm, Xantrô nói, song ta cần biết một điều sau đây: phía trước những ngôi mộ trong đó nằm những ông tai to mặt lớn có đặt những cây đèn bằng bạc không? Và trên bức tường những nhà thờ các ông có bày biện gậy, khăn liệm, trâm và mắt bằng sáp ong không? Nếu không có những thứ đó thì bày cái gì?

Đôn Kihôtê đáp:

- Những phần mộ của người dị giáo đa số là những ngôi đền nguy nga. Di hài của Huliô Xêxar được đặt trên một kim tự tháp bằng đá rất to mà ngày nay ở Rôma người ta gọi là đỉnh nhọn Xan Pêđrô. Mộ của hoàng đế Ađrianô là một tòa lâu đài to bằng cả một cái làng, tên gọi trước kia là Môlêx Ađriani, nay là lâu đài Xantanhel ở Rôma. Hoàng hậu Artêmixa xây cho đức ông chồng là nhà vua Maoxôlêô một ngôi mộ được coi là một trong bảy kỳ quan của thế giới. Nhưng tất cả những ngôi mộ của người dị giáo đều không có bày khăn liệm hoặc những cúng vật khác, chứng tỏ những người nằm trong đó đã hóa thánh.

- Đến đây, tôi xin hỏi thêm: trong hai việc là làm sống lại một người chết và giết một tên khổng lồ, việc nào tốt hơn? Xantrô hỏi vặn.

- Câu trả lời ở trong tầm tay, Đôn Kihôtê đáp, làm người chết sống lại tốt hơn chứ.

- Thế là ngài thua tôi rồi nhé! Xantrô reo lên. Như vậy tức là những ai làm cho người chết sống lại, người mù nhìn thấy ánh sáng, người què cứng chân, mạnh tay, người ốm trở lại khỏe mạnh, những ai khi chết có thắp đèn sáng trên ngôi mộ của mình, những người đó còn nổi tiếng trong thế kỷ này và các thế kỷ sau hơn cả tất cả các hoàng đế dị giáo và các ông hiệp sĩ giang hồ trên đời này.

- Ta cũng công nhận sự thật đó, Đôn Kihôtê nói.

Xantrô lại tiếp:

- Như vậy là thi hài và di hài của các vị thánh được hưởng tiếng tăm và mọi sự ưu tiên ưu đãi. Được giáo hội chấp thuận và cho phép, mộ của các vị đó cũng có đèn bằng bạc, nến cây, khâm liệm, gậy, hình vẽ, tóc, mắt và chân bằng sáp khiến cho danh tiếng của họ càng nổi lên và người đời càng thêm ngưỡng mộ. Vua chúa cũng khiêng thi hài hoặc hài cốt của các vị đó, hôn từng khúc xương và đem về trang trí trong phòng cầu nguyện cũng như bàn thờ của mình.

- Xantrô, tất cả những điều anh nói, anh định đi đến kết luận gì? Đôn Kihôtê hỏi.

- Tôi định nói rằng, thầy trò ta phải làm sao trở thành thánh để được nổi danh một cách nhanh chóng hơn, Xantrô đáp. Xin ngài biết cho rằng, hôm qua hoặc hôm kia (có thể nói như vậy vì câu chuyện mới xảy ra được ít bữa nay), có hai thầy tu khổ hạnh được phong thánh hoặc á thánh. Mọi người coi như một niềm hạnh phúc lớn khi được hôn và sờ vào những xiềng sắt mà hai vị đã buộc quanh người để tự làm nhục thể. Theo lời đồn, những dây xiềng đó được tôn sùng hơn cả thanh gươm to của Rôlđan bày trong phòng vũ khí của Đức vua chúng ta. Bởi vậy, thưa ngài, thà làm một thầy tu bình thường của bất kỳ dòng thánh náo còn hơn làm một hiệp sĩ giang hồ dũng cảm. Chịu hai tá roi phạt còn được Chúa thương hơn là đâm hai ngàn ngọn giáo vào những tên khổng lồ và những con quái vật.

- Đúng thế đấy, Đôn Kihôtê đáp; tuy nhiên chúng ta không thể làm thầy tu hết được, và Chúa còn nhiều con đường khác để dẫn con người tới cõi trời. Hiệp sĩ đạo cũng là một tôn giáo và có những hiệp sĩ-thánh trên thiên đường.

- Phải, Xantrô đáp; nhưng tôi nghe nói trên trời có nhiều thầy tu hơn hiệp sĩ giang hồ.

- Đúng, Đôn Kihôtê nói; vì rằng số nhà tu đông hơn số hiệp sĩ.

- Có nhiều nhà giang hồ đấy chứ, Xantrô vặn lại.

- Nhiều đấy, song có ít người xứng danh là hiệp sĩ.

Với những câu đàm thoại như vậy hoặc tương tự, đêm hôm đó và cả ngày hôm sau trôi qua, không có chuyện gì đáng kể, khiến Đôn Kihôtê phiền lòng lắm. Ngày hôm sau nữa, vào lúc sẩm tối, hai người nhìn thấy thành Tôbôxô vĩ đại. Đôn Kihôtê khấp khởi mừng thầm, còn Xantrô thì buồn ủ rũ. Số là bác không biết nhà Đulxinêa ở đâu. Cũng như chủ bác, cả đời bác chưa nhìn thấy nàng bao giờ, thành thử cả hai thầy trò đều bồn chồn tấc dạ, một người vì mong gặp mặt, người kia vì chưa gặp bao giờ. Xantrô không thể tưởng tượng nổi mình sẽ ăn nói ra sao đây một khi chủ bảo đi tìm nhà Đulxinêa. Cuối cùng, Đôn Kihôtê chờ đợi, họ nghỉ chân dưới một khóm cây sồi mọc ở bên ngoài thành Tôbôxô. Giờ hành động đã điểm, hai người vào thành, tại đó họ gặp hết chuyện này đến chuyện khác.



--------------------------------
1. Xem tập 1
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes

Chương IX

CHƯƠNG NÀY NÓI GÌ, HÃY XEM SẼ RÕ


Đúng vào lúc nửa đêm, hoặc trước sau chút ít, Đôn Kihôtê và Xantrô rời khỏi lùm cây và tiến vào làng Tôbôxô. Trong làng im phăng phắc vì dân làng - như người ta thường nói - đang ngủ thẳng cẳng. Đêm hôm đó, bầu trời mờ sáng. Riêng Xantrô chỉ muốn trời tối như bưng để có lý do biện bạch một khi bị chủ nhân khiển trách. Tiếng chó sủa khắp nơi làm điếc tai Đôn Kihôtê và khiến cho lòng dạ Xantrô bồn chồn. Thỉnh thoảng có tiếng lừa kêu, lợn éc, mèo gào. Trong đêm khuya tĩnh mịch, những âm thanh tĩnh mịch vang lên, nghe rõ mồn một. Chàng hiệp sĩ si tình coi đó là điềm gở, tuy nhiên, chàng vẫn bảo Xantrô:

- Xantrô, con hãy dẫn ta đến lâu đài của bà Đulxinêa! Có lẽ lúc này nàng còn thức.

- Chết nỗi, tôi phải dẫn ngài tới lâu đài nào cơ? Xantrô kêu lên. Nơi tôi gặp lệnh bà chỉ là một ngôi nhà lụp xụp.

- Nếu vậy, Đôn Kihôtê bảo, chắc là khi đó nàng lui về một phòng nhỏ trong lâu đài để vui chơi với đám thị nữ theo cách của các mệnh phụ và các nàng công chúa cao quý.

- Thưa ngài, Xantrô nói, ngài cứ khăng khăng gọi cái nhà bà Đulxinêa là lâu đài, tôi cũng đành chịu. Song, liệu giờ này, cổng còn mở không? Và ta có nên đập cửa thình thình để bên trong nghe thấy và ra mở không? Tôi e làm vậy sẽ náo động cả làng. Chả nhẽ ta làm những việc như anh chàng đã có hai vợ, đến gõ cửa vào nhà vợ bé của mình bất kể giờ giấc, dù là đêm hôm khuya khoắt sao?

- Hãy mau đi tìm lâu đài đã, Đôn Kihôtê bảo, sau đó ta sẽ bảo anh phải làm gì. Xantrô này, hoặc là ta nhìn không rõ, hoặc là cái khối đen lù lù trước mặt kia chính là lâu đài của nàng Đulxinêa.

- Nếu vậy, xin ngài dẫn đường, may ra sẽ đúng, Xantrô đáp; riêng tôi, dù nhìn thấy tận mắt và sờ tận tay, tôi cũng chỉ tin đó là lâu đài như tôi tin lúc này đang là ban ngày thôi.

Đôn Kihôtê dẫn đường. Đi được khoảng hai trăm bước tới cái khối đen lù lù mới nhận ra đó là một tòa tháp lớn, không phải lâu đài gì hết mà đó là nhà thờ của làng. Chàng hiệp sĩ bảo:

- Xantrô, chúng ta tới một cái nhà thờ.

- Tôi thấy rồi, Xantrô đáp. Mong sao thầy trò ta không gặp cả mộ của chúng ta nữa. Giờ này mà đi vào các bãi tha ma là điềm không tốt, nhất là tôi có nói với ngài - nếu tôi nhớ không sai - rằng nhà của bà ta trong một cái ngõ cụt.

- Trời hại mi, thằng ngốc kia! Đôn Kihôtê quát. Mi có thấy ở đâu có những lâu đài và cung điện xây dựng trong ngõ cụt không?

- Thưa ngài, đất nào phong tục nầy, Xantrô đáp. Có lẽ ở làng Tôbôxô đây, người ta thường xây lâu đài cung điện trong ngõ cụt. Bởi vậy, xin ngài để tôi đi tìm một trong số các phố phường và các ngõ hẻm. Có lẽ tôi sẽ gặp trong một xó xỉnh nào đấy cái lâu đài đáng vứt cho chó nhá đó vì nó đã làm cho chúng ta vất vả long đong.

- Xantrô, khi đả động tới những vấn đề liên quan đến tình nương của ta, phải nói năng cung kính, Đôn Kihôtê bảo, không được nói năng lung tung và cũng đừng vì chán nản mà bỏ cuộc.

- Từ nay, tôi xin giữ mồm giữ miệng, Xantrô nói, song làm sao tôi có thể nhịn được một khi giữa đêm tối như thế này, ngài cứ muốn tôi phải nhận ra và tìm thấy cái nhà mà tôi mới nhìn thấy một lần trong khi ngài đã thấy hàng nghìn lần mà vẫn không tìm thấy nó.

- Xantrô, đừng làm cho ta thất vọng, Đôn Kihôtê bảo. Lại đây, tên tà đạo kia. Ta đã chẳng nói với mi hàng trăm nghìn lần rằng cả đời ta chưa hề gặp nàng Đulxinêa tuyệt vời sao? Rằng ta chưa hề bước qua ngưỡng cửa lâu đài của nàng sao? Rằng ta mới chỉ nghe đồn đại về nhan sắc và trí tuệ vô song của nàng mà đã say mê đó sao?

- Bây giờ tôi mới nghe ra, Xantrô đáp, và tôi xin thưa lại như sau: nếu ngài chưa nhìn thấy bà ta bao giờ thì tôi cũng vậy.

- Không thể như thế được, Đôn Kihôtê nói, vì khi thuật lại lời nàng phúc đáp thư mà ta sai mi đem đến cho nàng, mi nói với ta rằng mi đã nhìn thấy nàng đang sàng thóc cơ mà?

- Xin ngài đừng nhắc tới chuyện đó nữa, Xantrô đáp. Tôi xin nói để ngài biết rằng cuộc gặp gỡ giữa tôi và bà Đulxinêa cùng lời phúc đáp của bà mà tôi đem về cho ngài cũng chỉ là chuyện đồn đại mà thôi. Tôi mà biết được bà Đulxinêa là ai thì có khác gì bảo tôi giơ nắm đấm ra đấm ông trời.

- Xantrô, Xantrô, Đôn Kihôtê nói, có lúc nên bông đùa nhưng có lúc bông đùa thành vô duyên. Không phải vì ta nói rằng ta chưa hề nhìn thấy và nói chuyện với nữ chủ nhân linh hồn của ta mà mi nói rằng mi chưa hề nhìn thấy và nói chuyện với nàng một khi không phải thế, như mi tự biết đấy.

Hai thầy trò còn đang bàn tới đó, bỗng đâu thấy có một người đánh hai con la đi tới. Nghe thấy lưỡi cày kéo lê trên mặt đất, họ đoán là một người thợ cày dậy sớm để đi làm đồng. Quả thật như vậy. Bác thợ cày vừa đi vừa hát một bản tình ca trong đó có câu:

Quân Pháp kia, tại đèo Rônxêxvaiêx,
Các người bị đánh tơi bời...

Nghe thấy vậy, Đôn Kihôtê kêu lên:

- Ta xin chết ngay bây giờ nếu như đêm nay chúng ta gặp điều gì lành. Xantrô, anh có nghe thấy tên nhà quê kia nói gì không?

- Có, tôi có nghe thấy, Xantrô đáp, nhưng trận đánh nhau ở đèo Rônxêxvaiêx dính dáng gì đến công việc của mình. Ví thử bác ta hát bài Calainôx thì cũng vậy thôi, không ảnh hưởng gì đến ta hết, dù ta gặp may hay rủi.

Lúc này, bác thợ cày đi tới; Đôn Kihôtê lên tiếng hỏi:

- Cầu Chúa ban phước lành cho ông bạn. Chẳng hay ông bạn có biết lâu đài của công chúa tuyệt thế Đulxinêa làng Tôbôxô ở đâu không?

Bác thợ cày đáp:

- Thưa ngài, tôi không phải người làng này; tôi mới đến đây mấy hôm nay làm ruộng cho một điền chủ giàu có, ở ngôi nhà trước mặt có cha xứ và người trông coi đồ thánh. Cả hai đều có thể giới thiệu với ngài về bà công chúa đó vì họ có danh sách tất cả dân làng Tôbôxô. Theo tôi biết, trong làng này không có công chúa nào cả mà chỉ có nhiều bà lớn rất sang trọng, bà nào cũng có thể là công chúa trong nhà mình được.

- Ông bạn ạ, Đôn Kihôtê nói, nếu vậy chắc trong số đó có người tôi vừa hỏi thăm.

- Cũng có thể, bác thợ cày đáp. Nhưng thôi, xin chào ngài, trời sáng rồi.

Nói xong, bác giơ roi thúc hai con la, không chờ Đôn Kihôtê hỏi thêm câu nào khác.

Thấy chủ có vẻ phân vân không được vui, Xantrô bảo:

- Thưa ngài, trời mỗi lúc một sáng, ta không nên phơi mặt ra giữa đường giữa chợ như thế này, tốt hơn hết là hãy rút ra ngoài thành, ngài tạm lánh vào một khu rừng nhỏ nào đấy, còn tôi sẽ quay trở lại Tôbôxô giữa ban ngày ban mặt. Tôi sẽ không chừa một ngóc ngách nào để tìm cho được ngôi nhà, lâu đài hoặc cung điện của lệnh bà. Tôi sẽ rất khổ tâm nếu không tìm được. Một khi tìm thấy, tôi sẽ thưa chuyện với bà và nói rằng ngài ở đây chờ bà ra lệnh cho được yết kiến mà không tổn hại đến danh dự và tiếng tăm của bà.

- Xantrô, anh đã gói trọn một nghìn ý kiến trong những câu nói ngắn gọn. Ta cảm ơn anh và vui lòng chấp nhận lời khuyên của anh. Nào, con hãy đi tìm nơi nào cho ta trú tạm chân và, như con nói, con sẽ quay trở lại Tôbôxô để tìm, gặp và nói với tình nương của ta, một con người lịch thiệp và tế nhị mà ta trân trọng hơn cả những ơn huệ diệu kỳ.

Xantrô lo sao dụ được Đôn Kihôtê ra khỏi làng vì sợ chàng phát hiện ra câu trả lời của Đulxinêa mà trước kia bác mang về cho chủ ở trên núi Môrêna chỉ là trò bịp. Thế là bác ba chân bốn cẳng đưa chủ rời làng. Đi được hai dặm đường thấy có một khu rừng nhỏ, Đôn Kihôtê tạm trú ở đó, còn Xantrô trở lại Tôbôxô tìm nàng Đulxinêa. Trong khi thực hiện sứ mệnh của mình, bác đã gặp những chuyện đáng được độc giả chú ý và tin là có thật.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes

Chương X

XANTRÔ DÙNG MƯU PHÙ PHÉP ĐULXINÊA, CÙNG NHỮNG SỰ VIỆC KHÁC VỪA BUỒN CƯỜI, VỪA CÓ THẬT


Khi tới chương mười của pho sách lớn này, tác giả nói rằng ông có ý muốn bỏ qua, e rằng độc giả không tin, vì những hành động điên rồ của Đôn Kihôtê lên tới mức tột cùng của những hành động điên rồ nhất mà người đời có thể tưởng tượng được, thậm chí còn vượt xa trên hai tầm nỏ. Tuy nhiên, dù e ngại như vậy, ông vẫn ghi lại đúng như chàng đã làm, không thêm, không bớt một nguyên tử của sự thật, không sợ ai chê trách mình nói bịa. Ông làm như vậy là đúng vì chân lý dù mong manh đến đâu cũng không thể xóa nhòa được và vẫn nổi lên trên sự giả dối, giống như dầu nổi trên mặt nước vậy. Ông kể tiếp như sau: Đôn Kihôtê tạm nghỉ trong khu rừng nhỏ và ra lệnh cho Xantrô trở lại Tôbôxô. Chàng yêu cầu giám mã chỉ được quay trở về sau khi đã bày tỏ ý kiến của chàng với Đulxinêa, cầu xin nàng cho kẻ hiệp sĩ nô lệ được thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp khó khăn mà chàng sắp phải gánh vác, Xantrô hứa sẽ làm đúng lệnh của chủ và mang về một câu trả lời tốt lành y như lần trước [SUP]1[/SUP].

- Con đi đi, Đôn Kihôtê bảo, và chớ bối rối khi đứng trước một nhan sắc chói lọi như ánh mặt trời. Con thật là giám mã tốt nhất trên đời này. Phải có trí nhớ tốt để ghi lại mọi sự việc xảy ra: nàng đã đón tiếp con như thế nào; nàng có thay đổi sắc mặt trong lúc con trình bày ý kiến của ta không; nếu nàng ngồi trên bệ cao dành cho các bà quyền quý, con phải để ý xem nàng có nhấp nhổm trên đệm không; nếu nàng nhắc đi nhắc lại hai ba lần câu trả lời, phải chú ý xem câu sau gay gắt hay dịu dàng hơn câu trước; nàng có đưa tay lên vuốt tóc không, mặc dù tóc nàng không rối; nói tóm lại, con hãy quan sát mọi hành động, cử chỉ của nàng vì nếu con kể lại đầy đủ, ta sẽ đoán được những ý nghĩ thầm kín trong con tim nàng trước tấm chân tình của ta. Xantrô, nếu con chưa biết thì con phải biết rằng trong tình yêu, những hành động và cử chỉ bên ngoài của các cặp tình nhân nói lên một cách chính xác những ý nghĩ của nội tâm. Bạn hãy đi đi; chúc bạn gặp may mắn hơn ta và mang về đây một thắng lợi lớn mà trong cảnh cô đơn cay đắng này, ta mong đợi và lo ngại không đạt được.

- Tôi xin đi và trở về sớm, Xantrô đáp. Ông chủ của tôi ơi, xin ngài hãy vui lên cho tim ngài nở nang ra vì chắc lúc này nó chỉ bé bằng hạt dẻ. Ngài nên biết rằng con người ta thường nói là trái tim vững vàng đập tan vận rủi, có tiếng chẳng có miếng [SUP]2[/SUP]. Người ta còn nói: khi không chẳng đợi chẳng chờ, thỏ rừng trong bụi bất ngờ thò ra. Tôi nói vậy vì rằng nếu đêm qua thầy trò ta tìm mãi không thấy cung điện của bà chủ, có khi giữa ban ngày ban mặt, nó thình lình hiện ra trước mắt tôi.

- Xantrô, Đôn Kihôtê nói, những câu tục ngữ của anh quả là hợp với công việc chúng ta đang bàn, khiến ta không còn phải cầu xin Chúa ban cho một hạnh phúc lớn hơn nữa.

Nghe xong, Xantrô quay lưng, giơ roi quất lừa. trong khu rừng nhỏ chỉ còn Đôn Kihôtê ngồi trên lưng ngựa, chân tựa vào bàn đạp, người tựa vào ngọn giáo, lòng buồn rầu trăm mối vấn vương. Nhưng ta hãy để chàng ở đó và hãy đi theo Xantrô Panxa lúc này đang băn khoăn suy nghĩ từ sau khi từ biệt chủ ra đi. Vừa ra khỏi rừng sồi, bác quay đầu lại, nhìn không thấy bóng dáng Đôn Kihôtê đâu nữa, bền xuống lừa, ngồi bên một gốc cây sồi, bắt đầu nói chuyện một mình như sau: "Nào ông bạn Xantrô, ta muốn biết ông đi đâu bây giờ? Phải chăng ông đi tìm con lừa bị mất? - Không đâu. Vậy thì ông đi tìm cái gì? - Nói để mà nói, tôi đi tìm một nàng công chúa, tìm sắc đẹp chói lọi như ánh mặt trời và tìm cả mặt trời. - Vậy ông đi tìm cái đó ở đâu? - Ở trong thành Tôbôxô vĩ đại chứ còn ở đâu nữa! - Thế thì ông đi tìm công chúa cho ai? - Cho hiệp sĩ trứ danh Đôn Kihôtê xứ Mantra, con người chuyên bênh vực kẻ hèn yếu, ai khát cho ăn, ai đói cho uống [SUP]3[/SUP]. Tất cả những cái đó đều rất tốt, song ông Xantrô có biết nhà công chúa ở đâu không? - Ông chủ tôi bảo rằng nơi ở của công chúa phải là một cung điện hoặc một tòa lâu đài tráng lệ. - Vậy chẳng hay ông đã gặp bà lần nào chưa? - Cả chủ tôi lẫn tôi đều chưa hề gặp. - Thế nếu dân chúng ở Tôbôxô biết rằng ông định tới đó để dụ dỗ các nàng công chúa và quấy quả các bà mệnh phụ, nếu họ lấy gậy phang vào xương sườn và đánh ông nhừ tử, liệu ông có nghĩ là họ làm đúng không? - Quả thật, họ làm như vậy rất đúng một khi họ không nghĩ rằng tôi chỉ là sứ giả, mà sứ giả thì không có lỗi gì hết. - Ông Xantrô, ông đừng tin vào điều đó vì người dân Mantra này tuy tốt bụng nhưng rất hung và không chịu để cho ai trêu chọc đâu. Lạy Chúa! Nếu họ đoán được ra ý đồ của ông, tôi cam đoan ông sẽ gặp chuyện chẳng lành. - Thế thì tôi xin lạy cả nón! Mặc xác chủ tôi! Tôi chả đi tìm bà ba chận hộ người khác đâu. Đi tìm Đulxinêa ở Tôbôxô, khác nào đáy biển mò kim. Ma quỷ nó nhập vào người tôi trong chuyện này đây".

Xantrô tự nói với mình như vậy và rút ra kết luận như sau, bác nói: "Thôi được, mọi chuyện trên đời đều có thuốc chữa, trừ cái chết. Dù muốn hay không, mọi người chúng ta đều phải chui qua cái ách của thần chết một khi cuộc đời kết thúc. Trong cả nghìn trường hợp, ta thấy rõ chủ ta quá điên rồ, còn ta cũng chẳng kém, thậm chí còn ngu ngốc hơn vì ta đã đi theo hầu hạ ông ta. Tục ngữ có câu: "Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã", "Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng", thật chẳng sai chút nào. Một khi chủ ta điên rồ tới mức trông gà hóa cuốc, trắng nghĩ ra đen, đen nghĩ là trắng, cối xay gió thành người khổng lồ, con la của thầy tu thành lạc đà, đàn cừu thành đạo quân địch, cùng bao nhiêu những chuyện khác tương tự, khó gì ta chẳng làm cho ông ta tin rằng bất cứ cô gái quê nào đấy chính là bà Đulxinêa. Nếu ông ta không tin, mình sẽ thề; nếu ông ta cũng thề, mình sẽ gấp đôi, nếu ông ta khăng khăng mình cũng một mực khăng khăng, nhất định không chịu thua, muốn ra sao thì ra. Mình cứ khăng khăng thì lần sau ông ta mới không dám sai mình đi làm những việc như vậy nữa vì chẳng thấy ăn bổng lộc gì. Chưa biết chừng ông ta lại nghĩ rằng có một pháp sư xấu xa nào đó trong số những tên mà ông ta bảo là vẫn thù ghét ông ta, đã thay đổi mặt mũi của bà Đulxinêa để làm hại ông ta.

Nghĩ vậy, Xantrô Panxa càng cảm thấy lòng thanh thản, coi như sứ mệnh của mình đã hoàn thành. Bác ngồi nán lại đến tận chiều để Đôn Kihôtê tưởng rằng trong thời gian đó bác phải đi và trở về. Khi bác đứng dậy để leo lên con lừa thì may mắn làm sao, có ba cô thợ cày cưỡi ba con lừa từ phía Tôbôxô đi tới. Chỗ này, tác giả không nói rõ lừa cái hay lừa đực. Tuy nhiên có nhiều phần là lừa cái vì đàn bà nông thôn thường cưỡi lừa cái; tuy nhiên điều đó không quan trọng lắm, thiết tưởng không cần phải mất thời gian xác minh làm gì. Nhìn thấy ba cô thợ cày, Xantrô ba chân bốn cẳng trở về tìm Đôn Kihôtê lúc này đang thở dài than vãn mối tình si.

Thấy bác về, Đôn Kihôtê vội hỏi:

- Có tin gì đấy, Xantrô? Ta đánh dấu hôm nay bằng đá trắng hay đá đen?

- Tốt hơn hết là ngài đánh dấu bằng son như bảng niêm yết danh sách các ông tiến sĩ ở các trường đại học cho người xem bảng được rõ, Xantrô đáp.

- Vậy anh mang về những tin tốt lành, Đôn Kihôtê nói.

- Rất tốt lành, Xantrô đáp. Ngài chỉ việc thúc conRôxinantê phi ra giữa đồng thì sẽ nhìn thấy phu nhân Đulxinêa làng Tôbôxô đang cùng hai thị nữ tới gặp ngài.

- Lạy Chúa, Đôn Kihôtê kêu lên, anh bạn Xantrô nói gì vậy? Xin chớ đánh lừa ta, và cũng đừng lấy cái vui giả tạo để làm khuây khỏa nỗi buồn phiền thực sự của ta.

- Tôi đánh lừa ngài thì được cái gì cơ chứ, Xantrô đáp, nhất là ngài sắp biết được sự thật rồi. Xin ngài hãy thúc ngựa đi theo tôi, rồi ngài sẽ thấy công chúa của chúng ta ăn mặc trang điểm đúng như một bà công chúa vậy. Bà có hai thị nữ đeo đầy ngọc ngà châu báu, mặc toàn những hàng gấm nhiễu thượng hảo hạng, rực cả một góc trời. Tóc họ xõa xuống vai giống như những tia mặt trời lung linh trước gió. Tuyệt nhất là họ cưỡi ba con ngựa quý nom vô cùng đẹp mắt. Thật là những giai nhân tuyệt thế. Không tìm đâu hơn, nhất là công chúa Đulxinêa, bà chủ tôi, ai nom cũng phải mê mẩn tâm thần.

- Xantrô con, ta đi nào, Đôn Kihôtê bảo; và dễ thường con người đã có công mang về cho ta những tin vui bất ngờ này, ta hứa sẽ cho con món chiến lợi phẩm mà ta sẽ giành được trong cuộc phiêu lưu sắp tới; nếu con chưa bằng lòng, ta sẽ thêm cả lứa đẻ năm nay của ba con ngựa cái của ta nữa. Hẳn con biết chúng sắp đẻ trên cánh đồng cỏ làng ta.

- Tôi chỉ xin nhận lứa đẻ của ba con ngựa cái thôi, Xantrô đáp, vì chiến lợi phẩm của cuộc phiêu lưu đầu tiên chắc gì đã tốt.

Lúc này, hai thầy trò ra khỏi khu rừng thì vừa gặp ba cô gái quê đi tới. Đôn Kihôtê giương mắt nhìn suốt dọc con đường đi Tôbôxô song chỉ thấy có ba cô này thôi, chàng bối rối hỏi Xantrô:

- Anh có bảo các bà ấy đợi bên ngoài thành không?

- Sao lại ở bên ngoài thành? Xantrô đáp. Họa chăng mắt ngài ở đằng sau gáy nên mới không nhìn thấy các bà đang đi tới, rực rỡ như mặt trời giữa ngọ.

- Ta chỉ thấy có ba ả thợ cày cưỡi ba con lừa thôi, Đôn Kihôtê nói.

- Chúa cứu thoát con khỏi quỷ dữ! Xantrô kêu lên. Làm sao ngài có thể trông ba con ngựa cái trắng như tuyết thành ba con lừa được? Nếu quả thật như vậy, tôi xin vặt trụi hết bộ râu này.

- Anh bạn ạ, Đôn Kihôtê bảo Xantrô, ta cam đoan với anh rằng đúng là lừa đực hoặc cái, cũng như ta là Đôn Kihôtê và anh là Xantrô Panxa vậy, ít nhất, ta cũng nhìn thấy thế.

- Thôi ngài đừng nói nữa, Xantrô bảo, hãy giụi mắt và đến bái yết chủ nhân của linh hồn ngài đi. Bà đã tới rồi đấy.

Nói rồi, bác tiến lên trước để đón ba cô gái quê; bác nhảy xuống đất, chạy xuống nắm cổ lừa của một cô gái, quỳ hai gối xuống đất rồi nói:

- Kính thưa hoàng hậu, công chúa, xin nàng hãy vui lòng gia ơn tiếp đãi hiệp sĩ nô lệ của nàng đang đứng như phỗng đá, lòng dạ bồn chồn, tim ngừng đập trước sự hiện diện rực rỡ của nàng. Tôi là giám mã Xantrô Panxa, chàng là hiệp sĩ khốn khổ Đôn Kihôtê xứ Mantra, còn có tên là hiệp sĩ Mặt buồn.

Lúc này, Đôn Kihôtê đã quỳ xuống bên cạnh Xantrô; chàng ngơ ngác và bối rối nhìn con người mà Xantrô gọi là hoàng hậu, công nương. Trước mắt chàng là một cô gái nhà quê, diện mạo chẳng lấy gì làm đẹp đẽ cho lắm, mặt béo phị, mũi tẹt dính; khiến chàng hết sức kinh ngạc mà không dám hé răng. Ba cô thợ cày cũng không kém phần kinh ngạc khi thấy có hai người đàn ông coi bộ lạ lùng như vậy quỳ gối giữa đường ngăn một cô trong số bọn họ lại. Để phá tan sự im lặng, cô này cau có nói:

- Rõ tội nợ chưa! Tránh ra cho người ta đi nào, đang vội đây.

- Ôi! Công chúa, công nương thập toàn của thành Tôbôxô! Xantrô nói! Sao! Tấm lòng hào hiệp của nàng không rung động trước cột trụ của ngành hiệp sĩ giang hồ đang quỳ gối trước dung nhan tuyệt vời ư?

- Này, con lừa cái kia, chị đập vào mặt cho bây giờ! Gớm chưa, các ông tướng lại định trêu gái quê này đấy! Tưởng các chị không biết trả miếng hẳn? Muốn yên lành, xê ra cho các chị đi.

- Thôi đứng dậy, Đôn Kihôtê bảo Xantrô; rõ ràng thần May rủi chưa buông tha ta và đã chặn hết các con đường có thể mang lại cho tâm hồn yếu đuối của ta một niềm sung sướng nào. Còn nàng, hỡi con người đức hạnh cực kỳ, kiều diễm tuyệt vời trên thế gian, phương thuốc duy nhất cho trái tim khô héo thờ phụng nàng! Nếu như có một tên pháp sư tinh quái có thể theo đuổi riêng ta và che lấp đôi mắt ta bằng những đám mây đen và những màng mộng khiến ta đứng trước dung nhan tuyệt thế của nàng chỉ nhìn thấy hình dáng một cô thợ cày nghèo khổ, và nếu như hắn không thay đổi hình dạng của ta thành một con quái vật khiến nàng phát kinh tởm, xin nàng hãy nhìn ta bằng đôi mắt dịu hiền và tình tứ. Như nàng đã thấy, vì ta mang lòng ngưỡng mộ nàng mà đã tự hạ mình quy phục và quỳ gối trước hình hài xấu xí của nàng.

- Thôi đi, bố già ơi! Cô gái quê đáp, tôi chỉ quen nghe những lời cục mịch thôi. Nào, làm ơn tránh đường cho chúng tôi đi.

Xantrô nhảy tránh sang một bên cho họ đi, bác lấy làm hài lòng vì đã rút ra khỏi thế bí một cách tốt đẹp. Thoát nợ, cô gái quê bị Xantrô gán cho là Đulxinêa vội thúc lừa bằng cái đầu nhọn và phi thẳng ra đồng. Cảm thấy đầu gậy thúc mạnh hơn thường lệ, con vật lồng lên, vật luônĐulxinêa xuống đất. Thấy vậy, Đôn Kihôtê chạy lại đỡ nàng dậy; Xantrô cũng tới nâng bộ yên bị tuột xuống dưới bụng con vật và ghì chặt lại. Thấy Đôn Kihôtê định bế mình lên bộ yên lúc này đã trở về vị trí cũ, nàng Đulxinêa bị phù phép, đứng phắt dậy và, để miễn cho chàng khỏi phải làm việc đó, nàng lùi lại mấy bước để lấy đà rồi, hai tay túm chặt mông con lừa, nhảy phắt lên yên nhẹ nhàng như chim ưng, hai chân quặp lấy mình con vật như đàn ông vậy.

- Thánh thật! Bà chủ tôi nhanh như cắt, các kị sĩ cừ khôi ở Corđôba hay Mêhicô cũng phải tôn làm thầy. Thoắt cái là bà nhảy phốc lên yên và chẳng cần đinh thúc, bà bắt con ngựa quý phi nhanh như ngựa vằn; hai cô thị nữ của bà cũng chẳng chịu lép, phi như gió.

Quả thật, khi Đulxinêa nhảy lên ngựa, hai cô liền dượt theo như tên bắn, quá nửa dặm vẫn chưa quay đầu lại. Đôn Kihôtê nhìn cho đến khi họ mất hút mới quay lại bảo giám mã:

- Xantrô, anh nhìn thấy lũ pháp sư thù ghét ta chưa? Xem đây, chúng độc ác và căm thù ta đến mức không cho ta có hạnh phúc được nhìn khuôn mặt thật tình nương của ta. Quả thật ta sinh ra để tượng trưng cho sự đau khổ và để làm mục tiêu cho những mũi tên rủi ro nhằm vào. Xantrô, anh phải biết rằng lũ phản trắc đó không chỉ làm biến dạng nàng Đulxinêa của ta mà còn hóa nàng thành một con người hạ lưu xấu xí, như cô nhà quê nọ; không những thế, chúng còn làm mất ở nàng một nét riêng biệt của các mệnh phụ quyền quý, đó là mùi hương vì rằng các bà này luôn luôn sống giữa hoa thơm cỏ lạ. Xantrô, ta nói như vậy khi ta tới đỡ nàng Đulxinêa lên cái mà anh gọi là ngựa quý (dưới mắt ta, nó chỉ là một con lừa), có mùi tỏi xông lên làm ta phải nhức đầu và quặn đau từng khúc ruột.

- Lũ súc sinh, Xantrô kêu lên, lũ pháp sư xấu xa và độc bụng kia! Mong sao chúng bay bị xâu cả vào một xiên như người ta xâu cá mòi vậy. Phải, lũ chúng bay khôn ngoan lắm, giỏi giang lắm và cũng gây nhiều tai họa lắm. Quân vô lại kia! Biến đôi mắt ngọc của bà chủ ta thành những mấu cây sồi điển điển, biến mái tóc vàng của bà thành những sợi lông đuôi bò đỏ hoe, biến những đường nét tuyệt đẹp thành xấu xí, như vậy chưa đủ sao? Nỡ nào chúng bay xúc phạm tới cả hương thơm trên người bà? Ít ra, khi ngửi thấy mùi thơm đó, người ta còn có thể đoán được con người thật nấp dưới cái vỏ xấu xí bên ngoài. Riêng ta thấy bà chẳng những không xấu xí mà rất đẹp là đằng khác, đã vậy, ở trên mép phải của bà có một nốt ruồi với bảy tám sợi lông vàng nom hệt như những sợi tơ vàng, dài tới hơn một gang tay, khiến bà đã đẹp lại càng xinh.

- Căn cứ vào sự đối xứng giữa mặt và thân thể người ta, Đôn Kihôtê nói, chắc là Đulxinêa còn có một nốt ruồi ở đùi cùng một bên với nốt ruồi ở mặt; tuy nhiên, lông mọc trên nốt ruồi không quá dài như anh tả đâu.

- Tôi có thể thưa với ngài là quả thật những sợi lông đó rất dài.

- Anh bạn ạ. Đôn Kihôtê bảo, ta tin lời anh vì rằng tất cả những cái gì tạo hóa đã ban cho nàng đều hoàn thiện hoàn mĩ cả; bởi thế, nếu nàng có một trăm nốt ruồi như anh đã tả đi chăng nữa, đó sẽ là những mặt trăng và những ngôi sao sáng lạn. Nhưng này, Xantrô, khi anh xếp lại bộ yên nom như yên lừa, anh có biết đó là loại yên nào không, yên thấp bằng da hay yên thường dùng cho đàn bà?

- Đó là loại yên cao, cốt bằng sắt, ngoài phủ một tấm vải trị giá bằng cả một nửa vương quốc, nom rất sang trọng, Xantrô đáp.

- Sao ta chẳng nhìn thấy gì cả! Đôn Kihôtê kêu lên. Thôi, ta nhắc lại và sẽ nhắc lại một nghìn lần rằng ta là con người bất hạnh nhất trên đời.

Bác giám mã quỷ quyệt phải cố bấm bụng nén cười trước những lời lẽ ngớ ngẩn của ông chủ bị lừa một cách tinh vi như vậy. Hai thầy trò tiếp tục bàn bạc hồi lâu rồi, người nhảy phắt lên ngựa, kẻ leo lên lừa, họ tiếp tục đi Xaragôxa, hy vọng tới đúng vào dịp thành phố nổi tiếng này mở hội hàng năm. Thế nhưng, trước khi tới đó, hai người còn gặp nhiều chuyện quan trọng khác đáng ghi nhớ và đáng đọc như ta sẽ thấy.


--------------------------------
1. Lần trước, Xantrô không hề gặp nàng Đulxinêa và khi trở về gặp lại chủ trên núi Môrêna, bác đã bịa ra câu trả lời - Xem chương XXXI, tập I.

2.Đôi khi, Xantrô dùng tục ngữ không đúng chỗ, như trong trường hợp này

3. Xantrô nói ngược, đáng lẽ phải nói: ai đói cho ăn, ai khát cho uống.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes


Chương XI

NÓI VỀ CUỘC GẶP GỠ GIỮA CHÀNG ĐÔN KIHÔTÊ DŨNG CẢM VỚI CỖ XE CỦA TRIỀU ĐÌNH THẦN CHẾT



Đi đường, Đôn Kihôtê tỏ ra rất tư lự. Nghĩ tới lũ pháp sư định chơi khăm biến nàng Đulxinêa của chàng thành một cô nhà quê xấu xí, chàng không biết sẽ làm cách nào để cho nàng trở lại nguyên hình. Đầu óc vẫn còn vấn vương những ý nghĩ đó, tay chàng buông cương ngựa lúc nào không hay. Được thả lỏng, Rôxinantê đi một bước lại thả lỏng một bước để gặm cỏ non mọc đầy đồng.

Còn đang mải mê suy nghĩ, bỗng đâu tiếng của Xantrô Panxa vang lên làm chàng sực tỉnh:

- Thưa ngài, súc vật không biết buồn, chỉ con người ta mới biết buồn, song nếu như con người ta quá ư buồn phiền thì sẽ trở thành loài vật. Xin ngài hãy bình tâm lại và nắm chắc dây cương con Rôxinantê. Hãy trở lại tỉnh táo, sáng suốt và tỏ ra cả quyết cho đáng mặt một hiệp sĩ giang hồ. Thế là cái quái gì? Cớ sao phải ngã lòng! Chúng ta đang ở Tây Ban Nha chứ có đang ở bên Pháp đâu! Thà để cho quỷ xa tăng tha hết các bà trên đời này đi, vì rằng sức khỏe của hiệp sĩ giang hồ còn quý hơn mọi sự phù phép và mọi sự thay hình đổi dạng.

- Im đi, Xantrô, Đôn Kihôtê đáp lại bằng một giọng không êm ái lắm. Ta bảo anh im mồm đi và không được xúc phạm tới người bị phù phép. Chính ta đây đã gây ra cho nàng nỗi bất hạnh rủi ro này; chỉ vì kẻ xấu ghen ghét nên nàng đã gặp điều không may.

- Tôi cũng nghĩ vậy, Xantrô nói, có ai nhìn thấy nàng trước kia và nhìn thấy nàng ngày hôm nay mà không đau lòng không?

- Xantrô, anh có đủ thẩm quyền để nói câu đó; Đôn Kihôtê bảo; anh đã được nhìn thấy dung nhan nguyên vẹn của nàng vì khi đó anh chưa bị pháp thuật làm cho rối mắt và nàng cũng chưa thay hình đổi dạng. Sức mạnh độc hại của pháp thuật chỉ nhằm đả vào ta và đôi mắt ta mà thôi. Tuy nhiên, Xantrô ạ, có điều làm ta suy nghĩ, đó là anh đã tả không đúng về sắc đẹp của nàng vì nếu ta nhớ không nhầm, anh đã bảo rằng nàng có đôi mắt hại trai. Mắt giống hạt trai là mắt cá hồng chứ không phải mắt đàn bà. Theo ta, mắt nàng Đulxinêa phải là mắt bồ câu màu ngọc bích, với đôi lông mày hình cầu vồng; hãy chuyển những hạt trai đó từ đôi mắt sang hàm răng, vì chắc chắn anh đã nhầm với mắt nàng.

- Có thể lắm, Xantrô đáp, vì nhan sắc của bà đã làm tôi rối mắt cũng như hình thù xấu xí của bà đã làm ngài rối trí. Nhưng thôi, ta hãy nhờ Thượng đế phù hộ cho; Người nhìn thấu mọi việc xảy ra trên cõi khổ ải này của chúng ta, nơi mà hầu như việc gì cũng xen vào sự xấu xa, giả dối, lọc lừa. Thưa ngài, có một điều làm tôi băn khoăn suy nghĩ hơn cả là không hiểu ta sẽ làm ăn ra sao một khi ngài đánh bại một tên khổng lồ hoặc một hiệp sĩ và bắt chúng đến trình diện trước dung nhan của bà Đulxinêa. Tên khổng lồ hoặc anh hiệp sĩ khốn khổ bại trận kia tìm đâu cho thấy bà. Tôi tưởng tượng nhìn thấy họ đi lang thang khắp thành Tôbôxô như những thằng ngốc để đi tìm bà chủ Đulxinêa của tôi, và dù chúng có gặp bà ở giữa đường cũng chẳng nhận ra, khác nào chúng gặp bố tôi vậy.

- Xantrô ạ, có lẽ phép thuật không ảnh hưởng tới những tên khổng lồ và những hiệp sĩ bại trận, và một khi chúng đến trình diện, chắc chắn sẽ nhận ra nàng Đulxinêa. Khi nào ta đánh bại được một hay hai địch thủ đầu tiên, ta sẽ bắt chúng đi tìm nàng để xem chúng có nhận ra không, sau đó chúng phải trở về đây báo cáo cho ta tình hình diễn biến.

- Thưa ngài, tôi thấy ý kiến của ngài rất hay. Bằng mẹo đó, thầy trò ta sẽ đạt ý muốn. Nếu như bà ta chỉ thay hình đổi dạng trước mặt ngài tức là chỉ riêng ngài phải chịu nỗi bất hạnh. Bà Đulxinêa khỏe mạnh và yêu đời, thầy trò ta cứ yên trí đi tìm những chuyện phiêu lưu mạo hiểm, mặc cho thời gian giải quyết mọi chuyện, vì đó là phương tiện hiệu nghiệm nhất để dẹp tan mọi ưu phiền.

Đôn Kihôtê đang định lên tiếng trả lời Xantrô Panxa, bỗng đâu có một cỗ xe xuất hiện ngay phía trước, trên xe chất đầy những nhân vật kỳ lạ mà trí tưởng tượng có thể hình dung được. Đánh xe và điều khiển lừa kéo là một con quỷ xấu xí, xe để trần, chẳng có vải liếp che mui. Nhân vật thứ nhất xuất hiện trước mặt Đôn Kihôtê là thần Chết có bộ mặt người; một bên là thiên thần mang đôi cánh to vẽ sơn; một bên là một vị hoàng để đội vương miện nom như thể bằng vàng; dưới chân thần Chết là thần Cupiđô [SUP]1[/SUP] không đeo dải bịt mắt nhưng có mang cung, tên và ống tên; lại có một hiệp sĩ mình đầy vũ khí, đầu đội chiếc mũ lông sặc sỡ thay cho mũ sắt; ngoài ra còn có một số nhân vật với y phục và hình thù khác nhau. Cảnh tượng bất kỳ này không làm cho Đôn Kihôtê bối rối và Xantrô lo sợ. Nhưng chàng hiệp sĩ lại thấy mừng, nghĩ rằng mình đã gặp được một chuyện phiêu lưu mạo hiểm mới nào đây. Với ý nghĩ đó và với tinh thần sẵn sàng lao vào mọi hiểm nghèo, chàng chặn cỗ xe lại, đùng đùng thét lớn:

- Tên phu xe hay con quỷ kia, dù mi là ai cũng phải khai ngay cho ta biết mi làm gì, ở đâu, cả đám trên xe là ai. Xe pháo gì mà trông cứ như thuyền của Carôn [SUP]2[/SUP] vậy.

Con quỷ [SUP]3[/SUP] dừng xe lại, từ tốn đáp:

- Thưa ngài, chúng tôi là những con hát gánh Angulô el Malô. Sáng nay, nhân tuần tám ngày kinh Thánh thể, chúng tôi có diễn vở Triều đình thần Chết tại một làng ở đằng sau quả đồi kia; chiều này, chúng tôi diễn lại vở kịch đó tại làng phía trước mặt đây. Để đỡ tốn công phải hóa trang lại trên đường đi, chúng tôi cứ để nguyên áo quần biểu diễn. Anh chàng trai trẻ kia sắm vai thần Chết, một anh khác sắm vai thiên thần, bà vợ ông bầu gánh hát kia là hoàng hậu, một người khác là lính, ông này là hoàng đế, còn tôi thủ vai con quỷ. Tôi là một trong những vai chính của vở kịch và trong gánh hát này, thường sắm những vai chính. Nếu ngài muốn biết gì thêm về chúng tôi, xin cứ hỏi, tôi sẽ trả lời đầy đủ. Việc gì tôi cũng biết, tôi là quỷ mà.

- Lấy danh dự của một hiệp sĩ giang hồ, Đôn Kihôtê nói, khi nhìn thấy cỗ xe, tôi cứ nghĩ mình gặp một chuyện phiêu lưu ghê gớm lắm đây. Lúc này, tôi muốn nói rằng cần phải sờ sự vật tận tay mới biết là mình đã nhầm. Thôi, chào những con người lương thiện, chúc các bạn vui vẻ tham gia ngày hội. Nếu các bạn thấy tôi có thể giúp ích gì cho các bạn, xin cứ bảo, tôi rất vui lòng vì hồi còn nhỏ, tôi rất thích chơi trò hóa trang và thời niên thiếu, tôi cũng rất mê xem kịch.

Hai bên còn đang trao đổi, run rủi sao có một diễn viên trong gánh hát đi tới; anh chàng này ăn mặc rất ngộ nghĩnh, chuông khánh đầy người, tay cầm một cái gậy có ba quả bong bóng bò to phồng treo lơ lửng trên đầu. Khi tới trước mặt Đôn Kihôtê, anh ta vừa nhẩy nhót vừa vung gậy múa tít, ba quả bóng bỗng đập chan chát xuống đất, chuông khánh rung lên. Trước cảnh tượng hãi hùng đó, con Rôxinantê phát hoảng, chồm lên khiến Đôn Kihôtê không sao ghìm được, thế là nó băng qua cánh đồng với một sự lẹ làng mà ta không hi vọng ở một thân hình xương xẩu như vậy. Thấy chủ có nguy cơ sắp ngã, Xantrô từ trên lưng lừa nhảy vội xuống, ba chân bốn cẳng chạy theo để cứu, tới nơi thì Đôn Kihôtê đã nằm kềnh dưới đất cùng với con ngựa. Âu cũng là kết quả tự nhiên với những hành động hăng hái và táo bạo của Rôxinantê.

Xantrô vừa đặt chân xuống đất để đi cứu Đôn Kihôtê, chú hề múa bong bóng bèn nhảy tót lên lưng con lừa, cứ nhè ba quả bong bóng vào người nó mà quật. Con vật, sợ hơn là đau, phi như bay về phía làng sắp mở hội. Nhìn đi thấy con lừa của mình đang biến mất, ngoảnh lại thấy ông chủ đang nằm dưới đất, Xantrô không biết giải quyết vấn đề nào trước. Nhưng vốn là một giám mã trung thành, một nô bộc có nghĩa tình của bác đối với chủ đã thắng tình thương con lừa, tuy rằng mỗi khi thấy quả bong bóng bay lên trời rồi lại ập xuống mông nó, bác cảm thấy đau lòng xót dạ muốn chết, mong sao những ngón đòn đó nhè vào con ngươi mình còn hơn nhè vào sợi lông đuôi bé nhỏ của con vật. Lòng buồn rười rượi, bác lại chỗ Đôn Kihôtê nằm thì thấy tình trạng của chủ bị đát quá sức tưởng tượng; bác đỡ chàng leo lên con Rôxinantê và bảo:

- Thưa ngài, con quỷ đem mất lừa đi rồi.

- Quỷ nào? Đôn Kihôtê hỏi.

- Con quỷ có những cái bong bóng ấy mà, Xantrô đáp.

- Thế thì ta sẽ đòi lại, Đôn Kihôtê bảo, dù nó mang con lừa đi trốn trong những hầm sâu kín nhất của địa ngục, Xantrô, hãy theo ta. Xe của chúng đi chậm và ta sẽ đền bù sự mất mát của anh bằng những con la kéo chiếc xe đó.

- Ngài ơi, ngài chả cần phải ra tay làm việc đó, Xantrô nói; xin ngài hãy nguôi giận vì tôi thấy hình như con quỷ đã thả lừa ra, và con vật đang quay đầu về chuồng.

Quả thật như vậy; nguyên nhân là con quỷ cũng ngã theo con lừa, bắt chước Đôn Kihôtê và Rôxinantê. Và thế là con quỷ phải cuốc bộ đến làng, còn con lừa quay về với chủ nó.

- Dù sao cũng phải trừng trị sự láo xược của con quỷ này bằng cách hỏi tội một trong số những tên ở trên xe, dù kẻ đó là hoàng đế, Đôn Kihôtê nói.

- Thôi xin ngài từ bỏ ý định ấy đi, Xantrô nói, và hãy nghe lời tôi đây: không bao giờ nên tranh cãi với đám con hát vì chúng được ưu đãi lắm. Tôi đã thấy có đứa bị bắt vì giết hai mạng người, thế mà rồi nó lại được tha bổng, chẳng mất xu nào cả. Ngài phải biết rằng bọn họ là những người mang lại sự vui nhộn cho nên ai cũng quý trọng, ai cũng che chở, giúp đỡ, yêu mến. Nếu họ thuộc những gánh hát lớn được phép của Đức vua thì còn hơn thế nữa, trông người nào ăn mặc, nói năng cũng như ông hoàng bà chúa cả.

- Mặc, Đôn Kihôtê nói, ta không thể để con quỷ nhả nhớt kia tự do chế giễu ta dù cho cả loài người bênh vực nó.

Nói rồi, chàng đuổi theo cỗ xe lúc này đã đi gần tới làng; tới nơi, chàng lớn tiếng thét:

- Dừng lại, chờ lấy, hỡi đám tiện dân nhả nhớt kia, để ta dạy cho các người cách đối xử với những con lừa và những con vật dành cho các giám mã của các hiệp sĩ giang hồ cưỡi.

Đôn Kihôtê thét rất to khiến mọi người trên xe đều nghe rõ. Trước lời lẽ hung hăng của Đôn Kihôtê, bọn này đoán biết được ý đồ của chàng. Lập tức, họ nhảy xuống đất, trước tiên là thần Chết, theo sau là hoàng đế, rồi đến con quỷ đánh xe và thiên thần, kể cả hoàng hậu và thần ái tình, tất cả lăm lăm cầm đá dàn thành thế trận, sẵn sàng đón tiếp Đôn Kihôtê bằng những viên đá nhọn hoắt. Nhìn tư thế hiên ngang của đội kỵ binh này, người nào người nấy giơ tay cao sắp sửa lăn những viên đá vào mình, Đôn Kihôtê ghì chặt cương con Rôxinantê lại để nghĩ cách tấn công nào đỡ nguy hiểm nhất cho bản thân. Vào lúc đó, Xantrô tới; thấy chủ sắp xông vào đội quân hàng ngũ tề chỉnh, bác nói:

- Ông chủ ơi, làm một việc như vậy thật là quá điên rồ. Xin ngài hãy nghĩ rằng không có một thứ vũ khí tự vệ nào trên đời này có thể chống lại được những hòn đá lớn, đá nhỏ kia đâu, trừ phi rúc vào một quả chuông bằng đồng. Ngài nên nghĩ thêm rằng một người chọi với cả đạo quân gồm có thần Chết, lại có cả hoàng đế tham gia và các thiên thần tốt cũng như xấu phù trợ thì không phải là can đảm mà là liều lĩnh. Nếu như những lý do đó không đủ để ngài dừng tay lại, xin ngài biết cho rằng trong tất cả đám này, dù họ có vẻ vua, chúa, hoàng đế thật, song không có ai là hiệp sĩ giang hồ cả.

- Xantrô, anh đã đưa ra lý do vững chắc khiến ta có thể và phải thay đổi quyết định không thể lay chuyển của ta, Đôn Kihôtê bảo. Như ta đã nhiều lần nói với anh, ta không thể và không được rút gươm đánh một kẻ không phải là hiệp sĩ. Đấy là việc của anh nếu như anh muốn báo thù cho con lừa bị xúc phạm. Còn ta, ta sẽ đứng ngoài ủng hộ anh bằng những câu nói và lời khuyên bổ ích.

- Có gì mà phải báo thù, Xantrô đáp; một con chiên ngoan đạo không trả thù khi bị xúc phạm; không những thế, tôi sẽ điều đình với con lừa để cho tôi giải quyết việc xúc phạm này theo ý muốn của tôi, tức là sống yên lành những ngày mà Chúa cho tôi được sống.

- Ôi, Xantrô, anh thật hiền lành, khôn ngoan, mộ đạo và trung thực. Nếu anh đã quyết định như vậy thì thôi; ta không đếm xỉa gì đến lũ ma quái này nữa. Thầy trò ta hãy lên đường đi tìm những chuyện phiêu lưu mạo hiểm hay ho hơn. Ta cảm thấy đất này không thiếu những chuyện kỳ lạ đâu.

Nói rồi, Đôn Kihôtê quay ngựa, Xantrô thu hồi con lừa của mình. Thần Chết và cả đội kỵ binh đặc biệt cũng lên xe tiếp tục của hành trình. Và thế là cuộc gặp gỡ rùng rợn với cỗ xe thần Chết đã kết thúc một cách tốt đẹp nhờ có lời khuyên bổ ích của Xantrô Panxa. Nhưng hôm sau, Đôn Kihôtê lại gặp một hiệp sĩ giang hồ si tình, chuyện này cũng hồi hộp không kém chuyện trên.


--------------------------------
1. Thần ái tình.
2. Thuyền của Carôn chuyên chở linh hồn người chết xuống âm phủ.
3. Tức người đánh xe.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes

Chương XII

NÓI VỀ CUỘC GẶP MẶT KỲ LẠ GIỮA CHÀNG ĐÔN KIHÔTÊ DŨNG CẢM VÀ HIỆP SĨ GƯƠNG SÁNG ANH HÙNG


Đêm hôm xảy ra cuộc gặp gỡ với thần Chết, Đôn Kihôtê và giám mã nghỉ chân dưới một khóm cây cao um tùm. Nghe lời Xantrô khuyên, chàng hiệp sĩ ăn thức ăn dự trữ do con lừa mang theo. Giữa bữa ăn, Xantrô nói với chủ:

- Thưa ngài, tôi quả là ngốc nên mới nhận món quà chiến lợi phẩm mà ngài đã giành được trong cuộc phiêu lưu đầu tiên, nhận lứa đẻ của ba con lừa mới đúng vì rằng con chim con trong tay còn hơn con quạ bay trên trời.

Đôn Kihôtê đáp lại:

- Xantrô, nếu anh cứ chiến đấu theo ý ta, ít ra trong số chiến lợi phẩm cũng có chiếc vương miện bằng vàng của hoàng hậu và đôi cánh vẽ sơn của Cupiđô mà ta sẽ vặt ngược và trao tận tay anh.

- Những vương trượng và vương miện của các vị hoàng đế trên sân khấu chẳng cần làm bằng những chất liệu quý; đó là đồ giả, hào nhoáng bên ngoài, cũng như vở kịch vậy.

- Nhân nói đến kịch, ta muốn rằng anh phải quý trọng nó, từ đó phải quý trọng những người diễn kịch và soạn kịch vì rằng tất cả những người đó đều làm lợi cho nước nhà. Họ đặt một tấm gương trước mặt chúng ta để ta soi từng bước đi, và trong gương hiện lên mọi hoạt động của cuộc sống rõ mồn một. Để tả chân con người thật của chúng ta và con người mà chúng ta phải vươn tới, không gì bằng kịch và các diễn viên kịch. Không ư? Nghe ta nói đây: chắc anh đã xem diễn một vở kịch trong đó các vị vua, chúa, hoàng đế, giáo trưởng, các bà mệnh phụ cùng bao nhiêu nhân vật khác rồi chứ? Người đóng vai ăn chơi đàng điếm, kẻ đóng vai bịp bợm, lọc lừa, anh này làm người bán hàng, anh kia làm lính, có anh đóng vai một kẻ khờ dại ăn người, anh khác sắm vai si tình. Và khi diễn xong vở kịch, trút bỏ quần áo ra, mọi diễn viên đều như nhau cả.

- Có, tôi xem rồi, Xantrô đáp.

- Trong cuộc đời cũng vậy, Đôn Kihôtê nói tiếp. Có những người làm vua, có những người làm giáo trưởng, tóm lại, có đủ các nhân vật như ta thường thấy trong kịch. Họ khác nhau ở tấm áo manh quần. Thế nhưng, cuối cùng, khi cuộc đời họ kết thức, trước cái chết, họ phải trút bỏ áo quần ra và dưới mồ, ai cũng như ai cả thôi.

- Ngài so sánh như vậy thì tuyệt, Xantrô nói, tuy nhiên điều đó không mới mẻ gì với tôi vì tôi đã từng nghe nhiều lần, cũng giống như ta đánh cờ vậy; khi đang chơi, mỗi quân cờ có vai trò riêng nhưng khi ván cờ kết thúc, người ta lại xáo trộn các quân cờ rồi nhét vào một cái túi như thể người ta chôn người chết xuống dưới đất vậy.

- Xantrô, mỗi ngày anh lại bớt dại đi và khôn hơn lên, Đôn Kihôtê bảo.

- Đúng vậy, tôi lây cái khôn của ngài đấy, Xantrô đáp. Những mảnh đất khô cằn được chăm bón tốt sẽ đâm hoa kết quả. Tôi muốn nói rằng những câu phát biểu của ngài là phân bón rắc trên mảnh đất khô cằn của trí tuệ của tôi; thời gian vun trồng mảnh đất đó là thời gian tôi hầu hạ ngài và sống bên ngài, và tôi hi vọng sẽ được thu hoạch những trái cây thơm ngọt, đi đúng theo hướng dạy dỗ ưu việt mà ngài đã dành cho bộ óc rỗng tuyếch của tôi.

Nghe những lời phát biểu kiểu cách của Xantrô, Đôn Kihôtê không nín được cười mặc dù chàng cảm thấy Xantrô có những tiến bộ thật như bác tự nhận vì có lúc chàng phải ngạc nhiên khi nghe bác nói. Tuy vậy, mỗi khi Xantrô định nói năng kiểu cách theo lối các thí sinh đi thi, bác thường bị vấp, và khi nghe bác nói xong, người ta cảm thấy bác đã lao từ đỉnh cao của sự ngớ ngẩn xuống vực thẳm của sự dốt nát. Thế nhưng lời nói của bác trở nên đậm đà có duyên khi bác dùng những câu tục ngữ, dù hợp hay không hợp, như người ta đã nhận thấy trong khi đọc cuốn sách này.

Hai người nói chuyện với nhau gần hết đêm cho tới lúc Xantrô muốn "hạ những bức rèm của đôi mắt" như bác thường nói khi muốn đi ngủ. Bác liền tháo yên lừa cho con vật được tự do gặm cỏ mọc đầy đồng. Rôxinantê vẫn mang bộ yên trên mình vì Đôn Kihôtê cấm ngặt không được tháo ra chừng nào cả hai thầy trò còn đang trong tình trạng chiến đấu và không ngủ dưới mái nhà, theo lệ xưa do các hiệp sĩ giang hồ vẫn quy định và thực hiện. Tháo yên ngựa treo vào cốt yên thì được, nhưng tháo ra, chớ! Xantrô làm đúng như vậy, và thế là con Rôxinantê cũng được hưởng tự do như con lừa. Tình bạn giữa con Rôxinantê và con lừa khăng khít có một cho nên nghe đâu theo truyền thống gia đình, tác giả cuốn truyện có thật này đã dành riêng mấy chương để viết về mối tình đó; tuy nhiên, để đảm bảo tính nghiêm túc của cuốn sách này, ông đã không cho vào đây. Song đôi lúc, ông sơ xuất không làm đúng ý định của mình và đã viết như sau: hai con vật xích lại gần nhau và gãi cho nhau chán chê mê mỏi, rồi Rôxinantê ghếch cổ mình lên cổ lừa (cổ Rôxinantê vươn dài tới gần một thước); cả hai con cứ chăm chăm xuống đất như thể chúng vẫn quen đứng như vậy suốt ba ngày liền, hoặc ít nhất trong suốt thời gian không ai động đến chúng, hay kiếm ăn trong suốt thời gian mà cái bụng không buộc chúng phải đi kiếm ăn. Người ta đồn là tác giả đã ví tính thân thiện của Rôxinantê và con lừa với Nixô và Ôrialô, với Pilađêx và Orextêx. Nếu quả như vậy, ta có thể thấy tình bạn giữa hai con vật nhu mì cũng bền vững biết bao, đáng để cho mọi người khâm phục và cho những ai không biết giữ gìn tình bằng hữu phải hổ thẹn vì người ta thường nói:

"Bạn bè là cái nợ nần
Bề ngoài thơn thớt, ngấm ngầm gươm đao".

Có người lại nói:

"Chớ tin cái vỏ bề ngoài...".

Ta cũng đừng cho rằng tác giả đi lệch khi đem so sánh tình bạn của những con vật này với tình bạn của con người vì rằng loài người đã được xúc vật chỉ bảo dạy dỗ cho nhiều điều quan trọng; con cò có tinh thần tương trợ, con chó có nghĩa, con hạc cảnh giác cao, con kiến lo xa, con voi ngay thẳng, con ngựa trung thành.

Cuối cùng, Xantrô ngủ bên gốc một cây sồi điển điển, còn Đôn Kihôtê ngủ bên gốc một cây sồi. Chàng hiệp sĩ vừa chợp mắt được một lát, bỗng đâu có tiếng động sau lưng khiến chàng sực tỉnh, chàng đứng phắt dậy, vừa nhìn vừa nghe tiếng động phát ra từ đâu thì thấy có hai người cưỡi ngựa đi tới, rồi một trong hai người đó gieo mình từ trên yên xuống đất và nói với người kia:

- Anh bạn ơi, hãy xuống ngựa và tháo dây cương ra. Ta cảm thấy nơi đây có nhiều cỏ cho chúng và có đủ sự yên lặng quạnh hiu cần thiết cho ta nghĩ tới tình nương của ta.

Vừa nói, người đó đã nằm vật ra đất khiến cho vũ khí trên người chàng va vào nhau kêu loảng xoảng. Trước cảnh tượng ấy, Đôn Kihôtê biết ngay là một hiệp sĩ giang hồ; chàng bèn lại chỗ Xantrô ngủ, lay mỏi tay bác mới tỉnh, khẽ bảo:

- Người anh em Xantrô ơi, chúng ta gặp chuyện phiêu lưu rồi.

- Cầu Chúa đem đến cho thầy trò ta một chuyện tốt lành, Xantrô nói. Thưa ông chủ, thế cái bà phiêu lưu ấy đâu?

- Còn đâu nữa! Đôn Kihôtê đáp. Quay mặt lại nhìn, anh sẽ thấy có một hiệp sĩ giang hồ nằm dài dưới đất mà ta đồ chừng có một chuyện không vui lắm vì thấy chàng gieo mình từ trên ngựa xuống và nằm lăn ra, nét mặt rầu rĩ, vũ khí trên người kêu loảng xoảng.

- Thế ngài thấy có cái gì mà bảo là chuyện phiêu lưu? Xantrô hỏi.

- Ta không định nói rằng đã có chuyện phiêu lưu mà đây là giai đoạn mở đầu, Đôn Kihôtê đáp. Những chuyện phiêu lưu đều bắt đầu như vậy. Nhưng, nghe kìa, hình như chàng đang lên dây một cái đàn tì bà hay lục huyền cầm thì phải, chàng lại khạc nhổ và đằng hắng, chắc là chuẩn bị hát một bài gì đó.

- Quả có thể, Xantrô nói, chắc hẳn đây là một hiệp sĩ si tình.

- Hiệp sĩ nào chẳng si tình, Đôn Kihôtê bảo. Thôi ta hãy nghe xem sao, nếu chàng hát, ta có thể qua lời ca tiếng hát mà dự đoán được tâm tư của chàng vì rằng những điều suy nghĩ trong lòng thường được bộc lộ qua lời nói.

Xantrô chưa kịp bẻ lại chủ thì đã nghe tiếng hát của hiệp sĩ Sơn Lâm vang lên, không hay lắm cũng chẳng dở lắm. Hai thầy trò lắng tai nghe thì thấy chàng hát như sau:

"Nàng đã vạch ra cho ta con đường đi theo ý muốn của nàng; ta hứa sẽ làm đẹp lòng nàng vì ý muốn của nàng là ý muốn của ta".

"Nếu nàng muốn ta phải chết ôm theo mối hận trong lòng, xin hãy coi ta đã qua đời; còn nếu nàng muốn ta nói lên nỗi hận lòng này, ta sẽ nhờ Tình yêu giãi tỏ hộ ta".

"Trải qua bao thử thách, ta đã trở thành sáp mềm hoặc đá rắn, và trước những luật lệ của tình yêu, ta xin cúi đầu khuất phục".

"Mềm hay rắn, ta xin dâng nàng trái tim để tùy nàng cắt gọt ghi khắc, và ta sẽ giữ nó trọn đời".

Hiệp sĩ Sơn Lâm kết thúc bài hát bằng hai tiếng "than ôi", tưởng như rứt từ đáy lòng. Lát sau, chàng cất giọng bi ai não ruột, than rằng:

- Ôi, con người xinh đẹp nhất đời cũng như bạc bẽo nhất đời! Hỡi nàng Caxilđêa đê Valđalia cao quý, nỡ lòng nào nàng để cho kẻ hiệp sĩ nô lệ của nàng chết dần chết mòn vì phải sống cuộc đời lang thang, nhọc nhằn, cơ cực! Nàng chưa hài lòng sao? Vì ta mà tất cả các hiệp sĩ ở Navara, Lêôn, Tartêxiđê, Caxtiia, và cuối cùng, các hiệp sĩ xứ Mantra phải công nhận nàng là người xinh đẹp nhất trên đời.

Nghe tới đó, Đôn Kihôtê phải đối:

- Làm gì có chuyện ấy. Chính ta là người Mantra và ta không hề, không phải và không thể công nhận một điều gây phương hại đến sắc đẹp của tình nương của ta. Xantrô, anh thấy đấy, chàng hiệp sĩ kia nói láo. Nhưng, hãy nghe đã, chắc là chàng còn nói gì nữa.

- Nhất định rồi, Xantrô bảo; cứ cung cách này, ông ta còn than vãn cả tháng liền.

Thế nhưng không; thoáng nghe có tiếng người nói ở gần, hiệp sĩ Sơn Lâm ngừng thở than và đứng dậy cất tiếng từ tốn hỏi:

- Ai đó? Những con người nào đấy? Phải chăng là những con người sung sướng hay những kẻ khốn khổ?

- Những kẻ khốn khổ, Đôn Kihôtê đáp.

- Nếu vậy, xin hãy đến đây với tôi, hiệp sĩ Sơn Lâm nói. Các ngài là hiện thân của sự buồn rầu, đau khổ.

Nghe câu trả lời vừa tế nhị, vừa nhã nhặn, Đôn Kihôtê bèn tiến lại; Xantrô cũng làm theo chủ.

Hiệp sĩ buồn rầu nắm cánh tay Đôn Kihôtê nói:

- Xin mời hiệp sĩ ngồi xuống, chỉ cần nhìn thấy ngài ở nơi đây cũng biết ngài là hiệp khách và là một trong những người theo nghề hiệp sĩ giang hồ, vì rằng cảnh hoang vắng âm u xưa nay là bầu bạn, là giường ngủ, là nơi trú ngụ của họ.

Đôn Kihôtê đáp lại:

- Vâng, tôi là hiệp sĩ và làm cái nghề mà ngài vừa nói. Lòng tôi tràn ngập đau thương buồn tủi, song không phải vì thế mà không xót thương nỗi bất hạnh của người khác. Nghe ngài hát lúc nãy, tôi hiểu rằng nỗi bất hạnh của ngài thuộc lĩnh vực tình yêu, tôi muốn nói rằng nó bắt nguồn từ mối tình của ngài đối với người đẹp đã phụ bạc ngài mà ngài đã nhắc tôi qua những lời than vãn.

Nhìn hai chàng ngồi trò chuyện sát bên nhau trên nền đất rắn đanh, có vẻ tâm đầu ý hợp lắm, không ai ngờ sáng hôm sau họ lại có thể đánh nhau vỡ đầu xẻ tai được.

Lúc này, hiệp sĩ Sơn Lâm hỏi Đôn Kihôtê:

- Thưa ngài hiệp sĩ, phải chăng ngài đang yêu?

- Than ôi, đúng như vậy, Đôn Kihôtê đáp, tuy rằng những đau khổ phát sinh từ nhiều ý nghĩ tốt lành phải được coi là điều tốt chứ không phải điều xấu.

- Quả thật như vậy, hiệp sĩ Sơn Lâm nói, nếu như một khi bị hắt hủi, ta không mất lý trí và lẽ phải. Sự hắt hủi quá mức giống như trả thù vậy.

- Tôi không hề bị tình nương hắt hủi, Đôn Kihôtê đáp.

Xantrô đứng bên cạnh chủ, nói thêm:

- Chắc chắn là không vì bà chủ tôi hiền như một con cừu cái và mềm mại hơn cả mỡ bò.

- Anh này là giám mã của ngài đấy ư? - Hiệp sĩ Sơn Lâm hỏi.

- Thưa phải, Đôn Kihôtê đáp.

- Tôi chưa bao giờ thấy có giám mã nào dám nói leo vào câu chuyện của chủ, hiệp sĩ Sơn Lâm bảo; giám mã của tôi đây to lớn như hộ pháp, thế mà không ai thấy anh ta hé môi khi tôi nói chuyện cả.

- Đúng là tôi nói đấy, Xantrô đáp, và tôi có thể nói trước mặt người khác nữa. Nhưng thôi, xếp chuyện đó lại, bới ra làm gì?

Anh giám mã của hiệp sĩ Sơn Lâm nắm cánh tay Xantrô, bảo:

- Thôi, bọn giám mã chúng mình hãy đi kiếm chỗ nào để có thể nói chuyện với nhau thoải mái, mặc hai ông chủ kể lể với nhau những chuyện tình duyên của họ. Chắc chắn đến sáng họ cũng chưa dứt đâu.

- Hay lắm, Xantrô nói; rồi tôi sẽ cho bác biết tôi là người như thế nào, để bác xem tôi có thua kém gì những giám mã hay nói nhất hay không.

Rồi hai người bỏ đi chỗ khác; và trong lúc chủ họ đang đàm đạo với nhau rất nghiêm túc, hai giám mã trò chuyện với nhau rất vui vẻ.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes


Chương XIII

Kể tiếp về hiệp sĩ Sơn Lâm và cuộc đối thoại lý thú, độc đáo và tình cảm giữa hai giám mã




Thế là hiệp sĩ ngồi một nơi, giám mã đi một nẻo, giám mã kể cho nhau về thân thế của mình, còn hiệp sĩ kể cho nhau về những cuộc tình duyên của họ. Sách kể trước câu chuyên giữa hai người hầu rồi sau mới kể câu chuyện giữa hai ông chủ, như sau: khi cách xa chủ một quãng, giám mã của chàng Sơn Lâm bảo Xantrô:

- Thưa ngài, cuộc đời của chúng ta, những giám mã của hiệp sĩ giang hồ, thật là gian truân vì chúng ta phải đổi mồ hôi lấy miếng ăn. Quả thật đây là một trong những nỗi khổ cực mà Chúa bắt ông cha ta phải chịu.

- Cũng có thể nói rằng chúng ta phải đổi cái nghề rét ghê người lấy miếng ăn, Xantrô tố thêm. Thử hỏi ai phải chịu nóng chịu lạnh hơn các giám mã của ngành hiệp sĩ giang hồ? Ví thử kiếm được miếng ăn thì còn khá vì ăn làm dịu nỗi khổ đau, đằng này, có khi một hai ngày liền chẳng có gì cho đỡ đói lòng, chỉ ăn gió mà thôi.

- Ta có thể chịu đựng được tất cả những cái đó nếu có hi vọng được thưởng, giám mã của Sơn Lâm nói, vì nếu chủ ta là một hiệp sĩ giang hồ không quá vong ân, chỉ trong một thời gian ngắn, ít ra ta sẽ được phong chức thống đốc một hòn đảo xinh đẹp hoặc làm bá tước của một vùng lãnh địa trù phú nào đó.

Xantrô nói:

- Tôi đã nói với ông chủ tôi rằng tôi chỉ cai trị một hòn đảo là đủ rồi, nhưng ông ta lại quá tốt bụng và rộng rãi, hứa đi hứa lại với tôi rất nhiều lần.

- Đối với tôi, một chức tư giáo cũng đủ để trả công, giám mã của Sơn Lâm nói, ông chủ của tôi đã hứa với tôi điều đó rồi.

- Chắc ông chủ của ngài là hiệp sĩ của giáo hội nên mới thưởng những thứ đó cho các giám mã trung thành của mình, Xantrô nói. Ông chủ của tôi không đi tu; tôi nhớ có những người khôn ngoan nhưng, theo tôi, xấu bụng muốn khuyên ông chủ trở thành tổng giám mục, song ông chủ chỉ muốn làm hoàng đế. Quả thật, khi ấy tôi cũng run, chỉ lo ông chủ gia nhập giáo hội vì như vậy tôi chẳng kiếm chác được gì. Xin nói để ngài biết rằng tuy tôi cũng giống mọi người song làm nhà tu lại rất vụng.

- Nếu vậy thì ngài nhầm to rồi, giám mã của Sơn Lâm nói, vì rằng không phải các hòn đảo đều ngon ăn cả đâu. Có những nơi hoang tàn, xơ xác, tiêu điều, còn ở những nơi khang trang sầm uất cũng có bao nhiêu chuyện rắc rối phiền hà trút lên đầu kẻ nào vô phúc đặt chân tới. Điều tốt hơn hết đối với chúng ta, những kẻ làm cái nghề tôi tớ chết tiệt này, là trở về nhà, giết thời giờ bằng những công việc nhẹ nhàng như đi săn hay câu cá. Sao, có giám mã nào trên đời nghèo đến nỗi không có một chú ngựa con, một cặp chó săn và một chiếc cần câu để giải trí ngay trong làng mình?

- Tất cả những cái đó tôi không thiếu, Xantrô đáp; quả thật tôi không có ngựa nhưng lại có một con lừa đáng giá gấp đôi con ngựa của chủ tôi cơ. Chúa cứ bắt tôi gặp điều rủi trong ngày lễ Phục sinh sắp tới nếu tôi đổi con lừa lấy con ngựa của ông ta, dù có các thêm cho tôi hai tạ lúa mạch đi chăng nữa. Còn ngài muốn đánh giá con xám của tôi thế nào, cái đó tùy - sở dĩ tôi gọi là con xám vì lông nó màu xám. Tôi cũng chẳng thiếu chó săn vì vùng quê tôi rất sẵn, và đi săn càng thêm thú vị mỗi khi ta dùng chó của người khác.

Giám mã của Sơn Lâm nói:

- Thưa ngài giám mã, quả thật tôi nhất quyết không theo những hành động ngông cuồng của các ngài hiệp sĩ này nữa và sẽ trở về làng nuôi dạy con cái; tôi có ba đứa con xinh đẹp như những viên ngọc phương Đông vậy.

- Tôi cũng có hai đứa con có thể đem ra trình diện giáo hoàng được, Xantrô nói, đặc biệt là đứa con gái mà tôi đang dạy làm bá tước, nếu Chúa phù hộ cho, mặc dù mẹ nó không muốn.

- Thế bà phu nhân mà ngài đang dạy cho làm bá tước năm nay bao nhiêu tuổi? - giám mã của Sơn Lâm hỏi.

- Mười lăm tuổi, hoặc hơn kém hai tuổi, Xantrô đáp; nhưng nó cao như một cây sào, tươi trẻ như sáng tháng tư và lực lưỡng như phu khuân vác.

- Với những đặc tính đó, không những nó làm bá tước mà còn làm nữ thần rừng xanh nữa, giám mã của Sơn Lâm nói. Thật là con nhà quỷ sứ, chắc con ranh đó phải có một sức khỏe phi thường!

Xantrô hơi cáu, đáp lại:

- Nó chẳng phải quỷ sứ, mẹ nó cũng chẳng phải quỷ sứ và, nhờ ơn Chúa, hai mẹ con nó sẽ không phải làm quỷ sứ chừng nào tôi còn sống trên đời này. Ngài hãy giữ mồm giữ miệng một chút. Một người sống bên cạnh hiệp sĩ giang hồ - hiện thân của sự lễ độ - mà nói năng như vậy, xem ra không được thích hợp lắm.

- Ồ, ngài giám mã chẳng hiểu thế nào là lời khen cả! Giám mã của Sơn Lâm thanh minh. Sao, ngài không biết rằng khi có một hiệp sĩ đâm nhát giáo trúng con bò ở trường đấu, hoặc khi có ai làm điều gì hay ho, người ta thường nói: "Con nhà quỷ sứ, tài quá!". Cứ tưởng như một lời chê nhưng đấy chính thức lại là một câu khen đấy. Và nếu con cái ngài không có những hành động đáng để thiên hạ tặng cho cha mẹ chúng những lời khen như vậy, tôi khuyên ngài hãy từ chúng nó đi.

- Nếu thế, tôi từ thật, Xantrô đáp; và ngài có lý do để gọi tôi, con cái tôi và vợ tôi là quỷ sứ vì tất cả những điều các con tôi nói và làm đều rất xứng đáng được hưởng những lời khen ngợi như vậy. Ôi, cầu mong Chúa đừng bắt tội tôi phải xa chúng nó cũng như đừng bắt tôi phải làm cái nghề giám mã nguy hiểm này nữa; chẳng qua tại tôi hám của nên mới đâm đầu vào vì chuyến trước tôi bắt được một cái túi đựng một trăm đồng tiền vàng ở trong núi Môrêna. Con quỷ nó nhử tôi khiến tôi nhìn đâu cũng thấy tiền, tưởng chừng như đi một bước là vớ là vồ được, là mang luôn về nhà, là làm ra lời ra lãi, là sống như một ông hoàng. Mỗi khi nghĩ như vậy, tôi dễ dàng vượt qua mọi khó khăn cùng ông chủ ngốc nghếch của tôi mà tôi biết chắc là một thằng điên chứ chẳng phải hiệp sĩ nào hết.

- Chính vì vậy người ta mới thường bảo rằng tham thì thâm. giám mã của Sơn Lâm nói. Bây giờ lại nói tới các ông chủ của chúng ta: quả thật trên đời này không có ai điên bằng ông chủ nhà tôi. Ông ta thuộc loại người cứ hay mua việc vào mình; và vì muốn chữa cho một hiệp sĩ bị mất trí mà ông ta hóa điên, cứ đi tìm kiếm một vật mà tôi e một khi tìm thấy, ông ta sẽ phải hối hận.

- Có phải ông ta mê gái không? Xantrô hỏi.

- Phải, giám mã của hiệp sĩ Sơn Lâm đáp. Ông ta mê một bà Caxilđêa đê Valđalia nào đó, một người đàn bà sống sượng nhất trên trái đất này; song, không phải bà ta chỉ có một tội là sống sượng mà trong bụng bà ta chứa đựng những điều xấu xa hơn, như ta sẽ thấy nay mai.

Xantrô bảo:

- Không có con đường nào bằng phẳng, không mấp mô đâu; ở đời này, chẳng ai không có nỗi khổ tâm cả, và người khôn thì ít, kẻ dại thì nhiều. Song, nếu quả như người ta thường nói gặp được người cùng cảnh thì nỗi khổ của mình cũng vơi đi, tôi có thể tìm thấy ở ngài một sự an ủi vì ngài có một ông chủ cũng điên rồ như ông chủ của tôi.

- Điên rồ những dũng cảm, giám mã của Sơn Lâm đáp, và lại quỷ quyệt hơn cả điên rồ và dũng cảm.

- Ông chủ của tôi không thế, Xantrô bảo; tôi xin nói là ông ta không quỷ quyệt chút nào mà hiền như đất; ông ta không biết làm hại ai, chỉ làm tốt cho mọi người, thật là một con người tốt bụng. Giá như có đứa trẻ nào bảo ông ta rằng giữa trưa là đêm, ông ta cũng tin ngay. Tôi yêu, tôi quý ông cũng chỉ vì cái nết hiền lành đó, và tôi không nghĩ tới việc bỏ rơi ông dù cho ông có những hành động ngông cuồng đến mấy đi chăng nữa.

Giám mã của Sơn Lâm lại bảo:

- Tuy nhiên, ông bạn ạ, nếu anh mù lại dắt anh mù, có ngày cả hai cùng lăn xuống hố mất. Tốt hơn hết là ta hãy rút lui có trật tự, trở về nhà ta. Không phải bao giờ đi tìm kiếm những chuyện phiêu lưu cũng gặp hay cả đâu.

Trong lúc nói chuyện, Xantrô cứ nhổ vặt, nước bọt quánh đặc; bác giám mã tốt bụng của Sơn Lâm nhận thấy bèn bảo:

- Từ nãy tới giờ, ta nói nhiều nên lưỡi như muốn dính chặt vào hàm; tôi có mang theo một thứ thuốc có thể làm cho lưỡi bong ra; thứ thuốc đó treo ở cốt yên của con ngựa tôi, chắc chắn là thần hiệu.

Nói rồi, bác đứng dậy, một lát sau bác quay trở lại với một bao rượu lớn bằng da dê và một cái bánh nhân thịt dài tới quá nửa thước, nói không ngoa vì bánh làm bằng cả một con thỏ trắng, to đến nỗi Xantrô cầm lên cứ tưởng là làm bằng cả một con dê bố chứ không phải một con dê con, bác bèn hỏi:

- Ngài mang theo cả cái này ư?

- Thế ngài cho tôi là người thế nào? Giám mã của Sơn Lâm vặn lại. Tôi đâu phải là một anh giám mã tầm thường? Lương ăn chất trên con ngựa của tôi còn nhiều hơn của một viên tướng ra trận cơ.

Chẳng phải mời mọc, Xantrô ăn luôn; gặp lúc tối trời, bác nuốt những miếng to như quả đấm, bác bảo:

- Ngài quả là một giám mã trung thực và hợp pháp [SUP]1[/SUP], một giám mã hoàn hảo, cao quý và vĩ đại như bữa tiệc này đã chứng minh, một bữa tiệc tưởng đâu do phù phép mà có. Trái lại, tôi vừa nghèo túng, vừa đen đủi, trong túi hai ngăn mang theo đây chỉ có một ít pho mát rắn đến nỗi có thể đập vỡ đầu một tên khổng lồ, kèm theo 4 tá trái cây và chừng ấy hạt dẻ. Số là ông chủ tôi chẳng giàu có gì, lại chỉ khư khư giữ ý kiến và tuân theo luật lệ nói rằng các hiệp sĩ giang hồ chỉ cần ăn quả khô và cỏ đồng mà sống.

- Nói thật với ông anh, dạ dày của tôi không phải để chứa cây gai, cũng không phải cây lê dại hay rễ cây rừng, giám mã của Sơn Lâm nói. Mặc những ông chủ của chúng ta cùng với những ý kiến và luật lệ giang hồ của họ; họ muốn gì, tùy ý. Chỉ biết là tôi đây mang theo thịt nguội và cái bao rượu treo ở cốt yên; tôi yêu, tôi quý nó, chẳng mấy khi tôi không ôm nó vào lòng mà hôn mà hít.

Nói rồi, bác đặt bao rượu vào tay Xantrô; bác giám mã của Đôn Kihôtê nhấc bổng bao rượu dốc vào mồm, mặt ngửa lên trời ngắm sao suốt mười lăm phút đồng hồ. Uống xong, bác ngả đầu vào vai, xuýt xoa:

- Quỷ sứ, ngon thật!

Thấy Xantrô thốt lên hai chữ quỷ sứ, giám mã của Sơn Lâm nói:

- Làm sao ngài khen thứ rượu này mà lại gọi nó là quỷ sứ?

- Tôi xin nói... tôi thú thực... tôi biết chắc rằng gọi một người nào đó là quỷ sứ không phải là xỉ nhục một khi ta có ý định khen ngợi người đó. Nhưng thôi, xin hỏi, vì người quá cố mà ngài yêu quý nhất, xin cho biết rượu này có phải ở thành Rêal không?

- Giỏi lắm, sành lăm! Quả thật không thể ở nơi khác được, rượu để mấy năm rồi đấy.

- Việc này đối với tôi có gì là khó, Xantrô nói. Tưởng tôi không phân biệt nổi rượu của ngài thuộc loại gì ư? Thưa giám mã, xin nói để ngài rõ, trời phú cho tôi một biệt tài là thử rượu, ngửi là biết ngay rượu gì, làm ở đâu, làm bao giờ, mùi vị ra sao, cùng tất cả những tình huống đã xảy ra. Nhưng ngài đừng lấy thế làm lạ vì dòng họ nhà tôi có hai vị rất tài nếm rượu, bao năm nổi tiếng ở xứ Mantra. Xin kể ra đây một chuyện cũ để chứng minh: một hôm, người ta đưa cho hai vị nếm thử rượu ở một cái thùng, yêu cầu cho biết tình trạng, phẩm chất của rượu tốt xấu ra sao. Một vị lấy đầu lưỡi nếm, vị kia chỉ cần đưa lên mũi ngửi. Vị thứ nhất bảo rằng trong rượu có mùi sắt, vị thứ hai bảo rõ mùi da hơn. Người chủ nói rằng thùng sạch, rượu không pha phách gì để có mùi sắt và da được. Mặc dù vậy, hai vị nếm rượu nổi tiếng vẫn giữ nguyên ý kiến. Sau một thời gian, bán hết rượu, đem thùng ra cọ, thì thấy bên trong có một chiếc chìa khóa nhỏ đeo vào dây bằng da. Tôi kể câu chuyện để ngài thấy rằng, một người thuộc dòng dõi đó hẳn có thể có ý kiến về một vấn đề tương tự.

- Chính vì vậy mà tôi muốn nói một điều: ta đừng tìm kiếm những chuyện phiêu lưu mạo hiểm nữa; chớ nên thả mồi bắt bóng và trở về dưới mái nhà tranh. Chúa sẽ phù hộ cho chúng ta nếu Người muốn.

- Tôi sẽ theo hầu ông chủ tôi cho tới khi ông ta đến Xaragôxa, sau đó sẽ hay.
Hai bác giám mã của chúng ta vừa trò chuyện vừa uống rượu tràn cung mây, và lúc này, giấc ngủ là cần thiết để giữ chặt lưỡi và làm dịu cơn khát của họ - làm cho hết khát thì chịu. Và thế là, cả hai ôm lấy cái bao rượu gần cạn khô, mồm còn đầy thức ăn nhai dở, lăn ra ngủ. Bây giờ, ta hãy mặc họ nằm đấy để kể những chuyện xảy ra giữa hiệp sĩ Sơn Lâm và hiệp sĩ Mặt Buồn.


--------------------------------
1. Từ khi theo hầu Đôn Kihôtê, Xantrô đâm ra văn hóa, song đôi khi nói nhầm lẫn như trong trường hợp này. Đáng lẽ phải dùng chữ chân thành (tiếng Tây Ban Nha là leal), bác lại nhầm chữ hợp pháp (legal).
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes

Chương XIV

Kể tiếp chuyện phiêu lưu mạo hiểm của hiệp sĩ Gương Sáng [SUP]1[/SUP]



Trong cuộc đàm thoại dài dòng giữa Đôn Kihôtê và hiệp sĩ Sơn Lâm, sách kể chàng này đã nói với chàng kia như sau:

- Cuối cùng, thưa ngài hiệp sĩ Đôn Kihôtê, tôi muốn kể ra đây để ngài rõ về số mệnh hoặc đúng hơn, do sự lựa chọn của tôi, tôi đã yêu nàng Caxilđêa đê Valđalia vô song. Tôi coi nàng là vô song vì trên đời này không có người đàn bà nào có một thân hình cao lớn, một phẩm hạnh và một sắc đẹp tuyệt vời như nàng. Vậy mà nàng Caxilđêa đó, con người mà tôi đang kể, đã đền bù những ý nghĩ tốt đẹp và những ước vọng thanh tao của tôi bằng cách bắt tôi phải làm những việc nguy hiểm, giống như dì ghẻ của chàng Erculêx vậy. Mỗi khi tôi làm xong một việc, nàng lại hứa hẹn là sau khi làm xong việc sắp tới, tôi sẽ đạt được nguyện vọng và cứ thế tôi phải làm liên miên hết việc này đến việc khác, không biết khi nào kết thúc để những ước mong chính đáng của tôi được thực hiện. Một lần, nàng bảo tôi phải đi đánh nhau với mụ khổng lồ nổi tiếng ở thành Xêviia là Hiranđa, mụ này gan góc và khỏe vì toàn thân bằng đồng, tuy đứng lì một chỗ nhưng lại là người đàn bà hay thay đổi nhất trên đời [SUP]2[/SUP]. Tôi tới nơi, gặp mụ và đánh thắng, và tôi bắt mụ phải đứng yên mặc dù trong hơn một tuần lễ, gió bấc thổi liên tục. Cũng có lần, nàng bắt tôi phải đi cân những con bò mộng bằng đá cổ ở Ghixanđô, một công việc chỉ dành cho phu phen chứ không phải cho hiệp sĩ. Một lần khác, nàng bắt tôi phải chui xuống vực Cabra, một công việc cực kỳ nguy hiểm, để cho nàng biết trong lòng vực tối tăm và sâu thẳm đó có gì. Tôi đãbắt mụ Hiralđa phải đứng yên, tôi đã cản những con bò mộng ở Ghixanđô, tôi đã lao xuống vực và làm sáng tỏ những bí ẩn chứa trong lòng nó. Vậy mà tôi cứ nuôi hi vọng hão, còn nàng thì cứ tiếp tục bắt tôi phải làm hết việc này đến việc khác mà không đoái hoài tới tôi. Cuối cùng, gần đây nhất, nàng yêu cầu tôi phải đi khắp các tỉnh thành ở Tây Ban Nha để bắt tất cả các hiệp sĩ giang hồ trong nước phải công nhận rằng nàng là người đẹp nhất trong số các mĩ nhân đang sống, còn tôi là hiệp sĩ dũng cảm nhất và si tình nhất thế gian. Thực hiện yêu cầu của nàng, tôi đi nhiều nơi trên đất nước và đã thắng nhiều hiệp sĩ cả gan nói trái ý tôi. Nhưng điều làm tôi tự hào nhất là tôi đã đánh bại hiệp sĩ Đôn Kihôtê ở xứ Mantra trong một trận đấu tay đôi và bắt chàng ta phải công nhận với tôi nàng Caxilđêa của tôi xinh đẹp hơn nàng Đulxinêa của chàng; chỉ với một chiến thắng này, tôi nghĩ tôi đã đánh bại tất cả các hiệp sĩ trên đời vì chàng Đôn Kihôtê mà tôi vừa nói ở trên đã thắng tất cả các hiệp sĩ khác; một khi tôi đánh bại được chàng ta tức là vinh quang, tiếng tăm và danh dự của chàng chuyển sang tôi cả rồi. Người thắng trận càng thêm vinh dự một khi kẻ bại trận là người nổi danh. Như vậy là tiếng đồn về vô vàn những chiến công của chàng Đôn Kihôtê cuối cùng thuộc về tôi.

Nghe hiệp sĩ Sơn Lâm nói, Đôn Kihôtê lấy làm ngạc nhiên lắm. Đầu lưỡi chàng ngứa ngáy và một ngàn lần chàng muốn nói thẳng vào mặt người đối thoại là nói láo; xong chàng cố gắng tự kiềm chế để bắt hiệp sĩ Sơn Lâm phải tự công nhận điều nói láo, chàng bình tĩnh bảo:

- Thưa ngài hiệp sĩ, dù ngài thắng hầu hết các hiệp sĩ giang hồ ở Tây Ban Nha, thậm chí tất cả các hiệp sĩ trên trái đất này, tôi cũng không có ý kiến gì; nhưng nếu nói rằng ngài đã đánh bại Đôn Kihôtê xứ Mantra thì tôi hơi ngờ. Có lẽ một người nào đó giống chàng ta chăng, tuy rằng những người giống chàng không phải là nhiều.

- Sao lại không? Chàng Sơn Lâm cãi. Có trời cao chứng giám, tôi đã đọ sức với Đôn Kihôtê, đánh bại và bắt phải quy phục. Chàng ta người cao lêu nghêu, mặt mày quắt queo, tay chân khẳng khiu, tóc rậm, mũi khoằm và hơi gồ, râu mép rậm đen và cụp. Chàng ra trận với biệt hiệu là Hiệp sĩ Mặt Buồn, mang theo một giám mã là một nông phu tên là Xantrô Panxa. Chàng cưỡi con tuấn mã lừng danh là Rôxinantê và cuối cùng, chàng có một tình nương tên là nàng Đulxinêa ở Tôbôxô, tên thật trước kia là Alđônxa Lôrenxô, cũng giống như tình nương của tôi tên thật là Caxiiđa, và sinh trưởng ở Anđaluxia nên tôi đặt tên là Caxilđêa đê Valđalia. Nếu ngần ấy chứng cứ chưa đủ để đảm bảo lời tôi nói, thanh kiếm của tôi đây sẽ đánh tan mọi nghi ngờ.

- Xin ngài hiệp sĩ hãy bình tâm lại, Đôn Kihôtê nói, và hãy lắng nghe những điều tôi sắp nói với ngài. Xin ngài biết cho rằng chàng Đôn Kihôtê mà ngài vừa nói tới là bạn chí thiết trên đời này của tôi, đến mức có thể nói rằng tôi coi chàng như chính bản thân tôi vậy. Theo như ngài tả về chàng một cách chính xác và cụ thể, tôi bắt buộc phải tin rằng ngài đã đánh bại con người đó. Mặt khác, tôi biết chắc chắn không thể là chàng được; có lẽ một pháp sư nào đó (chàng bị nhiều pháp sư thù ghét, trong đó đặc biệt một tên luôn luôn tìm cách hãm hại) đã đội lốt chàng, cố tình thua trận để làm mai một tiếng tăm lừng lẫy mà chàng giành được bằng nhiều chiến công hiển hách. Để chứng minh điều này, tôi cũng xin thưa để ngài rõ rằng mới cách đây chưa quá ba hôm, bọn pháp sư thù địch của Đôn Kihôtê đã phù phép biến thân hình kiều diễm của nàng Đulxinêa ở Tôbôxô thành một cô gái quê cục mịch, xấu xí; chắc hẳn chúng đã thay hình đổi dạng chàng Đôn Kihôtê như vậy đó. Còn nếu như tất cả những điều này không đủ làm ngài tin vào sự thật mà tôi vừa nói thì đích thân Đôn Kihôtê đây sẽ bảo vệ sự thật bằng vũ khí, cưỡi ngựa hay đi chân, hoặc theo cách nào hợp với ngài.

Dứt lời, chàng đứng phắt dậy, tay nắm gươm, chờ xem hiệp sĩ Sơn Lâm quyết định ra sao. Chàng Sơn Lâm bình tĩnh đáp lại:

- Một con nợ sòng phẳng không ngại viết giấy cam đoan, thưa ngài Đôn Kihôtê. Kẻ đã thắng được ngài khi ngài bị thay hình đổi dạng cũng có hy vọng sẽ thắng ngài khi ngài trở lại nguyên hình. Song, các hiệp sĩ không lập chiến công trong đêm tối như bọn kẻ cướp lưu manh, vì điều đó không hay ho gì. Chúng ta nên chờ đến sáng và hành động giữa thanh thiên bạch nhật. Điều kiện của trận đánh là kẻ bại sẽ phải theo ý muốn của người thắng, phải làm bất cứ việc gì người thắng trận bảo làm, miễn là việc đó chấp nhận được đối với hiệp sĩ.

- Tôi hoàn toàn tán thành điều kiện và cách giải quyết của ngài, Đôn Kihôtê đáp.

Nói rồi, hai chàng đến tìm giám mã thì thấy họ đang nằm gáy trong tư thế ban đầu, khi mới ngủ. Hai chàng đánh thức họ dậy và bảo chuẩn bị sẵn sàng vì khi mặt trời lên, hai chàng sẽ gặp nhau trong một trận chiến đấu ác liệt và gay go. Nghe tin, Xantrô vừa kinh ngạc vừa lo cho tính mạng của chủ vì bác đã được nghe giám mã của hiệp sĩ Sơn Lâm kể về những hành động dũng cảm của chủ mình. Tuy nhiên, cả hai giám mã đều lẳng lặng đi tìm ngựa. ba con ngựa và một con lừa đã ngửi hít nhau chán chê lúc này đang túm tụm vào một chỗ.

Vừa đi, giám mã của Sơn Lâm bảo Xantrô:

- Ông anh nên biết rằng theo tục lệ của các chiến binh Anđaluxia, trong một cuộc đánh nhau, những người đi cổ động không khoanh tay ngồi yên trong khi hai người kia đọ sức. Tôi nói vậy để báo cho ông anh biết rằng trong khi hai ông chủ của chúng ta múa võ, chúng ta cũng phải quần nhau cật lực đấy.

- Thưa ngài giám mã, Xantrô đáp, tục lệ có thể có trong đám anh chị mà ngài vừa kể ra, song tôi nghĩ giữa các giám mã của hiệp sĩ giang hồ thì không có đâu. Vả chăng, tôi chưa hề nghe thấy ông chủ tôi nói tới tục lệ đó mặc dù ông ta thuộc lòng tất cả các luật lệ của hiệp sĩ đạo. Và dù luật lệ có quy định rõ ràng các giám mã phải đánh nhau trong khi chủ họ đánh nhau, tôi cũng không theo; thà tôi làm một người giám mã ôn hòa và chịu phạt vì tôi chắc rằng tiền phạt không quá giá tiền hai cân sáp; tôi vui lòng trả món tiền đó, vì biết rằng nó còn ít hơn tiền bông băng sẽ phải chi để bó cái đầu mà tôi cầm bằng như đã toạc làm đôi rồi. Còn một lý do nữa khiến tôi không thể đánh nhau được là tôi không có gươm vì cả đời tôi không mang.

- Tôi có cách, giám mã của hiệp sĩ Sơn Lâm bảo; tôi có mang theo đây hai cái bao tải to bằng nhau. Ngài cầm một cái, tôi một cái, ta sẽ đánh nhau bằng bao tải, bằng vũ khí giống nhau.

- Hay đấy, Xantrô nói, vì như vậy sẽ chẳng ai đánh ai bị thương mà chỉ phủi bụi cho nhau thôi.

- Không phải thế đâu, giám mã của Sơn Lâm bảo; để cho gió không thổi bay, ta nhét vào trong bao tải nửa tá đá cuội thật tròn trặn, nhẵn nhụi, to bằng nhau. Bằng cách đó, ta có thể quật bao tải vào người nhau mà không đau đớn gì cả.

- Chết tôi thôi, Xantrô kêu lên; nghe ngài nói, cứ tưởng như ngài nhồi da mềm hay bông tơ vào bao tải để không bị vỡ đầu tan xương vậy. Nhưng thôi, dù có nhồi kén tằm vào thì, thưa ngài, tôi cũng xin kiếu. Mặc cho các ông chủ của chúng ta đánh nhau, ta cứ việc đánh chén cho qua ngày. Hãy để thời gian lo cái chết của chúng ta, chẳng cần phải thúc đẩy nó đến trước thời hạn và kết liễu quá sớm làm gì.

Giám mã của Sơn Lâm không nghe, bảo:

- Dù thế nào, ta cũng phải quần nhau nửa tiếng.

- Không, Xantrô đáp; tôi không thể quá bất nhã và vô ơn đánh bại một người đã cho tôi ăn uống no say, dù là đánh khẽ. Đã vậy, không giận dữ, không thù hằn, ai nỡ thượng cẳng chân, hạ cẳng tay với nhau!

- Về điểm này, tôi có cách giải quyết rất hay, giám mã của Sơn Lâm nói; trước khi ta đánh nhau, tôi sẽ từ từ tiến lại gần ngài và cho ngài ba bốn cái bạt tai khiến cho ngài quay lơ dưới chân tôi. Thế là tôi sẽ đánh thức sự tức giận của ngài dù xưa nay nó vẫn ngủ im như chết.

- Tôi có cách khác không thua cách giải quyết của ngài đâu, Xantrô đáp; tôi sẽ kiếm một cái gậy và trước khi ngài đến gần để đánh thức sự tức giận của tôi, tôi sẽ ru ngủ sự tức giận của ngài bằng những miếng đòn khiến cho nó chỉ có thể thức dậy ở thế giới bên kia, ở đó người ta đều biết tôi không phải là con người ai muốn vượt mặt cũng được. Con người ta phải thận trọng khi làm một việc gì, khôn ngoan nhất là hãy để cho sự tức giận ngủ yên vì không ai hiểu hết lòng dạ của ai, thường thì khi đi cắt lông cừu lại bị gọt hết lông. Chúa mong bình an và không ưa những chuyện xô xát. Nếu như một con mèo bị nhốt, dồn ép đến cùng, cũng có thể trở thành một con sư tử, ai biết được một con người như tôi sẽ trở thành cái gì. Cho nên, kể từ lúc này, tôi xin báo để ngài biết rằng ngài sẽ phải gánh lấy mọi hậu quả tai hại của cuộc đọ sức giữa đôi ta.

- Tốt lắm, giám mã của hiệp sĩ Sơn Lâm đáp, Chúa sẽ mang lại trời sáng, và chúng ta sẽ tỉnh táo hơn.

Lú này, muôn ngàn giống chim lông sặc sỡ cất tiếng trên cành cây; tiếng hót ríu rít vui nhộn của chúng như đón chào nàng bình minh tươi mát đang phô bày bộ mặt xinh đẹp của mình trên lan can phía Đông; nàng rũ bộ tóc để rơi hàng ngàn vạn giọt nước trong như viên ngọc, và cỏ cây được tắm những giọt rượu ngào ngạt đó tưởng như mang trên mình muôn ngàn viên ngọc lung linh; những cây liễu tiết ra một chất nước thơm tho, các dòng suối reo cười, rừng cây mừng vui và những cánh đồng đâm hoa kết quả. Nhưng trời vừa sáng để có thể nhìn và phân biệt được mọi vật thì cảnh đầu tiên hiện ra trước mắt Xantrô Panxa là cái mũi của giám mã hiệp sĩ Sơn Lâm; nó to đến nỗi bóng nó trùm lên gần kín thân hình chủ nó. Quả thật, thiên hạ đồn rằng cái mũi đó to quá khổ, ở giữa gồ, đầy mụn cơm, màu da tai tái như màu cà tím, cụp xuống mồm đến ngón tay. Khuôn khổ, màu sắc, mụn cơm và hình dáng của cái mũi làm cho bộ mặt trông rất gớm ghiếc, Xantrô nhìn thấy run bắn cả chân tay giống như một đứa trẻ bị động kinh vậy. Bác nghĩ bụng thà chịu hai trăm cái tát còn hơn đánh nhau với con quái vật này. Đôn Kihôtê đưa mắt nhìn đối thủ của mình thì thấy chàng ta đã đội mũ sắt và hạ vành xuống, thành thử không rõ mặt mũi ra sao, chỉ thấy chân tay chắc mập tuy tầm vóc không được cao lớn lắm. Chàng khoác lên mình, trùm lên vũ khí một cái áo choàng như dệt bằng sợi vàng, lấp lánh những mặt gương nhỏ và tròn như mặt trăng, trông thật oai phong lẫm liệt; mũ chàng phất phơ những sợi lông chim màu lục, vàng và trắng; ngọn giáo tựa vào thân cây, vừa to vừa dài, đầu bịt sắt dài trên một gang tay.

Đôn Kihôtê nhận xét rất kỹ, không bỏ sót một chi tiết nào; chàng đoán chừng hiệp sĩ này có sức khỏe phi thường. Nhưng chàng lại không vì thế mà chùn bước như bác giám mã nhát gan; trái lại, chàng đĩnh đạc bảo hiệp sĩ Gương Sáng:

- Thưa hiệp sĩ, nếu như ngài không vì quá nóng vội giao chiến mà đâm ra bất nhã, xin hãy vì phép lịch sự kéo cao vành mũ lên một chút cho tôi xem dung mạo có tương xứng với dáng vẻ oai phong của ngài không.

Hiệp sĩ Gương Sáng đáp lại:

- Dù thắng hay bại trong cuộc giao tranh này, ngài cũng có đủ thời gian để nhìn mặt tôi. Sở dĩ lúc này đây, tôi không đáp ứng được điều mong muốn của ngài vì nghĩ rằng sẽ xúc phạm tới nàng Caxilđêa đê Valđalia xinh đẹp; nếu tôi nhấc vành mũ lên tức là tôi kéo dài thời gian buộc ngài phải công nhận điều mà tôi yêu cầu [SUP]3[/SUP].

- Vậy trong khi ta lên ngựa, Đôn Kihôtê nói, hẳn ngài có thể cho biết tôi có phải là chàng Đôn Kihôtê mà ngài bảo là đã đánh bại không.

Hiệp sĩ Gương Sáng đáp:

- Về điểm này, tôi xin trả lời ngài là ngài giống chàng hiệp sĩ bị tôi đánh bại như hai quả trứng vậy. Song, vì ngài bảo rằng ngài luôn luôn bị lũ pháp sư hãm hại cho nên tôi không dám quả quyết rằng ngài chính là chàng ta.

- Thôi thôi, Đôn Kihôtê bảo, bây giờ tôi càng tin rằng ngài đã nhầm và để ngài thấy rõ điều đó, giám mã đâu! Dắt ngựa lại đây, chỉ trong khoảnh khắc còn ngắn hơn thời gian kéo vành mũ lên, nếu được Chúa, tình nương và cánh tay nàng ủng hộ, tôi sẽ biết rõ mặt ngài và ngài sẽ thấy rằng tôi không phải là chàng Đôn Kihôtê bại trận như ngài đã tưởng.

Tới đây, hai bên không nói năng gì nữa và cùng nhảy lên ngựa đi một quãng, mỗi người một phía, lấy đủ cự ly quy định trước khi quay đầu lại xông vào nhau. Đôn Kihôtê mới đi được chừng hai chục bước, bỗng hiệp sĩ Gương Sáng gọi giật lại, hai bên cùng dừng ngựa, hiệp sĩ Gương Sáng bảo:

- Xin ngài hiệp sĩ nhớ cho rằng điều kiện của cuộc giao tranh này là: như tôi đã nói, kẻ thua phải tuân theo ý muốn của người thắng.

- Tôi nhớ rồi, Đôn Kihôtê đáp; miễn là kẻ thắng không bắt người thua làm điều gì vượt ra ngoài giới hạn của hiệp sĩ đạo.

- Đúng lắm, hiệp sĩ Gương Sáng nói.

Lúc này, Đôn Kihôtê chợt nhận thấy cái mũi kỳ lạ của bác giám mã nọ; chàng ngạc nhiên không kém Xantrô, ngỡ là một con quái vật hoặc một con người nào đó không có trên trái đất này. Thấy chủ phi ngựa ra xa, Xantrô không muốn đứng lại một mình với anh chàng mũi to; bác nghĩ bụng, chỉ cần hắn ta húc mũi vào mình cũng đủ kết thúc trận đánh, mình sẽ lăn kềnh ra đất vì miếng đòn hoặc vì sợ hãi. Nghĩ vậy, bác liền chạy theo chủ, tay nắm sợi dây buộc bàn đạp, miệng nói:

- Ông chủ ơi! Trước khi ngài quay ngựa lại để đánh nhau, xin hãy giúp tôi leo lên cây sồi điển điển kia đã; từ trên đó, tôi có thể thấy rõ hơn cuộc gặp gỡ hào hùng giữa ngài và hiệp sĩ nọ dưới đất.

- Xantrô, Đôn Kihôtê bảo, ta lại nghĩ là anh muốn trèo lên bục cao xem trận đấu bò mà không sơ nguy hiểm gì cả.

- Xin thú thật là cái mũi quá khổ của anh chàng giám mã kia làm tôi hãi vô cùng, khiến tôi không dám đứng gần hắn ta nữa. Xantrô nói.

- Cái mũi đó quả là to, Đôn Kihôtê bảo, và nếu không phải là ta, nó cũng sẽ khiến ta phải kinh hoàng. Thôi, lại đây, ta sẽ giúp cho mà trèo lên.

Trong lúc Đôn Kihôtê dừng lại để giúp Xantrô trèo lên cây điển điển, hiệp sĩ Gương Sáng vẫn tiếp tục đi ngựa và lấy đà đủ cự ly cần thiết giữa hai người; tưởng Đôn Kihôtê cũng làm như mình, chẳng cần chờ kèn thổi hoặc một hiệu lệnh nào khác, chàng quay ngựa lại (trông con ngựa cũng chẳng nhanh nhẹn gì hơn con Rôxinantê), tuy con vật chỉ chạy long tong nước kiệu, xông vào địch thủ. Chợt thấy Đôn Kihôtê còn đang bận đỡ Xantrô trèo lên cây, chàng vội ghìm cương dừng lại; con vật mừng rơn vì lúc này nó không còn sức nhúc nhích nữa. Cảm thấy đối phương đang phi như bay lại phía mình, Đôn Kihôtê thúc mạnh đinh vào hai bên sườn gầy guộc của con Rôxinantê khiến nó lồng lên. Sách kể lại rằng, đây là lần đầu tiên thấy nó phi nước đại đôi chút vì mọi lần trước, nó chỉ đi nước kiệu thôi. Với một khí thế chưa từng thấy, Đôn Kihôtê xông thẳng tới hiệp sĩ Gương Sáng lúc này đang ra sức thúc đinh vào mạng sườn con ngựa mà nó cứ ì ra chỗ cũ không tiến lên được một bước nào. Đôn Kihôtê tấn công trong một tình huống thật là thuận lợi vì đối phương của chàng còn đang vướng vít con ngựa không sao giơ được ngọn giáo lên. Song chàng cũng chẳng cần để ý tới chi tiết đó, cứ xăm xăm xông tới, phang luôn một đòn mạnh đến nỗi hiệp sĩ Sơn Lâm ngã vật ra phía sau, nhào qua mông ngựa, lăn xuống đất. Bị cái ngã như trời giáng, chàng nằm như chết, chân tay bất động.

Chàng Sơn Lâm vừa ngã ngựa, Xantrô liền từ trên cây tụt xuống tiến lại chỗ chủ. Đôn Kihôtê cũng đã xuống ngựa và đi tới chỗ đối thủ, tháo dải buộc mũ cho chàng ta để xem đã chết chưa hoặc nếu còn sống để cho chàng dễ thở, chợt đâu nhìn thấy... Ai có thể kể lại chàng đã nhìn thấy gì mà không làm cho người nghe phải kinh ngạc hoảng hồn. Sách kể lại chàng đã nhìn thấy đúng khuôn mặt, diện mạo, chân dung, hình dạng, dáng dấp cậu Tú Xanxôn Caraxcô; trước cảnh tượng đó, chàng cất tiếng gọi to:

- Xantrô, lại đây mà xem; con sẽ không tin vào chính mắt mình nữa! Nhanh lên, con sẽ thấy khả năng vô tận của pháp thuật và lũ pháp sư, phù thủy.

Xantrô chạy lại, nhìn thấy mặt cậu Tú Caraxcô, vội làm dấu thánh và đọc kinh liên hồi. Trong khi đó, chàng hiệp sĩ bị đánh ngã vẫn nằm thẳng cẳng. Xantrô bèn bảo Đôn Kihôtê:

- Thưa ngài, tôi có ý kiến là ngài cứ tọng lưỡi gươm vào mồm cái tên có bộ mặt giống cậu Tú Xanxôn Caraxcô này; làm như vậy, ngài có thể trừ khử được một trong những tên pháp sư thù địch.

- Anh nói phải đấy, Đôn Kihôtê bảo, vì càng bớt thù càng tốt.

- Chàng vừa rút gươm lại để thực hiện lời khuyên của Xantrô, giám mã của hiệp sĩ Sơn Lâm vội tiến tới, lên tiếng nói (lúc này, cái mũi to làm xấu bộ mặt của bác đã biến đi đâu mất):

- Xin hãy coi chừng việc làm của ngài, kẻ nằm dưới chân ngài chính là ông Tú Xanxôn Caraxcô , bạn của ngài, còn tôi là giám mã của ông ta.

Không thấy cái mũi gớm ghiếc của bác giám mã nọ, Xantrô hỏi:

- Thế mũi đâu rồi?

Đáp:

- Đây, ở trong cái túi này.

Nói rồi, bác ta thò tay vào trong túi bên phải lấy ra một cái mũi giả bằng bìa cứng phết sơn, như đã tả ở trên. Xantrô nhìn chằm chằm vào mặt bác ta, bỗng thốt lên một tiếng kêu kinh ngạc:

- Lạy thánh Maria! Có phải bác Tômê Xêxial, hàng xóm nhà tôi đấy không?

- Chứ còn ai nữa, bác giám mã mất mũi đáp. Chính tôi là Tômê Xêxial đây, ông bạn Xantrô Panxa ạ. Rồi tôi sẽ kể cho nghe câu chuyện ngoắt ngoéo quanh co đưa tôi đến chốn này. Bây giờ, chỉ cầu xin ông chủ bác đừng hành hạ, đánh đập, sát hại hiệp sĩ Gương Sáng nằm dưới chân ông ta vì không nghi ngờ gì nữa, chính là ông Tú Xanxôn Caraxcô liều lĩnh và dại dột, người đồng hương của chúng ta đó.

Lúc này, hiệp sĩ Gương Sáng đã hồi tỉnh. Thấy vậy, Đôn Kihôtê gí mũi gươm tuốt trần vào mặt chàng và bảo:

- Hỡi hiệp sĩ, ông phải chết nếu không công nhận rằng nàng Đulxinêa thành Tôbôxô vô song hơn hẳn nàng Caxilđêa đê Valđalia của ông về nhan sắc, còn nếu sau trận đọ sức này và cái ngã vừa rồi, ông vẫn còn sống thì ông phải hứa tới thành Tôbôxô thưa với tình nương của tôi rằng ông phải đến trình diện nàng tùy nàng định đoạt số phận cho. Nếu nàng cho ông được tự do, ông phải quay lại tìm tôi để báo cáo về cuộc gặp gỡ đó. Tiếng tăm của những chiến công của tôi sẽ chỉ đường giúp ông tìm thấy tôi. Yêu cầu này hoàn toàn phù hợp với những Đôn Kihôtê đề ra trước trận đánh và không vượt quá giới hạn của hiệp sĩ đạo.

Hiệp sĩ ngã ngựa đáp:

- Tôi xin công nhận rằng chiếc giầy rách và bẩn của bà Đulxinêa thành Tôbôxô còn quý giá hơn bộ tóc tuy sạch nhưng rối bù của nàng Caxilđêa. Tôi xin hứa tới trình diện trước mặt bà rồi sẽ quay trở lại gặp ngài báo cáo tường tận mọi việc theo yêu cầu của ngài.

Đôn Kihôtê nói thêm:

- Ông còn phải công nhận và tin rằng chàng hiệp sĩ bị ông đánh bại trước kia không phải và không thể là Đôn Kihôtê xứ Mantra mà chỉ là một kẻ nào đó giống chàng; cũng như tôi, tôi công nhận và tin rằng ông không phải là ông Tú Xanxôn Caraxcô mà là một kẻ nào khác giống như ông ta thôi. Bọn pháp sư thù địch của tôi đã hóa phép làm cho kẻ nào đó giống ông ta như đúc để làm dịu cơn thịnh nộ của tôi và để tôi bớt say sưa với vinh quang chiến thắng.

Hiệp sĩ bị đòn thưa:

- Tôi công nhận, nghĩ và tin rồi, cũng như ngài công nhận, nghĩ và tin. Bây giờ, xin ngài làm ơn cho tôi được đứng dậy. Cái ngã vừa rồi khá đau xong may ra tôi cũng còn đủ sức.

Đôn Kihôtê và Tômê Xêxial nâng hiệp sĩ Gương Sáng dậy, còn Xantrô thì cứ nhìn dán mắt vào bác giám mã, hỏi câu nào cũng thấy trả lời trôi chảy chứng tỏ đích thị là Tômê Xêxial. Tuy nhiên, những lời của chủ nói rằng bọn pháp sư đã biến hóa bộ mặt của hiệp sĩ Gương Sáng thành bộ mặt của ông Tú Xanxôn Caraxcô vẫn in sâu trong trí óc bác, khiến bác không tin vào sự thật đang diễn ra trước mắt; tóm lại, cả thầy và trò đều lú lẫn ruột gan. Cùng với giám mã Tômê Xêxial, hiệp sĩ Gương Sáng đen đủi rầu rĩ đi tìm nơi băng bó bộ xương sườn bị gãy, còn Đôn Kihôtê và Xantrô lên đường tiếp tục đi Xaragôxa. Ta tạm gác câu chuyện này ở đây để nói về lại lịch chàng hiệp sĩ Gương Sáng và bác giám mã có cái mũi quá khổ.


--------------------------------
1. Tức hiệp sĩ Sơn Lâm.
2. Hiralđa là một pho tượng bằng đồng đặt trên tháp cao của nhà thờ Xêviia, dùng làm chong chóng để xem chiều gió.
3.Tức là phải công nhận nàng Caxilđêa đẹp hơn cả nàng Đulxinêa.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes

Chương XV

Nói về lai lịch hiệp sĩ Gương Sáng và giám mã của chàng




Đôn Kihôtê ra đi, lòng đầy hân hoan tự hào, nghĩ mình đã thắng một hiệp sĩ vô cùng dũng cảm là hiệp sĩ Gương Sáng. Tin tưởng vào lời hứa hẹn của hiệp sĩ này, chàng chắc mẩm sẽ biết tình nương của mình còn bị phù phép nữa không, vì bắt buộc chàng hiệp sĩ bại trận phải quay trở về - nếu không thì không còn là hiệp sĩ nữa - báo cáo cho chàng biết về cuộc gặp gỡ với nàng. Đôn Kihôtê nghĩ như vậy, song hiệp sĩ Gương Sáng lại không nghĩ thế vì lúc này chàng chỉ mong sao kiếm chỗ để rịt vết thương, như đã nói ở trên kia. Sách kể rằng, trước khi khuyên Đôn Kihôtê trở lại tiếp tục hành nghề hiệp sĩ mà chàng đã bỏ bẵng một thời gian, cậu Tú Xanxôn Caraxcô đã bàn bạc với Cha xứ và bác phó cạo tìm cách giam chân Đôn Kihôtê ở nhà, không cho những cuộc phiêu lưu hão huyền làm đảo lộn cuộc sống của chàng. Trong cuộc thảo luận, tất cả cùng nhất trí với ý kiến của Caraxcô là cứ để Đôn Kihôtê ra đi vì chắc chắn không thể giữ được chàng, sau đó Xanxôn Caraxcô sẽ tìm gặp trên đường và tuyên chiến (không thiếu gì lý do), sẽ đánh bại chàng (việc này cũng không khó) sau khi hai bên đã thỏa thuận với nhau là kẻ bại trận phải tuân theo ý muốn của người thắng trận; một khi Đôn Kihôtê thua, cậu Tú sẽ bắt chàng phải quay về làng, nằm lì trong nhà một vài năm cho tới khi có lệnh mới, điều mà chắc chắn chàng hiệp sĩ Đôn Kihôtê bại trận sẽ thi hành để không làm trái luật lệ của hiệp sĩ đạo; cũng có thể trong thời gian cấm cung ở nhà, chàng sẽ quên dần những ý nghĩ ngông cuồng, hoặc giả mọi người sẽ tìm được một phương thuốc hiệu nghiệm chữa bệnh điên cho chàng.

Caraxcô nhận làm việc đó và bác Tômê Xêxial, láng giềng của Xantrô Panxa, một con người vui tính và nhanh nhẹn, nhận đi theo làm giám mã. Xanxôn Caraxcô mang vũ khí vào người, Tômê Xêxial đeo một cái mũi giả bằng bìa cứng - như đã nói ở trên - để ông hàng xóm của mình không nhận ra khi giáp mặt nhau. Rồi hai người lần theo đường đi của Đôn Kihôtê, nhanh chút nữa thì được chứng kiến câu chuyện cỗ xe của thần Chết; cuối cùng, họ gặp thầy trò Đôn Kihôtê trong rừng, ở đó xảy ra những chuyện như độc giả đã thấy. Và nếu Đôn Kihôtê không có những ý nghĩ điên rồ tưởng rằng cậu Tú không phải là cậu Tú, chắc thầy Tú nhà ta sẽ chẳng bao giờ đỗ bằng cử nhân nữa; rõ thật là đi bắt chim mà chẳng thấy tổ chim đâu.

Thấy chuyến đi kết thúc một cách bị đát, tính một đằng quàng một nẻo, bác Tômê Xêxial bảo cậu Tú:

- Thưa ngài Xanxôn Caraxcô, quả là đáng đời cho bọn ta, xưa nay, nói thì dễ nhưng làm thì khó. Đôn Kihôtê điên, còn chúng ta tỉnh, vậy mà chàng ra đi lành lặn và tươi tỉnh, còn ngài thì vừa đau vừa buồn. Thử hỏi, giữa một người điên thật và một người làm ra điên, ai điên hơn ai?

Nghe thấy vậy, Xanxôn đáp:

- Sự khác biệt giữa hai người đó là người điên thật mãi mãi vẫn điên, còn người làm ra điên sẽ hết điên khi nào mình muốn.

Tômê Xêxial nói:

- Như vậy là tôi đã tự ý làm ra điên khi nhận làm giám mã cho ngài; còn bây giờ, tôi tự ý không muốn làm ra điên nữa và tôi muốn trở về nhà.

- Cái đó tùy bác, Xanxôn nói, xong đừng nghĩ rằng tôi cũng trở về nhà chừng nào chưa cho Đôn Kihôtê ăn đòn. Lần tới đây, tôi sẽ đi tìm lão với ý định không phải chữa bệnh điên cho lão nữa mà sẽ trả thù; xương sườn tôi đang nhức nhối khiến tôi không thể nói năng ngọt ngào với lão nữa đâu.

Vừa đi vừa trò chuyện, hai người tới một làng nọ, tại đây, may sao tìm được một ông thầy bó xương để chữa chạy cho Xanxôn đen đủi. Cuối cùng, Tômê Xêxial từ biệt ra về, còn cậu Tú ở lại mưu chuyện báo thù. Sách sẽ có dịp nói về cậu; bây giờ, ta hãy quay trở lại với chàng Đôn Kihôtê ngộ nghĩnh.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes

Chương XVI

Nói về chuyện xảy ra giữa Đôn Kihôtê và một hiệp sĩ phong nhã xứ Mantra



Lòng hân hoan tự hào - như đã nói ở trên - Đôn Kihôtê tiếp tục của hành trình. Sau chiến thắng vừa qua, chàng nghĩ trên đời chỉ có mình là hiệp sĩ giang hồ dũng cảm nhất thời đại này, tưởng đâu bao nhiêu chuyện phiêu lưu sắp tới cũng sẽ được giải quyết một cách tốt đẹp cả. Chàng xem thường pháp thuật của lũ pháp sư ;chàng cũng chẳng còn nhớ tới những roi đòn phải chịu trong quá trình hành nghề hiệp sĩ, tới những viên đá quăng vào người khiến chàng bị gẫy mất nửa hàm răng, tới đám tội nhân vô ơn bạc nghĩa, tới trận mưa roi của đám lái la liều lĩnh [SUP]1[/SUP], bụng bảo dạ "Nếu ta có cách nào hoặc có phép gì để giải mê cho tình nương Đulxinêa của ta, ta sẽ chẳng cần ao ước những hạnh phúc lớn nhất mà một hiệp sĩ giang hồ may mắn nhất trong các thế kỷ trước đã đạt hoặc có thể đạt được". Còn đang mải mê với những suy nghĩ đó, bỗng đâu nghe tiếng Xantrô nói:

- Lạ thật thưa ngài, mãi tới bây giờ, trước mắt tôi vẫn hiện lên cái mũi khủng khiếp to đùng của lão Tômê Xêxial.

- Xantrô, chẳng lẽ anh vẫn tin rằng hiệp sĩ Gương Sáng là ông Tú Caraxcô, còn giám mã của chàng là lão hàng xóm Tômê Xêxial của anh sao?

- Tôi chẳng biết nói thế nào cả, chỉ biết là lão ta kể vanh vách về nhà cửa, vợ con tôi, không ai có thể nói được như thế; khuôn mặt, nếu bỏ cái mũi đi, thì đúng là Tômê Xêxial mà tôi vẫn thường gặp ở làng vì nhà lão kề ngay sát nách, còn giọng nói thì cũng y hệt.

- Xantrô, phải tỉnh táo một chút chứ, Đôn Kihôtê bảo. Nào, thử hỏi vì lẽ gì ông Tú Xanxôn Caraxcô lại đóng vai hiệp sĩ giang hồ, mang cả vũ khí tấn công lẫn phòng ngự, đi tìm ta để đánh nhau cơ chứ! Phải chăng ta là kẻ thù của ông ta? Có bao giờ ta gây thù chuốc oán với ông ta không? Ta có phải là địch thủ của ông ta đâu và ông ta có theo nghề võ đâu mà phải ghen ghét với những chiến công lừng lẫy của ta?

Xantrô đáp:

- Thưa ngài, còn biết nói sao nữa khi ông hiệp sĩ thì giống hệt cậu Tú Xanxôn Caraxcô; còn giám mã của ông ta cũng giống y như đúc lão hàng xóm Tômê Xêxial của tôi! Nếu đây là phù phép như ngài nói, liệu họ có giống hai người khác trên đời này nữa không?

Đôn Kihôtê đáp:

- Tất cả đều là mưu ma chước quỷ của lũ pháp sư muốn hãm hại ta đấy thôi. Chúng đoán biết ta sẽ thắng trong trận này nên đã biến hóa chàng hiệp sĩ bại trận kia thành ông Tú bạn ta; tình bạn đã hạn chế lưỡi gươm của ta và sức mạnh của cánh tay ta, làm dịu sự phẫn nộ chính đáng của con tim ta, khiến cho ta đã tha tội chết cho kẻ dối giả định kết liễu đời ta. Ôi! Xantrô, bản thân anh đã từng nhìn thấy những sự việc rành rành để chứng minh đó sao! Lũ pháp sư có thể thay đổi dễ dàng mặt mũi con người ta, biến đẹp thành xấu, xấu hóa đẹp; mới cách đây chưa tới hai ngày, chính mắt anh đã từng nhìn thấy nhan sắc kiều diễm của nàng Đulxinêa vô song trong lúc ta chỉ nhìn thấy một cô gái quê cục mịch, xấu xí, hạ lưu, mắt mũi kèm nhèm, mồm miệng hôi hám. Nếu tên pháp sư xấu xa kia dám làm một công việc tày trời như vậy, ngọng thì hắn chẳng làm thay đổi hình dạng chàng Xanxôn Caraxcô và anh hàng xóm của anh để tước đoạt của ta vinh quang của thắng lợi. Mặc dù vậy, ta cũng tự hào vì đã chiến thắng kẻ thù, dù nó đội lốt ai cũng vậy.

- Chỉ có trời mới biết được sự thật của mọi việc, Xantrô đáp.

Những lý lẽ viển vông của Đôn Kihôtê không thuyết phục được bác, vì bác biết rất rõ nàng Đulxinêa thay hình đổi dạng là do mưu mô của bác; tuy nhiên, bác cũng chẳng cãi làm chi, sợ nói lộ ra hết âm mưu.

Thầy trò đang bàn chuyện hão huyền bỗng đâu có một người đi cùng đường, từ phía sau tiến đến. Khách lạ cưỡi một con ngựa chấm đen trắng trông rất đẹp mắt, mình khoác một tấm áo dạ màu xanh viền nhung màu da thú, đầu đội mũ cũng bằng thứ nhung đó. Chàng mang một thanh gươm cong của người Môrô, dải đeo màu xanh và vàng; đôi ủng đóng cũng công phu như chiếc dải đeo gươm vậy; đinh thúc ngựa không mạ vàng mà phết một nước sơn xanh thật mịn, thật bóng, thật hài hòa với toàn bộ trang phục, nom còn đẹp mắt hơn bằng vàng nguyên chất. Khi đi ngang mặt thầy trò Đôn Kihôtê, người khách lễ phép chào rồi thúc ngựa định vượt. Thấy vậy, Đôn Kihôtê lên tiếng:

- Thưa quý khách, nếu ngài đi cùng đường với chúng tôi và không có việc gì gấp, tôi sẽ rất hân hạnh được hầu chuyện ngài.

Khách cưỡi ngựa đáp lại:

- Quả thật, tôi sẽ không đi nhanh như vậy nếu không vì sợ con ngựa cái của tôi làm cho con ngựa đực của ngài động tình.

- Xin ngài cứ việc ghì cương con ngựa cái của ngài lại, Xantrô bảo, vì con ngựa đực của chủ tôi ngoan ngoãn nết na nhất trên đời. Trong trường hợp thế này, không bao giờ nó làm điều gì bậy bạ, trừ một lần nó không tự kiềm chế nổi khiến ông chủ tôi và tôi phải trả giá gấp bảy lần. Tôi xin nhắc lại là ngài cứ đi chậm dù có bưng con cái đến tận miệng nó, chắc chắn nó cũng chẳng ngó ngàng.

Người khách lạ ghìm dây cương, lấy làm ngạc nhiên về hình thù, mặt mũi của Đôn Kihôtê - lúc này chàng hiệp sĩ của chúng ta để đầu trần, mũ sắt đeo lủng lẳng ở đầu cốt yên con lừa của Xantrô. Nếu như khách áo xanh chăm chú quan sát Đôn Kihôtê thì chàng hiệp sĩ quan sát lại còn chăm chú hơn, nghĩ rằng đây phải là một nhân vật khác thường. Khách trạc ngũ tuần, tóc chỏm bạc, mũi khoằm, đôi mắt nửa vui, nửa nghiêm, tóm lại, y phục và phong thái tỏ ra là một con người có phẩm hạnh. Nhìn chàng Đôn Kihôtê xứ Mantra, ông ta ngạc nhiên, bụng bảo dạ chưa hề thấy có một người nào bộ dạng lạ lùng đến vậy, cổ thì ngẳng, người cao lêu đêu, mặt gầy nhom và vàng ệch, vũ khí đeo đầy người, cử chỉ, áo quần... thật là một bức chân dung lâu lắm không thấy xuất hiện trên trái đất này. Thấy khách trố mắt nhìn mình, Đôn Kihôtê đoán được ý muốn của ông ta. Vốn lịch thiệp và thích làm đẹp lòng mọi người, không để khách hỏi, chàng đi trước ý định và nói:

- Tôi không lấy làm lạ một khi ngài tỏ vẻ ngạc nhiên trước hình dáng kỳ lạ, khác người của tôi; song, ngài sẽ hết sức kinh ngạc khi tôi thưa với ngài rằng tôi là một trong những hiệp sĩ đi tìm kiếm những chuyện phiêu lưu mạo hiểm, như thiên hạ thường nói. Tôi bỏ quê hương, bỏ tiền của, bỏ cả cuộc sống êm ấm, phó mặc số phận cho thần May rủi dẫn đi. Tôi muốn làm sống lại ngành hiệp sĩ giang hồ đã chết từ lâu; đã bao lâu nay có lúc vấp ngã rồi lại dậy, tôi đã thực hiện được một phần lớn nguyện vọng của mình; tức là cứu vớt gái góa, bênh vực gái tân, giúp đỡ gái có chồng, trẻ côi cút và vị thành niên, một công việc dành riêng cho các hiệp sĩ giang hồ, với những chiến công anh dũng, liên tiếp và hợp ý Chúa, tôi xứng đáng được giới thiệu trên sách ở hầu hết các nước trên thế giới, Người ta đã im ba mươi nghìn cuốn sách nói về cuộc đời tôi và còn định in ba mươi triệu lần nữa nếu trời không ngăn lại. Để tóm lại trong vài câu ngắn, hoặc chỉ một câu, xin thưa rằng tôi là Đôn Kihôtê xứ Mantra, còn có tên là hiệp sĩ Mặt Buồn. Mình tự khen mình là một hành động hạ thấp phẩm giá, song tôi nghĩ rằng tôi bắt buộc phải làm một khi không ai nói ra cho. Bởi vậy, thưa ngài quý tộc, con ngựa này, ngọn giáo này, tấm khiên này, người giám mã này, tất cả những vũ khí này, nước da vàng vọt này, thân hình gày còm này sẽ không khiến ngài phải ngạc nhiên nữa sau khi biết tôi là ai và làm nghề gì.

Đôn Kihôtê chưa dứt câu, nhà quý tộc áo xanh lặng đi như không nói nên lời; hồi lâu, ông ta mới cất tiếng:

- Thưa ngài hiệp sĩ, trước vẻ kinh ngạc của tôi, ngài đã nhìn thấu tấm lòng tôi, song ngài vẫn không làm cho tôi hết ngạc nhiên kể từ lúc tôi gặp ngài tới giờ. Như ngài đã nói, tôi sẽ hết sức ngạc nhiên một khi biết ngài là ai. Sự thật không phải thế, trái lại, từ lúc biết rõ ngài rồi, tôi lại càng ngạc nhiên. Làm sao có thể có các hiệp sĩ giang hồ ở đời này, và làm gì có sách viết về những hành động kiếm hiệp có thật cơ chứ. Tôi không thể tin được rằng ở đời này có những người đứng ra giúp đỡ gái góa, bênh vực gái tân, che chở gái có chồng, cứu vớt trẻ côi cút; tôi sẽ không bao giờ tin điều đó nếu tôi không nhìn thấy ngài tận mắt hôm nay. Xin cảm tạ Thượng đế. Cuốn sách in viết về những chiến công cao cả và có thật của ngài sẽ đánh bạt những cuốn sách viết về các hiệp sĩ giang hồ nhan nhản trên đời, đã làm hỏng thuần phong mỹ tục và làm hại những cuốn sách hay.

- Những sách viết về các hiệp sĩ giang hồ có thật hay không, điều đó còn phải bàn nhiều, Đôn Kihôtê nói.

- Liệu có ai nghĩ rằng những cuốn sách đó không bịa không? Khách áo xanh hỏi.

- Có tôi, Đôn Kihôtê đáp, nhưng thôi, xin đừng bàn chuyện đó nữa. Nếu như chúng ta còn đi cùng đường với nhau, tôi hy vọng Chúa sẽ làm cho ngài hiểu rằng ngài đã hành động sai trái, đi theo khuynh hướng của những kẻ coi loại sách đó là bịa.

Nghe đến đây, khách áo xanh đâm ra ngờ rằng Đôn Kihôtê hẳn phải là kẻ mất trí, và ông chờ đợi những câu tương tự để xác minh nhận xét của mình. Trước khi bàn tới chuyện khác, Đôn Kihôtê yêu cầu khách áo xanh:

- Tôi đã giới thiệu với ngài về thân thế, cuộc đời của tôi rồi; bây giờ, xin hãy cho biết ngài là ai.

- Thưa ngài hiệp sĩ Mặt Buồn, khách áo xanh đáp, tôi là một người quý tộc; quê tôi là nơi mà chúng ta sẽ tới và dùng cơm trong ngày hôm nay, nếu Chúa cho phép; về của cải, tôi thuộc loại trung lưu; tên tôi là Đôn Điêgô đê Miranđa. Tôi sống với vợ, với các con và bè bạn. Thú vui của tôi là săn bắn và câu, song tôi không nuôi chim ưng và chó săn mà chỉ có một con chim mồi dễ bảo và một con chồn đen xông xáo, tôi có sáu tá sách tiếng Tây Ban Nha và tiếng Latinh, toàn là sách truyện và sách kinh, còn loại sách kiếm hiệp chưa lọt qua ngưỡng cửa nhà tôi. Tôi thích đọc truyện hơn sách kinh, miễn đó là những truyện giải trí lành mạnh, lời lẽ chau chuốt, tình tiết éo le, hấp dẫn, Phải nói loại sách này rất hiếm ở Tây Ban Nha. Đôi khi tôi ăn thết ở nhà hàng xóm, bạn bè, thường khi tôi mời họ. Tôi ăn uống tinh khiết và đầy đủ; tôi không thích gièm pha và cũng không thích nghe lời gièm pha; tôi không nhòm ngó của đời của ai và cũng không xoi mói của đời của người khác. Hàng ngày, tôi đi lễ và phân phát của cải của tôi cho người nghèo, không khoe khoang những việc làm từ thiện để tránh cho mình tính đạo đức giả và tính kiêu căng, những kẻ thù có thể dễ dàng luồn lọt vào một trái tim khiêm nhường nhất. Tôi cố gắng dàn xếp những mối bất hòa; tôi sùng kính Đức mẹ và luôn luôn tin vào lòng từ bi vô tận của Chúa.

Từ nãy, Xantrô vẫn lắng nghe nhà quý tộc kể về cuộc đời và việc làm hàng ngày của ông. Bác cho rằng đó là một cuộc sống lành mạnh và nề nếp, người nào có một cuộc sống như vậy ắt phải làm nên những điều kỳ diệu. Đang ngồi trên lưng lừa, bác tụt xuống đất, chạy tới nắm bàn đạp bên phải của nhà quý tộc, rồi với một vẻ thành kính, mắt rưng rưng như muốn khóc, bác hôn lấy hôn để bàn chân ông ta. Trước cảnh tượng đó, nhà quý tộc hỏi:

- Người anh em làm gì vậy? Những cái hôn đó nghĩa là thế nào?

- Hãy để cho tôi hôn, Xantrô đáp, vì hình như ngài là vị thánh đầu tiên cưỡi con ngựa mà tôi được gặp trong suốt cả cuộc đời tôi.

- Ta không phải là thánh mà là kẻ có nhiều tội, nhà quý tộc đáp, chính người anh em mới là thánh. Với tính tình chất phác như vậy, người anh em hẳn phải là thiện nhân.

Xantrô trở về vị trí cũ, trên lưng lừa. Hành động vừa rồi của bác làm cho Đôn Kihôtê đang trầm ngâm suy nghĩ cũng bật lên cười và một lần nữa khiến Đôn Điêgô phải kinh ngạc. Lúc này, Đôn Kihôtê hỏi thăm nhà quý tộc có mấy mụn con, chàng bảo:

- Các triết gia xưa không hiểu gì về Chúa cả; một trong những điều họ coi là hạnh phúc lớn nhất là có nhiều của cải thiên nhiên, có nhiều tiền bạc, có nhiều bạn bè và nhiều đứa con ngoan.

- Thưa ngài Đôn Kihôtê, nhà quý tộc đáp, tôi có một con trai, nhưng tôi nghĩ rằng thà không có nó còn sung sướng hơn. Không phải nó hư hỏng gì, song nó không được như ý mình. Năm nay nó mười tám tuổi, đã học sáu năm tiếng Latinh và Hy Lạp ở Xalamanca, khi tôi muốn cho nó học những môn khác, nó cứ khăng khăng đi vào môn thơ (nếu ta có thể coi thơ là một môn học), không tài nào làm cho nó thích môn Luật mà tôi muốn nó theo, hoặc môn thần học là bà chúa của các môn, ý tôi muốn nó trở thành niềm vinh quang của dòng họ, bởi vì chúng ta sống trong một thế kỷ mà các vị vua chúa đánh giá cao các văn nhân có đức - có tài mà không có đức khác nào viên ngọc trong đống phân. Thế nhưng suốt ngày nó chỉ mải mê nghiên cứu xem câu thơ nào trong tập Iliađa của Ômêrô hay hay dở, một bài thơ trào phúng nào đó của Marxial có nặng lời không, phải hiểu thế nào cho đúng một câu thơ của Virhiliô. Tóm lại, nó chỉ làm bạn với các tập sách của các nhà thơ đó hoặc Oaxiô, Perxiô. Huvênal, Tibulô, ngoài ra chẳng để ý tới các nhà thơ khác. Nó quá thờ ơ với thơ mới vừa qua, ở Xalamanca, người ta gửi về cho nó bốn câu thơ, đâu như đầu đề một cuộc thi thơ, vậy mà nó lúng túng mãi không làm nổi một bài giôxa [SUP]2[/SUP] để dự thi.

Nghe xong, Đôn Kihôtê đáp:

- Thưa ngài, con cái là những khúc ruột của cha mẹ. Bởi vậy, dù chúng tốt hay xấu, ta cũng phải thương yêu chúng như linh hồn mang lại cuộc sống cho ta. Bậc phụ mẫu phải dìu dắt chúng từ bé đi vào con đường của đạo đức, của những điều hay lẽ phải, của thuần phong mỹ tục để một khi lớn lên, chúng là nơi nương tựa cho cha mẹ già và là niềm vinh quang cho hậu thế. Theo thiển ý, bắt chúng phải theo học môn này hay môn khác là không đúng, tuy rằng ta cũng cần phải khuyên bảo chúng; và nếu không phải cần học để kiếm gạo một khi chúng sinh trưởng trong một gia đình khá giả, tôi nghĩ cứ để cho chúng theo học môn nào chúng thích. Tuy Thơ mang lại cảm khoái nhiều hơn lợi ích thực tê, song nó không thuộc những môn làm mất phẩm giá kẻ nào theo đuổi nó. Thưa ngài quý tộc, theo tôi, thơ giống như một thiếu nữ mơn mởn đương tơ được chăm sóc những thiếu nữ khác - tức là những môn học khác - chăm sóc, bồi đắp, chải chuốt, tô điểm cho. Thơ muốn hay phải được các môn học khác hỗ trợ và, ngược lại, nó cũng làm tôn các môn này lên. Song, cô thiếu nữ đó không thích bị sai khiến, kéo lê trên khắp phố phường, phô bày ở các ngã tư hoặc các xó xỉnh lâu đài. Thơ có những đặc tính tuyệt vời, người nào biết cách xử lý biến hóa nó thành vàng nguyên chất vô giá. Phải dìu dắt nó, không để cho nó chạy theo thể loại trào phúng xấu xa hoặc côtênô [SUP]3[/SUP] rẻ tiền. Những thể loại có giá trị là những bản anh hùng ca, những vở bị kịch làm cho người đọc phải rơi lụy, những hài kịch vui nhộn và sáng tạo. Thơ không dành cho những kẻ vô lại hoặc phàm phu tục tử vì họ không hiểu nổi và không thấy được những giá trị chứa đựng trong nó. Ở đây, xin ngài đừng nghĩ rằng tôi coi phàm tục là những đám bần dân, hạ đẳng; trái lại, tất cả những ai, dù là vua chúa, không hiểu biết về thơ đều có thể liệt vào những kẻ phàm phu tục tử. Và một người nào làm thơ với tất cả những tiêu chuẩn mà tôi vừa kể ra, sẽ được lừng danh ở khắp các nước văn minh. Nếu như ngài nói, con ngài không thích làm thơ bằng tiếng Tây Ban Nha, tôi cho rằng ý nghĩ đó không đúng. Ômêrô vĩ đại không làm thơ bằng tiếng Latinh vì ông là người Hy Lạp, Virhiliô cũng không viết bằng tiếng Hy Lạp vì ông là người Latinh.Tóm lại, các thi hào xưa đều viết bằng thứ tiếng hòa lẫn trong sữa mẹ chứ không dùng tiếng ngoại quốc để diễn đạt những ý tưởng cao đẹp của mình. Từ đó, ta có thể suy rộng ra đối với tất cả các nhà thơ trên thế giới; ta không nên xem thường một nhà thơ Đức hoặc một nhà thơ Tây Ban Nha vì họ viết bằng tiếng mẹ đẻ, thậm chí một nhà thơ sinh trưởng tại một tỉnh nào đó viết bằng tiếng địa phương. Theo tôi hiểu, thưa ngài, cậu con trai của ngài không hẳn đã không thích làm thơ bằng tiến Tây Ban Nha mà chỉ ác cảm với những ông thợ thơ không có kiến thức cần thiết để khêu gợi, bồi đắp và nâng cao năng khiếu của mình. Nghĩ vậy cũng có thể là ngộ nhận vì người ta cho rằng làm thơ là bẩm sinh, tức là đứa trẻ từ trong bụng mẹ lọt lòng đã là thi sĩ và, với thiên khiếu đó, chẳng cần suy nghĩ tìm tòi làm gì, cũng làm được thơ. Xin nói thêm là một thi sĩ bẩm sinh, lại có kỹ năng, vượt xa một thi sĩ có kỹ năng nhưng lại không có thiên khiếu; lý do là kỹ năng không thể thắng được thiên khiếu mà chỉ có thể nâng cao thiên khiếu. Thiên khiếu cộng với kỹ năng, kỹ năng hòa với thiên khiêu sẽ tỏ ra một thi sĩ hoàn toàn thiện mỹ. Thưa ngài quý tộc, để kết luận cho cậu chuyện của tôi, xin ngài hãy để cậu con trai của ngài đi theo con đường mà ngôi sao bản mệnh của cậu đã vạch ra. Một khi là một người học trò xuất sắc, lại vượt qua một cách trơn tru bước mở đầu của môn học tức là môn ngữ văn, với những tri thức đã tiếp thu được, cậu sẽ leo tới đỉnh cao của sự nghiệp văn chương, mà văn chương lại rất cần thiết cho một hiệp sĩ theo nghề cung kiếm, vì nó bồi dưỡng, tô điểm và nâng cao con người của chàng lên, cũng như mũ tế đối với giám mục và áo thụng đối với các luật gia giỏi giang. Nếu con trai của ngài làm thơ trào phúng đả vào danh dự của người khác thì hãy nên quở trách, trừng phạt và hủy những bài thơ ấy đi; nhưng nếu cậu làm thơ để lên án những thói hư tật xấu như Ônaxiô xưa kia đã làm một cách tế nhị, xin hãy khen ngợi. Thi sĩ được phép đã phá sự ghen ghét và nêu lên trong những câu thơ của mình thói xấu của những kẻ có tính đố kỵ, miễn là không chỉ đích danh người nào. Có những thi sĩ đáng phải đưa đi đày ở đảo Pôntô vì đã đả phá một tính xấu. Nếu nhà thơ sống lành mạng, thơ ông ta cũng lành mạnh; ngòi bút là tiếng nói của tâm hồn, những ý nghĩ trong tâm hồn được thể hiện thành những vần thơ. Những con người thận trọng, nghiêm túc, đức độ lại giỏi thơ đều được các vị vua chúa kính trọng, đãi ngộ, thậm chí được tặng vòng hoa kết bằng những lá cây chịu được sét đánh [SUP]4[/SUP], không một ai được xúc phạm tới những người đội trên đầu vòng hoa đó của vua ban cho.

Trước những lời lẽ của Đôn Kihôtê, nhà quý tộc áo xanh không khỏi sửng sốt, và ý nghĩ cho rằng chàng là một kẻ mất trí cũng tiêu tan dần trong đầu óc ông. Xantrô không thích nghe chủ nói, giữa đường bỏ đi tìm những người chăn cừu vắt sữa gần đó để kiếm ít sữa ăn. Trái lại, nhà quý tộc áo xanh rất thích thú bài diễn văn đầy trí tuệ của Đôn Kihôtê; ông đang định bàn tiếp, chợt Đôn Kihôtê ngẩng đầu lên thấy một cỗ xe trưng cờ hiệu của nhà vua đi tới. Nghĩ rằng phải có một chuyện phiêu lưu mạo hiểm mới là gì đây, chàng lớn tiếng gọi Xantrô đem mũ sắt lại. Nghe tiếng gọi, Xantrô rời bỏ đám người chăn cừu, tất tưởi thúc lừa đi đến với chủ lúc này đang sắp gặp một chuyện phiêu lưu cực kỳ rùng rợn.


--------------------------------
1. Những cuộc phiêu lưu mạo hiểm của Đôn Kihôtê trong phần thứ nhất
2. Một thể thơ rất khó làm. Dựa vào đầu đề gồm bốn câu thơ, phải làm 1 bài thơ gồm 4 đoạn, câu cuối của mỗi đoạn phải là 1 trong 4 câu thơ nói trên
3. Thơ gồm 14 câu
4. Tức cây nguyệt quế
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes


Chương XVII

Sự kết thúc tốt lành của câu chuyện những con sư tử trong đó lòng dũng cảm tuyệt vời của Đôn Kihôtê đạt tới đỉnh cao tột cùng



Sách kể rằng khi thấy Đôn Kihôtê gọi Xantrô mang mũ sắt lại, bác giám mã đang mải mua phó mát của những người chăn cừu. Bị dồn vào thế bí vì bị chủ gọi gấp quá, bác lúng túng chẳng biết để phó mát vào đâu; không muốn bị mất toi vì đã trót trả tiền rồi, bác liền nhét luôn vào cái mũ sắt rồi, vừa ôm chặt cái của quý đó, bác chạy lại xem chủ bảo gì. Tới nơi, Đôn Kihôtê bảo:

- Anh bạn hãy đưa cho ta cái mũ sắt này. Hoặc là ta ít am hiểu những chuyện phiêu lưu, hoặc là điều mà ta vừa phát hiện ra là một chuyện phiêu lưu khiến ta phải chuẩn bị vũ khí.

Nghe thấy vậy, nhà quý tộc áo xanh nhìn khắp xung quanh song chỉ thấy một cỗ xe đi lại, trên cắm hai, ba lá cờ nhỏ; đồ chừng chiếc xe đó chở tiền cho vua, ông nói cho Đôn Kihôtê biết, song chàng hiệp sĩ không tin vì đầu óc luôn nghĩ rằng mọi sự việc đối với chàng đều là những chuyện phiêu lưu mạo hiểm cả, chàng bảo nhà quý tộc:

- Người nào chuẩn bị tốt cho một trận đánh tức là đã thắng một nửa, tôi chuẩn bị trước cũng chẳng mất gì. Kinh nghiệm cho thấy tôi có những kẻ thù hữu hình và kẻ thù vô hình, và tôi cũng không biết chúng tấn công ở đâu, lúc nào, dưới hình thức nào.

Quay lại Xantrô, Đôn Kihôtê hỏi cái mũ sắt. Không biết làm thế nào để lấy phó mát ra, bác giám mã đành cứ thế đưa cho chủ. Đôn Kihôtê vớ lấy mũ, chẳng cần nhìn xem bên trong có gì không, đội ngay lên đầu. Bị ép quá chặt, những miếng pho mát tan ra thành nước, chảy ròng ròng xuống mặt mũi râu ria Đôn Kihôtê, chàng thất kinh hỏi giám mã:

- Xantrô, cái gì thế này? Phải chăng sọ ta nhũn hoặc óc ta tan, hoặc mồ hôi ta toát ra từ đầu đến chân? Nếu ta toát mồ hôi thì nhất định không phải vì sợ hãi, mặc dù ta biết chắc cuộc phiêu lưu này sẽ khủng khiếp. Hãy đưa cho ta cái gì để lau mồ hôi che lấp cả mặt ta rồi.

Chẳng nói chẳng rằng, Xantrô đưa cho Đôn Kihôtê chiếc khăn tay, thầm cảm tạ Chúa vì chủ đã không phát hiện ra. Đôn Kihôtê lau mặt xong bèn bỏ mũ ra xem bên trong có cái gì khiến chàng thấy đầu mát lạnh và khi nhìn thấy một đống lầy nhầy màu trắng, chàng đưa lên mũi ngửi và nói:

- Có tình nương của ta là nàng Đulxinêa làng Tôbôxô, mi đã bỏ pho mát vào đây, hỡi tên giám mã phản phúc, vô lại, xấu xa kia!

Rất thản nhiên, Xantrô vờ vĩnh đáp:

- Nếu là pho mát, xin hãy đưa cho tôi ăn nào; nhưng thôi, hãy để cho quỷ xứ nó ăn vì chỉ có nó bỏ vào thôi. Tôi lại dám làm bẩn mũ sắt của ngài ư? Sao ngài bắt nọn giỏi thế? Quả thật, thưa ngài, Chúa cũng chỉ cho tôi rằng tôi cũng bị những tên pháp sư hãm hại vì tôi là thủ hạ thân tín của ngài, và chúng bỏ những thứ nhơ bẩn vào mũ ngài để ngài nổi giận ghè nát xương sườn của tôi ra như ngài vẫn thường làm. Nhưng lần này, chắc là chúng không thành công đâu; và tôi tin rằng với bộ óc sáng suốt, ông chủ sẽ nhận thấy tôi chẳng có pho mát, chẳng có sữa, chẳng có gì hết. Vả chăng, nếu có, tôi sẽ bỏ vào bụng chứ không bỏ vào mũ sắt làm gì.

- Có thể lắm, Đôn Kihôtê nói.

Được chứng kiến sự việc từ đầu đến cuối, nhà quý tộc áo xanh lấy làm ngạc nhiên lắm, nhất là thấy Đôn Kihôtê, sau khi chùi đầu, mặt, râu, mũ, lại đội chiếc mũ đó ngay lên đầu, chân ghi bàn đạp, tay rút gươm, tay nắm ngọn giáo, miệng nói:

- Bây giờ thì ta đã sẵn sàng đánh nhau với cả quỷ Satăng, muốn ra sao thì ra.

Lúc đó, cỗ xe trưng cờ đã tới; đi theo xe chỉ có một người đánh xe trên lưng la và một người nữa ở đầu xe. Đôn Kihôtê lại gần và nói:

- Những người anh em đi đâu vậy, xe gì đấy? Trong xe chở gì và những lá cờ này là thế nào?

Người đánh xe đáp:

- Xe tôi chở một đôi sư tử của ngài thống đốc Ổan gửi về triều dâng Đức vua; sư tử nhốt trong cũi, những lá cờ trên xe là cờ nhà vua để dân chúng biết là xe chở hàng của Người.

- Sư tử có to không, Đôn Kihôtê hỏi.

- To lắm, người ngồi trên xe đáp, chưa từng thấy có sư tử nào ở châu Phi sang ta mà lại to như vậy. Tôi là người coi sư tử, tôi đã từng áp tải nhiều sư tử nhưng những con sư tử như thế này thì chưa. Có một đực và một cái, on đực nhốt trong cũi ở đầu xe, con cái trong cũi ở cuối xe. Lúc này chúng đang đói vì từ sáng tới giờ chưa được ăn gì. Thôi, xin ngài tránh ra, chúng tôi phải đi gấp để đến nơi còn cho chúng ăn.

Đôn Kihôtê nhếch mép nói:

- Các ngài pháp sư gửi đến cho ta những con sư tử mới nhỏ làm sap! Lại vào lúc chúng đang đói nữa. Được, các ngài sẽ thấy ta không phải là con người sợ sư tử. Anh coi sư tử ư? Hãy xuống xe và mở cũi lùa chúng ra. Tại đây, giữa cánh đồng này, ta sẽ cho chúng biết tay Đôn Kihôtê xứ Mantra, mặc dù chúng được lũ pháp sư phái đến đây.

- Thôi, thôi, nhà quý tộc áo xanh thẫm bảo, chàng hiệp sĩ của chúng ta lộ nguyên hình rồi. Pho mát làm sọ chàng mềm nhũn và óc chàng chín dừ.

Xantrô lại trước mặt ông ta và bảo:

- Thưa ngài, xin ngài hãy vì chúa làm cách nào ngăn ông chủ Đôn Kihôtê của tôi đừng đánh nhau với lũ sư tử này; nếu ông ta làm việc đó, chúng sẽ xé nhỏ cả bọn chúng ta mất thôi.

Nhà quý tộc nói:

- Ông chủ của anh điên rồ lắm khiến anh lo và nghĩ rằng ông ấy sẽ đánh nhau với những con sư tử dữ tợn như vậy?

- Ông ấy không điên nhưng tợn lắm, Xantrô đáp.

- Để ta bảo ông ấy chớ nên liều lĩnh như vậy, nhà quý tộc nói.

Rồi ông lại gần Đôn Kihôtê lúc này đang giục người coi sư tử mở cũi, ông nói:

- Thưa ngài, các hiệp sĩ giang hồ chỉ nên làm những cuộc phiêu lưu mang lại cho mình sự thành công chứ không phải sự thất bại. Dũng cảm đi đến liều lĩnh không phải là dũng cảm mà là điên rồ, huống chi những con sư tử này không hề chống đối ngài, thậm chí chúng không dám nghĩ tới điều đó. Đây là lễ vật dâng lên Đức vua, ta chớ nên giữ lại hoặc cản đường làm gì.

- Thôi đi, ngài quý tộc, Đôn Kihôtê đáp; ngài hãy lo chăm sóc con chim mồi dễ bảo và con chồn đen xông xáo của ngài thì hơn, mặc ai lo việc nấy. Đây là việc của tôi, tôi biết rõ những chú sư tử này có dành riêng cho tôi hay không.

Rồi quay lại người coi sư tử, chàng bảo:

- Ông tướng kia, liệu hồn; nếu không mở cũi ra, ngọn giáo này sẽ khâu chặt ông vào cũi xe bây giờ.

Thấy ông ngáo ộp vũ trang này cứ khăng khăng đòi mở, người đánh xe nói:

- Ngài ôi, xin ngài làm lúc làm đức cho tôi tháo hai con la và đưa chúng đến nơi an toàn trước khi mở cũi kẻo sư tử ăn thịt chúng thì tôi hết đời; cả vốn liếng nhà tôi chỉ có chiếc xe và hai con la này thôi.

- Ôi, con người kém tin tưởng, Đôn Kihôtê nói; thôi được, hãy xuống xe và tháo la ra, muốn làm gì thì cứ làm rồi ngươi sẽ thấy mình đã làm một việc vô ích, quá cẩn thận.

Người đánh xe nhảy xuống đất, tháo vội hai con la; trong khi đó, người coi sư tử nói to:

- Xin tất cả các vị có mặt tại đây làm chứng cho tôi là tôi bị bắt ép phải mở cũi thả sư tử ra; tôi tuyên bố với ông hiệp sĩ là ông phải bồi thường mọi thiệt hại do những con thú này gây ra, kể cả tiền lương và các quyền lợi khác của tôi. Nào, các vị hãy tìm chỗ ẩn nấp trước khi tôi mở; riêng tôi chắc chắn không bị chúng ăn thịt đâu.

Nhà quý tộc áo xanh lại một lần nữa khuyên can Đôn Kihôtê đừng làm chuyện điên rồ như vậy, nhưng làm thế chẳng khác gì thách thức cả Thượng đế. Đôn Kihôtê đáp là chàng rất có ý thức về hành động của mình. Nhà quý tộc bảo:

- Ngài coi chừng đấy, tôi biết chắc ngài nhầm rồi.

- Thôi, Đôn Kihôtê nói, nếu ngài không muốn chứng kiến một sự việc mà ngài cho là bi đát, xin hãy quất con ngựa cái lấm chấm đen trắng của ngài và tìm đường ẩn nấp đi.

Nghe thấy vậy, Xantrô nước mắt vòng quanh, van xin chủ hãy từ bỏ việc làm nguy hiểm đó vì nếu đem so sánh thì câu chuyện về những chiếc cối xay gió, câu chuyện rùng rợn về cái chày nện dạ [SUP]1[/SUP] cùng tất cả những chuyện phiêu lưu mạo hiểm mà chàng đã gặp từ trước tới giờ chỉ bằng hạt bụi, bác bảo:

- Xin ngài hãy coi chừng vì trong chuyện này chẳng có phù phép phù tắc gì hết. Qua chấn song và khe cũi, tôi nhìn thấy rõ một cái vuốt sư tử, và tôi kết luận rằng một con sư tử có cái vuốt như vậy ắt phải to hơn quả núi.

- Thôi đi, Đôn Kihôtê đáp, sự sợ hãi còn làm cho anh tưởng con sư tử đó to hơn cả nửa trái đất nữa kia. Xantrô, tránh ra và mặc ta. Nếu ta chết ở đây, hãy nhớ tới điều thỏa thuận trước kia là anh đi gặp nàng Đulxinêa cho ta; ta nói thế thôi.

Đôn Kihôtê còn nói nhiều những câu tương tự khiến mọi người hết hy vọng chàng từ bỏ ý định ngông cuồng. Nhà quý tộc áo xanh muốn dùng vũ lực ngăn cản Đôn Kihôtê song không có đủ vũ khí trong tay, và chăng, ông thấy đánh nhau với tên điên này là dại (lúc này, ông đã thấy Đôn Kihôtê hoàn toàn điên rồ). Trong lúc chàng hiệp sĩ dọa nạt, giục giã người coi sư tử, nhà quý tộc áo xanh vội thúc ngựa, Xantrô vội thúc lừa, người đánh xe cũng vội thúc la, cả ba cố lánh xa cỗ xe chừng nào hay chừng ấy trước khi lũ sư tử ra khỏi cũi. Xantrô khóc hu hu vì bác cầm chắc phen này chủ bác sẽ phải chết dưới nanh vuốt của hai con ác thú; bác nguyền rủa số phận, nguyền rủa giờ phút bác quyết định trở lại theo hầu Đôn Kihôtê; tuy nhiên, bác không vì mải than khóc mà quên quất con lừa chạy rõ xa cỗ xe. Thấy mọi người đã tản ra, người coi sư tử nhắc lại những yêu cầu đã nêu trên kia. Đôn Kihôtê đáp:

- Biết rồi, xong hà tất phải đặt những yêu cầu đó ra làm gì vì không cần thiết, nào, nhanh tay lên.

Trong lúc người coi sư tử loay hoay mở cũi thứ nhất, Đôn Kihôtê suy tính xem nên chiến đấu trên ngựa hay dưới đất, rằng Rôxinantê sẽ hoảng sợ khi giáp mặt sư tử. Thế là chàng xuống ngựa, vứt giáo, tay ôm khiên, tay ôm gươm rồi, với một sự dũng cảm tuyệt vời, từ từ tiến đến trước cỗ xe, mồm ra sức cầu nguyện, trước cầu Chúa, sau cầu tình nương Đulxinêa phù hộ cho. Cũng xin thưa với độc giả rằng khi viết tới đây, tác giả của câu chuyện có thật này thốt lên kêu: "Ôi, tả sao xiết sức mạnh và lòng dũng cảm của chàng Đôn Kihôtê xứ Mantra, tấm gương cho mọi hiệp sĩ trên đời soi mình, Đôn Manuel đê Lêôn tái sinh, niềm vinh dự của các hiệp sĩ Tây Ban Nha [SUP]2[/SUP]. Ta phải dùng những lời lẽ nào để nói lên chiến công kinh hồn này? Ta phải giải thích ra sao để các thế kỷ sau tin vào câu chuyện này? Làm sao tìm được những lời ca ngời xứng đáng mặc dù ta sẽ ca ngợi hết lời? Không ngựa, một thân một mình, với một lòng dũng cảm tuyệt vời, với thanh gươm không phải gươm Con Chó [SUP]3[/SUP], với tấm khiên bằng thép gỉ và đục, chàng hiên ngang đứng chờ hai co sư tử dữ tợn nhất mà rừng châu Phi sản sinh ra. Hỡi con người dũng cảm xứ Mantra, chính những hành động của chàng sẽ là bài ca về chàng, ta chẳng cần nhắc tới làm chi nữa vì không đủ lời ca tụng". Đến đây, tác giả dứt lời tán dương và nối tiếp câu chuyện bị đứt đoạn, ông kể như sau: Thấy Đôn Kihôtê đã vào tư thế sẵn sàng chiến đấu, lại tự xét không thể thả con sư tử đực ra - e chàng hiệp sĩ táo tợn kia nổi nóng lên thì tai vạ, - người coi thú bèn mở toang cũi thứ nhất trong đó có con sư tử vừa to một cách ghê gớm, vừa dữ tợn như đã kể trên. Việc đầu tiên của con thú là đi đi lại lại trong cũi nhốt, duỗi đuôi, vuốt và vươn mình, rồi nó há mồm chậm chạp ngáp, lưỡi thè ra tới gần hai gang để dụi mắt và liếm mặt; xong đâu đấy, nó thò đầu ra khỏi cũi, đưa đôi mắt đỏ ngầu như hai hòn than ngó ngó nghiêng nghiêng khiến kẻ nào to gan nhất cũng phải hồn xiêu phách lạc. Riêng Đôn Kihôtê vẫn chăm chú quan sát, chỉ mong nó lao ra khỏi xe là xông vào băm nó ra từng mảnh.

Tính điên rồ của Đôn Kihôtê thật quá quắt như vậy đó. Song chú sư tử tỏ ra độ lượng và nhã nhặn hơn là hung dữ, chẳng thèm chấp những trò thách thức trẻ con. Sau khi ngó ngang ngó dọc, chú quay lưng lại, chổng cả phần hậu môn vào mặt Đôn Kihôtê, ung dung trở thẳng vào cũi nằm dài. Thấy thế, Đôn Kihôtê lệnh cho người coi sư tử phải vào quất chọc con vật nhảy khỏi cũi.

- Tôi chịu thôi, người coi thú đáp, ví nếu tôi chọc tức nó, tôi sẽ là người đầu tiên bị nó xé xác ra. Ngài hiệp sĩ ơi, ngài chớ nên đòi hỏi gì nữa; nếu nói về lòng dũng cảm thì hành động của ngài không chê vào đâu được, xin đừng cầu may một lần nữa làm gì. Tôi đã mở cũi sư tử, ra hay không là tùy nó; nếu nó không ra, suốt cả ngày nó cũng sẽ chẳng ra. Bằng việc làm vừa rồi, ngài đã tỏ lòng dũng cảm của mình. Theo tôi hiểu, một đối thủ dũng cảm không phải làm một việc gì hơn nữa một khi thách thức địch thủ của mình và sẵn sàng chiến đấu, nếu kẻ địch không nhận lời tức là phải gánh lấy sự nhục nhã, còn người thách thức được coi như đã thắng trận.

- Sự thật là thế, Đôn Kihôtê nói; thôi, anh bạn hãy đóng cũi lại và bằng cách nào tốt nhất, hãy nhận thực những hành động của ta mà anh được chứng kiến như: anh đã mở cũi ra sao, ta đứng chờ như thế nào, rồi con sư tử không ra, ta lại chờ như thế nào, rồi nó vẫn không ra và quay lại vào cũi nằm. Đúng, ta không thể làm gì hơn nữa. Xéo đi, hỡi pháp thuật ma quái! Chúa phù hộ cho lẽ phải, chân lý và hiệp sĩ đạo chân chính! Nào, hãy đóng cũi vào để ta gọi những kẻ chạy trốn lại đây nghe anh bạn kể về chiến công này.

Người coi thú đóng cũi; Đôn Kihôtê móc vào đầu ngọn giáo chiếc khăn tay mà chàng dùng để lau khi phó mát chảy xuống mặt như mưa, rồi chàng cất tiếng gọi những kẻ theo đuôi nhà quý tộc áo xanh vừa chạy trốn vừa ngoái cổ lại nhìn. Xantrô là người đầu tiên thấy tín hiệu của chiếc khăn tay trắng, bác nói:

- Tôi xin chết nếu không phải ông chủ tôi thắng lũ ác thú; ông ấy vẫy khăn trắng kia kìa.

Mọi người dừng lại và nhận ra rằng kẻ đang vẫy khăn trắng chính là Đôn Kihôtê. Bớt sợ, họ dần dần tiến lại phía chàng thì nghe đúng tiếng Đôn Kihôtê gọi. Khi họ về tới cỗ xe, Đôn Kihôtê bảo người đánh xe:

- Người anh em hãy buộc là vào xe và tiếp tục của hành trình. Xantrô, thưởng hai đồng tiền vàng cho người đánh xe và người coi sư tử đã vì ta mà dừng xe lại.

- Tôi xin vui lòng đưa cho họ, Xantrô đáp. Song, những con sư tử thì sao? Chúng sống hay chết?

Đỡ lời Đôn Kihôtêm người coi thú chậm rãi tỉ mỉ kể lại đoạn kết thúc trận đánh, vừa thêm giấm thêm ớt cho nổi bật tinh thần dũng cảm của Đôn Kihôtê. "Nhìn thấy ngài Đôn Kihôtê, bác ta kể, con sư tử hồn vía lên mây, không dám xổ ra mặc dù tôi đã mở cũi khá lâu; ngài hiệp sĩ bắt tôi phải chọc cho nó ra; tôi bảo là dùng vũ lực để buộc nó ra có khác gì thách thức Thượng đế; cực chẳng đã, ngài bảo tôi phải đóng cũi lại".

- Xantrô, anh thấy thế nào? Đôn Kihôtê hỏi. Liệu có phép thuật nào thắng nổi lòng dũng cảm chân chính không? Lũ pháp sư có thể tước mất của ta vận may, song không thể tước được cái chí phấn đấu và lòng dũng cảm của ta.
Xantrô đưa hai đồng tiền vàng cho hai người đi theo xe, người đánh xe buộc la vào xe, người coi sư tử hôn tay Đôn Kihôtê, cảm ơn chàng đã thưởng tiền, hứa sẽ kể với Đức vua chiến công anh dũng này khi về triều.

- Nếu Đức vua có hỏi ai đã lập chiến công đó, hãy trả lời là Hiệp sĩ Sư tử. Ta muốn từ nay về sau, cái tên Hiệp sĩ Mặt Buồn mà ta đã mang từ nay sẽ đổi thành cái tên đó. Đây là tục lệ của các hiệp sĩ giang hồ ngày trước; họ thay đổi tên tuổi khi nào họ thích hoặc khi có dịp.

Tới đây, cỗ xe tiếp tục lên đường, Đôn Kihôtê, Xantrô và nhà quý tộc áo xanh cùng tiếp tục cuộc hành trình.

Trong suốt thời gian đó, Đôn Điêgô đê Miranđa chẳng nói chẳng rằng, chỉ chăm chú quan sát cử chỉ và lời lẽ của Đôn Kihôtê, nghĩ rằng đó là một con người tinh khôn mắc bệnh điên hoặc một anh chàng điên có trí tuệ. Ông không hề biết phần thứ nhất cuốn sách viết về Đôn Kihôtê; phải chăng được đọc cuốn sách đó, chắc chắn ông sẽ ngạc nhiên trước những hành động và lời nói của chàng một khi biết rõ bệnh điên của chàng. Chính vì không biết như vậy nên ông nghĩ là Đôn Kihôtê có lúc tỉnh lúc điên, vì rằng lời lẽ thì rành rọt, mạch lạc, mà hành động thì ngông cuồng, liều lĩnh, rồ dại. Ông nghĩ bụng: "Đôi một cái mũ sắt chứa đầy pho mát lên đầu mà tưởng là lũ pháp sư đập nát óc mình, thử hỏi có sự điên rồ nào lớn hơn thế không? Định đánh nhau với cả sư tử, có sự ngông cuồng liều lĩnh nào lớn hơn thế không?".

Còn đang mải mê suy nghĩ và tự hỏi mình như vậy, nhà quý tộc áo xanh chợt tỉnh khi nghe tiếng Đôn Kihôtê gọi:

- Thưa ngài , Đôn Điêgô đê Miranđa, chắc hẳn ngài cho tôi là một kẻ ngông cuồng rồ dại. Nghĩ như vậy kể ra cũng đúng vì những việc làm của tôi không chứng minh được điều gì khác hơn. Tuy nhiên, tôi muốn lưu ý ngài rằng tôi không quá điên rồ, ngu ngốc như ngài tưởng qua những biểu hiện bên ngoài của tôi. Thật là đẹp mắt và dũng cảm khi một hiệp sĩ đâm trúng ngọn giáo vào một con bò mộng ngay trước mặt nhà vua, giữa đấu trường rộng lớn; thật là đẹp mắt khi một hiệp sĩ mang vũ khí sáng choang diễu qua khán đài có các mệnh phụ ngồi trên, trước khi lao vào những trận đua tài sôi nổi; thật là đẹp mắt khi các hiệp sĩ đua tài trong các cuộc biểu dương võ nghệ để mua vui cho các vị vua và làm vẻ vang cho triều đình. Song, đẹp mặt hơn cả là cảnh một hiệp sĩ băng mình qua những nơi hoang vu cô quạnh, qua những nẻo đường, rừng rú, núi non, đi tìm kiếm và giải quyết một cách tốt đẹp nhất những chuyện phiêu lưu mạo hiểm hòng giành lấy cho mình tiếng thơm lừng lẫy muôn thuở. Theo tôi, một hiệp sĩ giang hồ cứu vớt một quả phụ ở nơi hoang vắng còn đẹp hơn một hiệp sĩ cung đình tán tỉnh một tiểu thư giữa chốn thị thành. Mỗi loại hiệp sĩ có những công việc riêng biệt; hiệp sĩ cung đình phục vụ các bà phu nhân, khoác lên mình những bộ chế phục để tăng thêm vẻ tôn nghiêm của hoàng cung, mở tiệc linh đình để thết đãi các nhà quý tộc nghèo, tham gia những cuộc đấu thương, dự những cuộc đua sức đua tài, tỏ ra cao quý, hào phóng, sang trọng và nhất là mộ đạo, và thế là đã làm trọn nhiệm vụ của mình. Trái lại, hiệp sĩ giang hồ phải đi tới cùng trời cuối đất, dấn thân vào những mê cung quanh co nhất, luôn luôn đương đầu với những việc làm quá sức, chống chọi lại những tia mặt trời nóng bỏng mùa hè, chịu đựng gió tuyết khắc nghiệt của mùa đông giữa nơi hoang vắng; sư tử không làm cho sợ hãi, quái vật không làm cho kinh hoàng; tóm lại, tìm kiếm, chiến đấu và bao giờ cũng thắng lợi, đó là những công việc chủ yếu của chàng. Số mệnh đã muốn tôi có chân trong giới hiệp sĩ giang hồ, cho nên tôi không thể làm ngơ trước những việc tôi cảm thấy là thuộc lĩnh vực hoạt động của tôi. Bởi vậy, đương đầu với lũ sư tử như tôi vừa làm là công việc trực tiếp của tôi dù tôi biết làm như vậy là quá liều lĩnh; song, thà rằng người dũng cảm tiến bước tới chỗ liều lĩnh còn hơn lùi bước tới chỗ hèn nhát. Cũng như một người hoang toàng dễ làm ra vẻ hào phóng hơn một anh bủn xỉn, kẻ liều lĩnh dễ trở thành một con người dũng cảm thực sự. Ngài Đôn Điêgô, xin hãy tin lời tôi: Khi gặp một chuyện phiêu lưu mạo hiểm, thà rằng làm quá mức còn hơn làm chưa tới mức vì nghe câu: "Hiệp sĩ này liều lĩnh" xuôi tai hơn câu: "Hiệp sĩ này nhát gan".

Đôn Điêgô đáp:

- Thưa ngài Đôn Kihôtê, xin thưa rằng với tất cả những gì ngài đã nói và làm đều thật chí lý, và tôi tin tưởng rằng nếu như những luật lệ của ngành hiệp sĩ giang hồ mai một đi, người ta sẽ tìm lại được trong trái tim của ngài kho lưu trữ chắc chắn nhất. Nhưng thôi, ta hãy nhanh chân kẻo muộn rồi. Về tới nhà tôi, ngài sẽ nghỉ ngơi vì sau cuộc phiêu lưu vừa qua, nếu ngài không mệt thân thì cũng mệt óc, mà thông thường mệt óc làm cho thân cũng mệt.

- Thưa ngài Đôn Điêgô, tôi coi lời mời của ngài là một ưu đãi và một ân huệ lớn đối với tôi, Đôn Kihôtê nói.

Rồi cả hai thúc ngựa phi nhanh hơn trước, vào khoảng hai giờ trưa thì về đến nhà Đôn Điêgô mà Đôn Kihôtê gọi là Hiệp sĩ Áo xanh.


--------------------------------
1. Những câu chuyện phiêu lưu mạo hiểm của Đôn Kihôtê kể trong phần thứ nhất
2. Đôn Manuel đê Lêôn đã vào chuồng sư tử để nhặt một chiếc bít tất tay của một bà lớn
3. Gươm Con Chó là một loại gươm có tiếng, cũng như ta nói: bánh đậu Rồng Vàng

 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes

Chương XVIII

Chuyện xảy ra đối với Đôn Kihôtê trong lâu đài - hay ngôi nhà - của hiệp sĩ áo xanh cùng những sự việc lý thú khác



Ngôi nhà của Đôn Điêgô đê Miranđa rộng thênh thang như thường gặp ở nông thôn, phía trên cổng ra vào là hình những vũ khí khắc vào đá tảng, hầm rượu nằm sâu dưới sân nhà, bên trên có nhiều vỏ xếp vòng tròn. Những chiếc vò này làm tại Tôbôxô khiến Đôn Kihôtê chạnh nhớ tới nàng Đulxinêa bị lũ pháp sư làm cho thay hình đổi dạng. Thế là chàng cất tiếng thở dài và, chẳng giữ mồm giữ miệng, cũng chẳng biết sợ ai bên cạnh, than rằng: "Ôi! Vật thân thương khiến ta trông thấy thêm đau lòng! Song, nếu hợp ý Chúa, các ngươi sẽ mang lại cho ta niềm vui và hạnh phúc. Ôi! Vò đất của Tôbôxô đã nhắc ta nhớ tới nỗi niềm đắng cay êm dịu".

Những lời than thở của Đôn Kihôtê đã lọt vào tai cậu thư sinh, thi sĩ, con trai của Đôn Điêgô, cùng với mẹ ra đón khách, nhìn hình dáng kỳ lạ của chàng hiệp sĩ, cả hai mẹ con lấy làm kinh ngạc lắm lắm. Đôn Kihôtê xuống ngựa, rất lịch thiệp tiến về phía bà chủ nhà để hôn tay, Đôn Điêgô bảo vợ:

- Mình hãy đón tiếp ngài Đôn Kihôtê xứ Mantra đây với tất cả sự ân cần sẵn có. Người đứng trước mặt mình là một hiệp sĩ giang hồ dũng cảm và phong nhã nhất thế gian.

Phu nhân Đôn Điêgô, tên thật là Đônha Crixtina, tỏ ra rất thân mật và lịch sự với khách, còn Đôn Kihôtê cũng đáp lại bằng những lời lẽ thật tế nhị, tao nhã. Trong lúc trò chuyện với cậu thư sinh, chàng cũng có thái độ như vậy khiến cậu cảm thấy khách mới tới là con người lịch thiệp, trí tuệ.

Tới đây, tác giả tả tỉ mỉ ngôi nhà của Đôn Điêgô với tất cả những vật dụng thường có trong nhà ở của nhà quý tộc giàu thôn quê. Dịch giả cuốn sách này thiết tưởng không cần phải nhắc tới những chi tiết đó vì nó không đi vào nội dung chính của câu chuyện, một chuyện hấp dẫn vì tính chính xác chứ không vì những chuyện lạc đề nhạt nhẽo.

Người ta đưa Đôn Kihôtê vào một căn phòng, Xantrô tháo hết vũ khí và áo giáp ra cho chủ rồi mặc vào người chàng một chiếc quần ống phồng và một tấm áo ngắn bằng da mai be bét gỉ ở vũ khí thòi ra, cổ áo ngắn theo kiểu học trò, không hồ cứng và cũng chẳng viền đăng ten, giầy đánh xi tử tế. Gươm của chàng đeo lủng lẳng vào một cái dải bằng da hải báo chứ không thắt ngang lưng vì nghe đâu chàng đau thận đã bao năm nay. Trước khi khoác lên vai tấm áo choàng bằng dạ nâu, chàng còn phải giội lên đầu tới năm. sáu xô nước (về số lượng xô nước, mỗi người nói một phách), thế mà nước vẫn nhờ nhờ màu sữa, cũng chỉ tại Xantrô tham ăn uống rước pho mát về thành thử trắng cả đầu óc mặt mũi chủ. Sau khi thắng bộ vào, Đôn Kihôtê khoan thai, đĩnh đạc bước sang phòng bên, ở đó cậu thư sinh đã chờ sẵn để hầu chuyện trong lúc gia nhân bày tiệc. Đối với một quý khách như vậy, tất nhiên phu nhân Đônha Crixtina cũng muốn tỏ rằng mình biết tiếp đãi những ai lui tới nhà.

Trong lúc Đôn Kihôtê thay quần áo, Đôn Lôrenxô - tên cậu con trai của Đôn Điêgô - hỏi cha:

- Chẳng hay ông hiệp sĩ mà cha đưa về nhà ta là người như thế nào? Được biết tên tuổi hình dạng, lại được nghe giới thiệu ông ta là hiệp sĩ giang hồ, con và mẹ lấy làm lạ lắm.

- Biết nói gì với con bây giờ, Đôn Điêgô đáp, ta chỉ có thể nói rằng ta đã thấy con người đó làm những việc điên rồ nhất đời và thốt ra những lời lẽ khôn ngoan làm át cả những hành động trên. Con hãy nói chuyện với ông ta và bắt mạch xem ông ta giỏi giang đến đâu; hãy mang tài trí ra tìm hiểu xem ông ta khôn ngoan hay điên dại, mặc dù ta nghĩ rằng đây là một người điên rồ chứ chẳng phải tỉnh táo gì.

Sau đó, như đã kể ở trên, Đôn Lôrenxô đi gặp Đôn Kihôtê. Trong câu chuyện, Đôn Kihôtê bảo Đôn Lôrenxô:

- Ngài Đôn Điêgô đê Miranđa, cha anh, đã giới thiệu với tôi về tài năng và trí tuệ hiếm có của anh, đặc biệt, anh là một thi sĩ lớn.

- Dạ, thi sĩ thì có thể, song tôi không dám nghĩ là lớn. Quả thật, tôi có phần nào mê thơ và thích đọc những nhà thơ hay, nhưng không tới mức để cha tôi tặng cho danh từ lớn.

- Khá khen cho tính khiêm tốn của anh, Đôn Kihôtê nói, vì không có thi sĩ nào không tự phụ và không tưởng mình là thi sĩ số một trên đời.

- Không quy tắc nào không có ngoại lệ, Đôn Lôrenxô đáp, và cũng có người giỏi thơ nhưng không nghĩ mình là thi sĩ.

- Ít thôi, Đôn Kihôtê nói. Bây giờ anh hãy cho tôi biết anh đang làm bài thơ gì khiến anh phải bận tâm suy nghĩ. Tôi thấy cha anh bảo thế. Nếu là thơ glôxa thì tôi cũng am hiểu đôi chút và tôi vui lòng được nghe. Nếu đây là một cuộc thi thơ, anh hãy cố chiếm giải nhì vì giải nhất bao giờ cũng ưu tiên giành cho người nào có cương vị trong xã hội; chính giải nhì mới là giải thực sự, giải ba là giải nhì, còn giải nhất lại thành giải ba. Đó là cách chấm thi cử nhân ở các trường đại học. Dù sao, người được giải nhất vẫn oai hơn.

Đôn Lôrenxô bụng bảo dạ: "Cho tới lúc này, tôi không thể bảo là ngài điên được; hãy tiếp tục xem sao", cậu nói:

- Hình như trước kia ngài có được ăn học, chẳng hay ngài học những môn gì?

- Môn Hiệp sĩ giang hồ, Đôn Kihôtê đáp; đó là một môn học không kém thơ, thậm chí còn hơn hai ngón tay nữa kia.

- Tôi không hề biết tới môn học đó, Đôn Lôrenxô bảo, và cho tới giờ cũng chưa hề nghe ai nói.

Đôn Kihôtê đáp:

- Đó là môn học bao gồm tất cả hoặc hầu hết những môn khác trên đời. Muốn trở thành hiệp sĩ giang hồ, phải trở thành luật gia và biệt những luật lệ của công lý để trao cho mỗi người những gì thuộc về họ; phải là nhà thần học để bảo vệ một cách rành mạch rõ ràng các quy tắc của đạo kitô bất cứ ở đâu yêu cầu; phải là thầy thuốc, đặc biệt, phải biết các cây thuốc, một khi ở nơi hoang vu vắng vẻ, có thể phân biệt được các cây cỏ có công dụng hàn gắn vết thương vì hiệp sĩ giang hồ không đi tìm kiếm người chữa chạy những vết thương đó; phải là nhà chiêm tinh học để có thể nhìn sao mà đoán được giờ ban đêm, biết mình đang ở miền nào, xứ nào; phải là nhà toán học vì mỗi bước đi đều cần tới, chưa kể còn phải có tất cả những đức tính chủ yếu của con người như đức tin, lòng nhân ái, tính lạc quan, lòng chung thủy, vân vân... Đi vào chi tiết, hiệp sĩ giang hồ phải giỏi như lời thiên hạ đồn về tài bơi lội của người cá Nicôlao [SUP]1[/SUP], phải biết bịt móng ngựa và đóng yên cương. Trở lại vấn đề nói trên, chàng phải có niềm tin vào Thượng đế và tình nương, phải trong sạch trong ý nghĩ, đứng đắn trong lời nói, phải phóng khoáng trong công việc, dũng cảm trong hành động, chịu được gian khổ, từ thiện với kẻ bần hàn và cuối cùng, phải giữ gìn chân lý dù phải hy sinh cả tính mạng để bảo vệ nó. Một hiệp sĩ giang hồ thực thụ phải có tất cả những điều kiện lớn nhỏ. Bây giờ, liệu anh có nghĩ rằng môn Hiệp sĩ giang hồ là lẩm cẩm không, liệu môn học đó có thua kém những môn khó nhất dạy ở các trường luyện võ và các trường học khác không?

- Nếu đúng như vậy, tôi dám chắc môn học đó vượt trên tất cả những môn học khác, Đôn Lôrenxô nói.

- Sao lại "nếu đúng như vậy"? Đôn Kihôtê hỏi vặn.

- Điều tôi muốn nói là tôi không tin có những hiệp sĩ giang hồ với đầy đủ đức tính đó, trước kia cũng như bây giờ, Đôn Lôrenxô đáp.

- Tôi đã nhiều lần nói những điều mà bây giờ tôi phải nhắc lại, Đôn Kihôtê bảo. Thiên hạ hầu hết cho rằng trên đời này không có hiệp sĩ giang hồ. Một khi Thượng đế không muốn cho họ hiểu rõ sự thật là trên đời này có hiệp sĩ giang hồ - trước kia cũng như bây giờ - thì có giải thích cũng vô ích mà thôi. Kinh nghiệm đã nhiều lần chỉ cho tôi thấy điều này. Song tôi không chịu để anh cũng có ý nghĩ sai lầm như thiên hạ. Điều tôi muốn làm là cầu Chúa cho anh hết lầm lẫn và hiểu ra rằng sự tồn tại của các hiệp sĩ giang hồ trong các thế kỷ qua thật có lợi và cần thiết, và nếu như ngày nay họ vẫn còn tồn tại thì thật là điều hữu ích. Tiếc là giờ đây, ta chỉ thấy đầy rẫy những thói quen xấu như lười biếng, nhàn rỗi, tham lam, rượu chè.

- Ông khách đi quá đà rồi, Đôn Lôrenxô tự bảo; tuy vậy, phải nhận thấy đây là một người điên khác thường, và ta sẽ là một thằng ngốc nếu không có suy nghĩ như ông ta.

Câu chuyện đến đây tạm ngừng vì chủ nhà mời khách vào bàn ăn. Đôn Điêgô hỏi con đã rút ra được kết luận gì cụ thể về tính tình ông khách, Đôn Lôrenxô đáp:

- Bao nhiêu thầy thuốc và thơ lại giỏi giang trên đời cũng chẳng rút ra được kết luận gì vì trường hợp này quá phức tạp. Ông ta điên chỉ từng lúc, lúc khác lại tỏ ra sáng suốt.

Mọi người ngồi vào bàn. Theo thường lệ mỗi khi thết khách, bữa ăn thật là linh đình, đúng như Đôn Điêgô đã tả trong khi đi đường; vừa tinh khiết, phong phú, vừa ngon lành. Nhưng điều làm cho Đôn Kihôtê hài lòng nhất là trong nhà im phăng phắc, in như một tu viện dòng thánh Brunô vậy. Sau khi ăn xong, cầu kinh và vẩy nước vào tay, Đôn Kihôtê khẩn khoản yêu cầu Đôn Lôrenxô đọc cho những câu thơ cậu làm để dự thi, cậu thư sinh đáp:

- Để làm khác những nhà thơ hay chối nguây nguẩy khi có ai yêu cầu đọc và, ngược lại, gào rõ to khi không ai mời, tôi xin đọc bài glôxa mà tôi không hy vọng giật được giải, làm luyện bút thôi.

Đôn Kihôtê hỏi:

- Một ông bạn giỏi thơ của tôi đã phát biểu là không nên ép làm thơ glôxa vì rằng, theo ông ta, bài thơ sẽ không đạt yêu cầu mà thường đi lạc đề; hơn thế nữa, luật thơ glôxa rất chặt chẽ như: không đặt câu hỏi, không dũng những chữ nó, đã nói, tôi sẽ nói, không chuyển động từ thành danh từ, không thay đổi ý tứ; ấy là chưa kể những điều quy định khắt khe khác bó tay nhà thơ lại. Hẳn anh hiểu điều này.

Đôn Lôrenxô đáp lại:

- Thưa ngài Đôn Kihôtê, quả tình tôi muốn đưa ngài vào bẫy mà không được vì ngài đã tuột khỏi tay tôi như con lươn vậy.

- Tôi không hiểu anh định nói gì khi bảo tôi đã tuột khỏi tay anh.

- Rồi ngài sẽ hiểu, bây giờ xin hãy nghe bốn câu thơ đầu đề và bài thơ tôi soạn theo:
Nếu quá khứ trở thành hiện tại
Ta chẳng còn mong ước nào hơn
Thời gian kia chỉ dừng chân lại
Ta còn hy vọng ở ngày mai
Glôxa

Vạn vật đổi thay, và niềm hạnh phúc mà có thời ta may mắn được hưởng, không bao giờ trả lại, dù trong một phút giây. Hỡi số mệnh, đã bao thế kỷ qua ta quỳ gối dưới chân người, hãy trả lại cho ta những ngày tươi đẹp. Sung sướng thay nếu quá khứ trở thành hiện tại.
Chẳng màng công danh, phú quý, thành đạt, hiển vinh, chỉ cần sao niềm mong ước day dứt lòng ta trở thành sự thật. Số mệnh ơi, hãy đưa ta về với quá khứ để làm dụi ngọn lửa đang bùng cháy trong ta; nếu hạnh phúc hiện ra trước mặt, ta chẳng còn mong ước nào hơn.
Có ai đáp ứng được đòi hỏi của ta. Kéo thời gian quay về những ngày đã qua, điều mà không quyền lực nào trên thế gian này làm được. Thời gian trôi, bay. nhẹ lướt, không quay về với quá khứ. Và thật sai lầm nếu nghĩ rằng thời gian kiađang dừng chân lại.
Sống khắc khoải lo sợ, chờ mong, khác nào chết, thà chết ngay để giải thoát nỗi đau buồn; ta vui lòng đón chờ cái chết. Song, bình tâm lại, ta còn sống vì ta còn hy vọng ở ngày mai.

Đôn Lôrenxô đọc hết bài thơ, Đôn Kihôtê đứng phắt dậy, nắm chặt tay phải của cậu, nói như gào:

- Hời chàng trai tài giỏi, có cao xanh chứng giám, chàng là thi nhân số một trên thế gian này, không những xứng đáng được nhận vọng nguyệt quế của Chiprê mà cả các viện hàn lâm ở Atêna cũng như cả viện hàn lâm ngày nay ở Paclônia, Xalamanca! Nếu các ngài giám khảo không trao giải nhất cho chàng, cầu trời cho những mũi tên của thần Apôlô xuyên qua người họ và các thi thần không bao giờ bước qua ngưỡng cửa nhà họ. Xin hãy đọc thêm một bài thơ hay vì tôi muốn đánh giá một cách toàn diện tài năng của chàng.

Chẳng phải bàn cũng thấy những lời ca tụng của Đôn Kihôtê Đôn Lôrenxô hởi lòng hởi dạ, mặc dù cậu cũng biết chàng hiệp sĩ này loạn trí. Ôi! Sức mạnh của lời khen. Ai có thể lường được khả năng to lớn của Người. Đôn Lôrenxô cũng phải chấp nhận chân lý này vì chàng đã đáp ứng yêu cầu của Đôn Kihôtê và đọc tiếp bài thơ nói về cuộc tình duyên bi thảm của chàng Piramô và nàng Tixbê [SUP]2[/SUP].

Xônêtô
Người thiếu nữ xinh đẹp tách đôi bức tường - người thiếu nữ ấy đã làm rung động con tim chàng Piramô hào hiệp. - Tình yêu từ Chiprê tới, bước thẳng vào khe hở nhỏ hẹp kỳ diệu.
Nơi đây, yên lặng bao trùm, tiếng nói không thể lọt qua một kẽ hở nhỏ như vậy, song tình cảm của đôi trai gái vẫn lọt được. Xưa nay, tình yêu thường biến những việc khó khăn nhất thành dễ dàng.
Điều mong ước đi quá xa, và những bước đi của người trinh nữ bất cẩn dẫn cả hai tới cõi chết.
Ôi, tình cảnh éo le! Một lưỡi gươm đã kết liệu cuộc đời đôi tình nhân, một nấm mồ chôn vùi hình hài họ, và ký ức đã làm họ sống lại.

Nghe xong bài thơ xônêtô, Đôn Kihôtê reo lên:

- Xin cảm tạ Thượng đế! Tôi đã tìm thấy ở anh một thi sĩ vẹn toàn nhất trong đám thi sĩ vẹn toàn trên đời này. Chính bài xônêtô, bài thơ tình của anh đã khiến tôi nghĩ như vậy.

Trong 4 ngày nghỉ chơi tại nhà Đôn Điêgô, Đôn Kihôtê được tiếp đãi rất trọng thể. Sau đó, chàng xin phép chủ nhà ra đi, chàng nói: "Tôi xin đa tạ sự tiếp đãi nồng hậu mà tôi được hưởng ở đây. Song, thiết tưởng người hiệp sĩ giang hồ không nên dành nhiều thời gian cho sự nhàn rỗi và tiệc tùng. Bởi vậy, tôi muốn lên đường làm nhiệm vụ, đi tìm kiếm những chuyện phiêu lưu mạo hiểm mà tôi nghe nói vùng này đầy rẫy. Đó cũng là một cách giết thời giờ trong lúc chờ đợi hội đấu thương ở Xaragôxa, mục đích chính chuyến xuất hành của tôi. Trước tiên, tôi phải xuống hang Môntêxixôx mà dân chúng trong vùng đồn là chứa nhiều điều kỳ lạ; tôi cũng sẽ tìm hiểu nguồn gốc của bảy hồ nước mà người ta thường gọi là hồ Ruiđêra".

Đôn Điêgô và con trai tán thưởng quyết định cao đẹp của chàng; họ bảo chàng cần thứ gì trong nhà thì cứ lấy tự nhiên, rằng họ rất vui lòng làm theo ý muốn của chàng, rằng lòng dũng cảm và nghề nghiệp vinh quang của chàng khiến họ có trách nhiệm phải phục vụ. Tới ngày lên đường, Đôn Kihôtê vui mừng bao nhiêu thì Xantrô Panxa buồn phiền bấy nhiêu vì bác đang được sống phè phỡn trong sự sung túc của gia đình Đôn Điêgô, không muốn trở lại cảnh đói khổ thường gặp phải trong những nơi rừng núi hoang vu, với túi lương ăn nghèo nàn ít ỏi; tuy buồn phiền song bác cũng không quên nhét đầy túi tất cả những thứ bác cho là cần thiết nhất. Giờ chia tay, Đôn Kihôtê bảo cậu Đôn Lôrenxô:

- Không biết tôi đã nói với anh điều này chưa, dù có nói rồi thì tôi cũng xin nhắc lại: nếu anh muốn rút ngắn đường đi và giảm bớt gian khổ để vươn tới đỉnh cao vòi vọi của danh vọng, anh chỉ cần từ bỏ con đường của Thi ca có phần nào gian khổ mà hãy đi theo con đường vô cùng gian khổ của Hiệp sĩ giang hồ, thế là đủ cho anh trở thành hoàng đế trong khoảnh khắc.

Với những lời lẽ đó, Đôn Kihôtê đã tới bậc thang cuối cùng của sự điên rồ, nhất là khi chàng nói thêm:

- Nào ai đoán được ta có ý định đem theo chàng Đôn Lôrenxô để dạy cho chàng biết khoan dung đối với kẻ nghèo hèn và nghiêm khắc đối với những tên ngạo mạn, những đức tính gắn liền với nghề nghiệp của ta. Song, vì chàng còn non trẻ và không thể bỏ dở việc học hành, ta chỉ có lời nhắn nhủ như sau: một nhà thơ chỉ có thể trở thành nổi tiếng nếu lắng nghe ý kiến của dân chúng hơn là ý kiến bản thân. Không có cha mẹ nào cho con mình là xấu, và điều sai lầm này càng hay xảy ra khi họ đánh giá khía cạnh trí tuệ của đứa con.

Một lần nữa, hai cha con Đôn Điêgô lại phải ngạc nhiên về những câu nói xen lẫn khôn ngoan và ngớ ngẩn của Đôn Kihôtê cũng như về quyết tâm của chàng đi tìm những câu chuyện phiêu lưu bất hạnh, mục đích cuối cùng của những hoài bão mà chàng theo đuổi. Chủ và khách còn mời chào, dặn dò nhau mãi không dứt; cuối cùng, được bà chủ đáng yêu của lâu đài cho phép, Đôn Kihôtê và Xantrô lên đường, thầy cưỡi Rôxinantê, trò cưỡi lừa.


--------------------------------
1. Chàng Nicôlao (Thế kỷ XV) bơi rất giỏi, có thể sống dưới nước như trên cạn.

2. Piramô và Tixbê yêu nhau nhưng bị cha mẹ ngăn cấm, phải lén lút tình tự qua khe hở bức tường nhà. Để được toại nguyện, họ bàn nhau đi trốn. Trên đường hẹn hò, Tixbê bị một con sư tử đuổi theo. Để thoát thân, nàng vứt lại chiếc khăn quàng. Piramô tới sau, nhận ra chiếc khăn, ngỡ là người yêu bị thú dữ ăn thịt, bèn rút gươm tự vẫn. Tixbê quay trở lại, thấy Piramô chết cũng tự kết liễu cuộc đời
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes


Chương XIX

Kể về chàng chăn cừu si tình, cùng những chuyện khác thật là lý thú



Đôn Kihôtê mới đi ra khỏi làng của Đôn Điêgô được một quãng, bỗng đâu gặp hai người nom có thể là thầy tu hoặc sinh viên [SUP]1[/SUP] và hai bác nông phu, cả bốn người đều cưỡi lừa. Một trong hai anh chàng sinh viên nọ mang tay nải xanh, bên trong hình như có vải trắng và hai đôi bít tất chân bằng vải len thô; chàng thứ hai có một đôi kiếm nhụt [SUP]2[/SUP] mới tinh, còn nguyên núm ở đầu. Hai bác nông phu mang những thứ khác, cứ nhìn cũng biết họ mua ở ngoại tỉnh đem về nhà dùng. Cả hai chàng sinh viên lẫn hai bác nông phu đều ngạc nhiên như bất cứ ai lần đầu tiên trông thấy Đôn Kihôtê, và họ đều nóng lòng muốn biết con người dị dạng, khác thường đó là ai. Đôn Kihôtê cất tiếng chào và khi biết họ đi cùng đường, chàng ngỏ ý muốn nhập bọn, yêu cầu họ đi chậm lại vì lừa của họ đi nhanh hơn ngựa của chàng. Để buộc họ phải nhận lời, chàng tự giới thiệu vắn tắt nghề nghiệp là hiệp sĩ giang hồ tìm kiếm những chuyện phiêu lưu mạo hiểm trên khắp thiên hạ, tên gọi Đôn Kihôtê xứ Mantra, biệt hiệu là Hiệp sĩ Sư tử. Hai bác nông phu cứ như thể đang nghe tiếng Hy Lạp hay tiếng nói riêng của người mù vậy, còn hai chàng sinh viên biết ngay đầu óc của Đôn Kihôtê có sự lộn xộn; tuy ngạc nhiên, họ vẫn tỏ ra kính trọng, một anh nói:

- Nếu ngài hiệp sĩ không chủ động đi hướng nào như thói thường của những người tìm kiếm chuyện phiêu lưu mạo hiểm, xin hãy đi theo chúng tôi; ngài sẽ được mục kích một trong những đám cưới linh đình nhất, sang trọng nhất từ trước tới giờ ở xứ Mantra và các vùng xung quanh cách xa hàng ngàn dặm.

Đôn Kihôtê hỏi có phải đám cưới ông hoàng nào không.

- Không phải, chàng sinh viên đáp, đây là đám cưới của một nông phu với một thôn nữ. Chàng là người giàu nhất thế gian, còn nàng là người đẹp nhất trần ai. Lễ cưới sẽ được cử hành một cách độc đáo chưa từng thấy, trên một đồng cỏ cạnh làng, cô dâu mà người ta gọi rất đúng là Kitêria Xinh đẹp; chú rể tên là Camachô giàu có. Nàng mười tám tuổi, chàng đôi mươi, hai bên môn đăng hậu đối, tuy có kẻ xoi mói, thuộc tất cả tung tích các dòng họ trên đời, bảo rằng dòng họ của nàng Kitêria Xinh đẹp còn danh giá hơn dòng họ Camachô. Song điều đó chẳng hề chi vì của cải đủ sức mạnh bịt hết những lỗ hổng. Vốn tính hào phóng, Camachô cho lấy cành cây lấp kín cả cánh đồng khiến mặt trời khó lòng tới thăm được thảm cỏ xanh ở mặt đất. Chàng còn soạn ra những điệu múa kiếm, múa chuông vì trong làng có nhiều người rất thành thạo. Về điệu múa đập tay vào giày thì khỏi phải nói vì chàng cho gọi rất nhiều con tới. Song, theo tôi nghĩ, tất cả những điều kể trên cùng những điều khác mà tôi không nhắc tới ở đây cũng sẽ không đáng ghi nhớ bằng những việc mà chàng Baxiliô sẽ làm trong lễ cưới. Chàng Baxiliô này là một anh chăn cừu cùng làng với nàng Kitêria, hai nhà cách nhau có bức tường. Và tình yêu lại có dịp nhắc nhở người đời mối tình xưa của Piramô và Tixbê. Số là Baxiliô đem lòng yêu thương Kitêria từ khi còn nhỏ, và Kitêria cũng đáp lại tấm lòng của Baxiliô bằng những biểu hiện rất trong trắng. Trong lúc nhàn rỗi, dân làng hay bàn tán về mối tình của đôi trẻ Baxiliô và Kitêria. Thấy con gái ngày một khôn lớn, cha của Kitêria ngăn không cho Baxiliô lui tới nhà mình như trước nữa, và để tránh những sự rầy rà, phiền phức, ông quyết định gả con gái cho chàng Camachô nhà giàu, nghĩ rằng chẳng tội gì gả cho Baxiliô, vì anh này nghèo xác xơ, lại chẳng được ăn thừa kế gì của cha mẹ. Công bằng mà nói thì Baxiliô là chàng trai nhanh nhẹn có một, rất giỏi ném lao, đánh vật và tung cầu, chạy nhanh như hoẵng, nhảy nhẹ như dê và chơi ném ky thì tuyệt; anh hát hay như sơn ca, và anh chơi đàn tục huyền tưởng như đàn biết nói vậy; đặc biệt, anh đánh kiếm không thua gì tay kiếm cừ khôi nhất.

Từ nãy tới giờ, Xantrô Panxa vẫn ngồi nghe, không nói năng gì, lúc này, bác mới lên tiếng:

- Giá mà vợ tôi biết chuyện này nhỉ! Bà chỉ muốn cho trên đời những cặp vợ chồng phải bằng vai phải lứa, nói theo đúng câu phương ngôn rằng: "Nồi đồng thì úp vung đồng". Mong sao cậu Baxiliô mà tôi có cảm tình, lấy được phu nhân Kitêria. Thật đáng nguyền rủa cho kẻ nào trên thế giới này hay thế giới bên kia cấm duyên những đôi lứa yêu nhau.

Đôn Kihôtê nói:

- Nếu tất cả những ai yêu nhau đều phải lấy được nhau thì cha mẹ đã mất hết quyền kén chọn và quyết định cho con mình lấy ai và lấy lúc nào. Nếu các cô gái được phép kén chồng theo ý muốn, cô sẽ lấy cả người hầu của cha mình, cô sẽ lấy một kẻ qua đường nom ra vẻ hiên ngang hùng dũng song chỉ là một tên giết người chuyên nghiệp. Tình yêu dễ làm cho đôi mắt của lý trí trở nên mù quáng, mà lý trí lại rất cần thiết trong mọi sự lựa chọn. Trong một cuộc hôn nhân, sự lựa chọn rất dễ có nguy cơ bị lệch lạc, cần phải hết sức thận trọng và có sự giúp đỡ đặc biệt của Trời mới chọn được đúng nơi đúng chỗ. Tại sao một người phải du hành suốt cuộc đời cho tới lúc chết lại không làm như vậy, nhất là khi một bạn đồng hành của mình nằm cùng giường, ăn cùng bàn và đi theo mình khắp mọi nơi như trường hợp vợ chồng? Vợ không phải là thứ hàng hóa mua đi bán lại được. Hôn nhân là một biến cố trong cả cuộc đời, không thể vãn hồi được; đó là một sợi dây, một khi tròng vào cổ thì không thể gỡ nổi, trừ phi có cái liềm của thần Chết chặt đứt nó ra. Và vấn đề này, tôi có thể nói thêm nhiều nữa, song tôi dừng lại ở đây vì muốn biết thầy cử có kể gì thêm về câu chuyện của chàng Baxiliô nữa không.

Chàng sinh viên mà Đôn Kihôtê vừa gọi là thầy Cử đáp:

- Tôi chỉ muốn kể thêm rằng từ lúc Baxiliô biết tin Kitêria Xinh đẹp sẽ kết duyên cùng Camachô Giàu có, không thấy anh ta cười bao giờ hoặc nói ra câu nào khôn cả. Anh ta đi lang thang cả ngày, nét mặt tư lự âu sầu, mồm nói lẩm bẩm, rõ ra người mất trí. Anh ta ăn kém, ngủ kém, chỉ toàn ăn hoa quả, và nếu có ngủ thì ngủ ngay giữa đồng, nằm lăn ra đất như một con vật. Có lúc anh ta nhìn lên trời, có lúc mắt dán xuống đất, mải mê, say sưa, trông như pho tượng khoác áo, khi có gió, áo bay tung còn tượng vẫn đứng im. Nhìn anh ta bộc lộ những tình cảm sôi nổi trong lòng, tất cả những ai quen biết đều lo ngại rằng câu trả lời có của Kitêria Xinh đẹp trong buổi hôn lễ ngày mai sẽ là bản tuyên cáo tử hình đối với anh.

- Chúa sẽ thu xếp ổn thỏa mọi việc, Xantrô nói. Người sinh tai ương thì lại sinh thuốc giải tai ương; ai mà biết được ngày mai ra sao; từ giờ tới ngày mai còn nhiều tiếng đồng hồ, thế mà chỉ trong vòng một tiếng, thậm chí một lát thôi, nhà có thể đổ; tôi thấy trời vừa mưa vừa nắng, có khi người vừa đi nằm còn mạnh khỏe, hôm sau đã cứng đờ. Thử hỏi có ai dám khoe đã đóng được một cái đinh vào bánh xe của thần May rủi không? Hẳn là không. Giữa hai tiếng có và không của cô dâu, tôi chẳng dám đặt mũi kim vào vì không vừa [SUP]3[/SUP]. Kitêria hãy thật lòng thật dạ yêu thương cậu Baxiliô đi, rồi tôi sẽ tặng cho cậu ta một bồ may mắn; tôi nghe nói tình yêu đeo kính, nhìn đồng thành vàng, nghèo thành giàu, gỉ mắt thành hạt trai.

- Có im đi không, tên Xantrô đáng nguyền rủa kia! Đôn Kihôtê hét lên. Mỗi khi mi thốt ra những câu phương ngôn tục ngữ là chẳng ai hiểu gì cả, trừ tên phản bội Huđa [SUP]4[/SUP]. Quỷ tha ma bắt mi! Con vật kia, thử hỏi mi biết thế nào là đinh, bánh xe cùng bao nhiêu chuyện khác.

- Ôi, nếu không ai hiểu tôi, Xantrô đáp, tất nhiên là những câu tục ngữ của tôi sẽ bị coi là nhảm nhí. Nhưng không sao, đã có tôi hiểu tôi và tôi biết những điều tôi vừa nói ra không bậy bạ chút nào. Vả chăng, thưa ông chủ, ngài muốn giáng sát những lời nói và cả việc làm của tôi cơ mà.

- Giám sát chứ không phải giáng sát, Đôn Kihôtê nói. Chúa trừng phạt mi, vì mi đã làm hư cái đẹp của ngôn ngữ.

- Xin ngài đừng trách tôi, Xantrô đáp. Ngài biết rằng tôi không được nuôi dạy trong triều và cũng không được học ở Xalamanca nên chẳng biết thêm hay bớt chữ trong khi nói năng. Lạy Chúa! Ta cũng chẳng cần nên bắt người dân Xayôgô phải nói như người Tôlêđô; vả chăng, cũng có người dân Tôlêđô nói năng chẳng gẫy gọn, phép tắc gì đâu.

- Đúng như vậy, thầy Cử nói; tuy đều là dân Tôlêđô, song những người ở khu Tênêriax và Xôđôcôver [SUP]5[/SUP] không thể nói năng lịch sự hơn những người suốt ngày dạo chơi ở tu viện Nhà Thờ Lớn [SUP]6[/SUP]. Những triều thần lịch duyệt sử dụng một ngôn ngữ trong sáng, chọn lọc và hoa mỹ dù cho họ sinh trưởng ở Manhađahonđa; tôi phải nói lịch duyệt làm cho ngôn ngữ trở nên trong sáng. Thưa các ngài, tôi có theo học môn tôn pháp ở Xalamanca và tôi dám tự khoe đôi chút vì biết trình bày ý kiến của mình bằng những lời lẽ rõ ràng, cụ thể và có nghĩa.

Sinh viên thứ hai lên tiếng:

- Nếu anh không tự khoe múa kiếm còn giỏi hơn sử dụng ngôn ngữ, chắc anh đã thi đỗ đầu bảng chứ không đội sổ.

- Anh Tú liệu đấy, thầy Cử nói; ý kiến của anh bảo rằng giỏi đấu kiếm là vô bổ thật vô cùng sai lầm.

- Đối với tôi, đây cũng không phải là ý kiến riêng mà là một chân lý vô cùng vững chắc, Corchuêlô - tức anh Tú - nói. Nếu anh muốn chứng minh bằng hành động thì đây là cơ hội tốt vì anh có mang theo kiếm. Với sức mạnh và không ít lòng dũng cảm, tôi phải khiến anh công nhận rằng tôi không nhầm. Nào, hãy xuống đất và giơ hết những đường kiếm tài tình của anh ra; bằng tài sức thô thiển trời phú cho, tôi sẽ cho anh nhìn thấy sao giữa ban ngày ban mặt vì tôi dám chắc không ai trên đời này không bị tôi đánh ngã.

- Anh chạy dài hay không, thầy Cử giỏi kiếm đáp, tôi chẳng cần biết; song, chỉ cần một lần hụt chân cũng đủ cho người ta đào hố chôn anh ngay tại nơi bước hụt, ý tôi muốn nói anh sẽ chết vì một đường kiếm lợi hại.

- Để xem, Corchuêlô đáp lại.

Nói rồi, anh ta nhảy phắt xuống đất, rút thanh kiếm đeo trên mình của thầy Cử.

- Khoan đã, Đôn Kihôtê vội lên tiếng, tôi muốn là chủ tọa của đấu kiếm và là người xét xử vấn đề này, một vấn đề đã bao lần tranh cãi mà vẫn chưa ra lẽ.

Rồi chàng nhảy xuống ngựa, nắm chắc ngọn giáo, đứng vào vị trí ở giữa hai bên. Lúc này, thầy Cử đang tiến lại gần Corchuêlô với một vẻ ung dung và những bước chân chắc chắn, còn Corchuêlô thì hùng hùng hổ hổ, mắt như nảy lửa. Hai bác nông phu ngồi trên lưng lừa quan sát cuộc chiến đấu một mất một còn này. Corchuêlô vung kiếm tới tấp, lúc đâm, lúc chém, lúc bổ, lúc phạt, như bão táp mưa sa, còn đang xông xáo như một con sư tử điên, bỗng đâu một mũi kiếm của đối phương gí trúng miệng chặn đứng lại, buộc anh ta phải hôn mũi kiếm như hôn một thánh vật, mặc dù không với tất cả tấm lòng thành kính như hôn một thánh vật thật. Cuối cùng, thầy Cử đâm trúng tất cả các khuy áo của Corchuêlô, chém rách bươm tà áo và hai lần hất tung mũ của anh ta, quần cho mệt nhoài. Vừa thẹn, vừa tức, anh chàng này cầm đốc kiếm, dùng hết sức bình sinh lăng lên trời khiến một trong hai bác nông phu, vốn là thơ lại, đã ghi vào biên bản là lưỡi kiếm đã bay xa ba phần tư dặm. Biên bản đó là một bằng chứng cho ta thấy nghệ thuật đã thắng sức mạnh.

Corchuêlô mệt phờ, ngồi bệt xuống đất, thấy vậy Xantrô lại gần, nói:

- Thưa ngài Tú, nếu thật ngài nghe lời tôi khuyên, từ nay về sau ngài không nên thách đấu kiếm mà chỉ nên đấu vật và ném lao vì ngài có sức lực. Tôi nghe nói những tay được gọi là giỏi kiếm có thể xuyên kiếm qua lỗ kim.

- Tôi lấy làm sung sướng vì đã không phải trả giá đắt, Corchuêlô nói. Kinh nghiệm vừa qua cho tôi thấy rõ sự thật mà trước đây tôi hoàn toàn không biết.

Nói xong, anh ta đứng dậy ôm thầy Cử; cả hai người làm lành với nhau, còn thân thiết hơn trước. Sợ muộn, họ lên đường ngay để sớm trở về làng của Kitêria - tức làng của họ - chẳng chờ bác nông phu - thơ lại nọ còn mải đi tìm thanh kiếm.

Trên đoạn đường còn lại, thầy Cử giới thiệu những ưu điểm của môn đấu kiếm bằng những lời lẽ cụ thể và những động tác dứt khoát khiến mọi người đều thấy lợi ích của vũ thuật này, riêng Corchuêlô phải chịu từ bỏ ý kiến bảo thủ của mình.

Lúc này, trời đã tối; từ xa, họ như thấy có một khoảng trời đầy sao phía trước làng, đồng thời vọng lại những âm thanh du dương của nhiều nhạc cụ như sáo, trống con, đàn cầm, chũm chọe, trống chuông [SUP]7[/SUP]. Khi tới gần thì thấy trên những thân cây do tay người mới trồng ở đầu làng có treo vô số những ngọn nến, gió thổi nhẹ không làm rung lá cây nên đèn không tắt. Các nhạc công là đầu trò của đám cưới; từng tốp, từng tốp một họ đi lại trên mảnh đất vui tươi này, người nhảy múa, kẻ ca hát, kẻ chơi một trong các nhạc cụ kể trên. Một không khí hoan lạc tràn ngập khắp cánh đồng. Một toán đông người đang bận bắc sàn để ngày hôm sau khán giả được xem thoải mái những trò vui và nhảy múa sẽ diễn ra tại nơi đây dành riêng cho lễ thành hôn của chàng Camachô giàu có và lễ tang của chàng Baxiliô.

Mặc cho bác nông phu và thầy Tú mời chào, Đôn Kihôtê không muốn vào làng, viện lý do rằng các hiệp sĩ giang hồ xưa nay vẫn quen ngủ ngoài đồng hoặc trong rừng chứ không ngủ trong nhà, dù là mái nhà lợp vàng (với lý do đó, chàng nghĩ rằng quá đủ rồi). Và thế là chàng rẽ đường khác, đi ngược ý muốn của Xantrô lúc này đang tiếc rẻ cảnh no ấm mà bác được hưởng tại ngôi nhà - hay lâu đài - của Đôn Điêgô.


--------------------------------
1. Thời ấy, thầy tu và sinh viên ăn mặc giống nhau.
2. Kiếm không sắc và bịt đầu, dùng để tập luyện
3.Ý nói đàn bà tính khí thất thường, khi có khi không
4. Huđa là kẻ phản bội Chúa Giêxu
5. Những khu dân nghèo ở Tôlêđô
6.Khu nhà giàu
7. Một thứ trống mặt, có gắn chuông quanh vành
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes

Chương XX

Đám cưới chàng Camachô giàu có và câu chuyện về chàng Baxiliô nghèo khó



Bình minh. Mặt trời chói chang vừa tỏa những tia nắng sấy khô những hạt sương long lanh như ngọc thì Đôn Kihôtê vùng dậy để xua đuổi sự lười biếng và lên tiếng gọi giám mã Xantrô, chợt thấy bác còn đang ngáy, chàng bèn đứng dậy và nói:

- Ôi, con người sung sướng nhất trên trái đất này! Anh ngủ thanh thản, không phải ghen ghét ai và cũng chẳng bị ai ghen ghét, không bị lũ pháp sư hãm hại và cũng chẳng bị pháp thuật quấy rầy. Ta nhắc lại và còn nhắc lại một trăm lần nữa: hay ngủ đi, hỡi con người không bị sự ghen tuông của tình nương day dứt làm con trằn trọc, không bị thức giấc bởi những lo lắng về công nợ hoặc về bữa ăn ngày hôm sau của mình và gia đình nghèo khổ bé nhỏ của mình. Tham vọng không làm cho băn khoăn, hư vinh trên đời không làm cho bận tâm bởi những ước muốn của anh chỉ giới hạn trong việc chăm lo con lừa mà thôi, còn chính bản thân anh lại do ta chăm sóc âu cũng là trách nhiệm mà tạo hóa và tập quán trao cho các ông chủ để tạo thế cân bằng. Tớ thì ngủ trong khi chủ thao thức nghĩ cách nuôi dưỡng ban thưởng cho người hầu. Nhìn bầu trời sắc chì không đem lại giọt sương cho đất đai, người hầu không hề lo phiền, trái lại, chủ lo vì trong khi trời làm đói kém, mất mùa, ông ta vẫn phải nuôi kẻ hầu hạ mình trong lúc phong đăng hỏa cốc.

Đôn Kihôtê cứ việc nói, Xantrô chẳng trả lời vì bác còn đang ngái ngủ, và bác chưa dậy ngay đâu nếu Đôn Kihôtê không lấy mũi giáo thúc bác lên. Còn ngái ngủ, bác quay mặt nhìn tứ bề rồi nói:

- Nếu tôi không nhầm, từ phía lùm cây kia xông lên một mùi thơm ngậy của mỡ thỏ quay chứ không phải của cây trường thọ hay cây bách lý hương.

- Im mồm đi, đồ háu ăn, Đôn Kihôtê bảo. Dậy! Chúng ta sẽ đi dự đám cưới để xem anh chàng Baxiliô bị hắt hủi kia hành động ra sao.

- Anh ta muốn làm gì cũng mặc, Xantrô đáp. Nếu không nghèo, chắc anh ta đã lấy Kitêria rồi. Không đồng xu dính túi thì đừng hòng cưới xin. Thưa ngài, tôi cho rằng kẻ nghèo phải biết an phận, đừng có tơ tưởng hão huyền. Tôi đánh cuộc một cánh tay rằng Camachô có thể nhốt Baxiliô trong một cái túi đầy tiền vàng. Nếu như vậy - chắc chắn như vậy thôi, - Kitêria có là đồ ngốc mới chê châu báu ngọc ngà mà Camachô đã và sẽ tặng để đi lấy anh chàng Baxiliô giỏi ném lao và đấu kiếm vì có ném lao giỏi, đấu kiếm tài thì cũng chẳng có ai mời vào quán thưởng cho cốc rượu nào. Tài hoa mà không có tiền thì tài hoa làm gì. Song tài hoa mà rủng rỉnh tiền thì tôi cũng muốn tài hoa. Muốn xây nhà vững chắc phải có nền vững chãi, và nền vững chãi nhất trên đời là tiền.

- Thôi, hãy kết thúc bài diễn văn của anh đi, Đôn Kihôtê bảo; nếu cứ tiếp tục để anh nhai đi nhai lại cái bài đó, anh sẽ không có thời gian để ăn và ngủ nữa đâu vì anh sẽ nói suốt.

- Nếu ngài có trí nhớ tôi, Xantrô cãi, chắc ngài còn nhớ những chương trong bản giao ước làm khi thầy trò ta xuất hành lần này. Một trong những chương đó có ghi là tôi được phép nói tha hồ một khi không động chạm tới ai hoặc tới uy tín của ngài; cho tới nay, tôi nghĩ rằng mình không vi phạm chương đó.

- Ta chẳng hề nhớ chương đó, Đôn Kihôtê nói, song dù ghi như vậy, ta cũng yêu cầu anh thôi nói và đi theo ta. Những tiếng nhạc mà chúng ta nghe thấy tối hôm qua đã lại vang lên trong thung lũng, chắc chắn lễ cưới sẽ được tiến hành trong buổi sáng mát mẻ để tránh oi bức buổi chiều.

Theo lệnh chủ, Xantrô thắng yên cho Rôxinantê và con lừa, cả hai thầy trò leo lên rồi từ từ đi đến đám cưới. Cảnh tượng đầu tiên đập vào mắt Xantrô là cả một con bò xiên vào thân cây tiểu du, lò nướng và một đống củi cao như núi; xung quanh lò đặt sáu cái nồi - chắc những cái nồi này không làm bằng khuôn thường vì chúng to bằng sáu cái thùng, mỗi cái chứa đủ thịt của cả một lò sát sinh; - trong nổi lọt thỏm những con cừu để nguyên chưa pha, nom như chim câu vậy; trên cây cơ man nào là thỏ đã lột da và gà đã làm lông, chờ cho vào nồi; vô số chim muông săn bắn được cũng treo trên cây để hong cho khỏi ôi. Xantrô đếm được trên sáu chục bao rượu, mỗi bao đựng trên ba chục lít, chứa đầy rượu hảo hạng; bánh mì trắng tinh xếp từng đống như đống lúa trên sân; pho mát xếp như gạch đống thành một bức tường dày; hai chảo dầu, to hơn chảo thợ nhuộm, dùng để rán bánh, khi bánh chín, người ta xúc ra bằng hai cái xẻng lớn rồi đổ vào chảo mật ong ở bên cạnh. Có trên năm chục nhà bếp, cả nam lẫn nữ, người nào cũng ăn mặc sạch sẽ, chăm chỉ, mặt mày hớn hở. trong bụng con bò nhồi một tá lợn sữa cho món bò nướng thêm thơm ngon. Đồ gia vị có đủ loại, không phải mua hàng cân mà hàng yến, đựng trong hòm lớn. Tóm lại, những đồ chuẩn bị cho đám cưới tuy quê mùa mộc mạc những rất phong phú, đủ cung phụng cho cả một đạo quân.

Xantrô Panxa nhìn không chán mắt, cái gì cũng thích. Đầu tiên là những nồi hầm làm bác say mê, và bác sẽ rất vui lòng được thưởng thức một bát; những bao rượu rất hấp dẫn, và cả món bánh hoa quả trong chảo nữa - gọi là chảo nhưng thật ra đó là những chiếc vạc lớn. Cuối cùng, cầm lòng không đậu và cũng chẳng biết làm cách nào khác, bác tiến lại gần một anh đầu bếp, dùng những lời lẽ ngọt xớt của một kẻ đói bụng tán ăn, xin được phép nhúng một miếng bánh mì vào nồi. Anh đầu bếp đáp:

- Ông anh ơi, nhờ có chàng Camachô Giàu có, hôm nay không phải ngày cho cái đói hoành hành. Hãy xuống lừa và đi tìm quanh đây một cái môi để vớt một hai con ra ra mà ăn cho thỏa thích.

- Chả thấy có cái nào cả, Xantrô đáp.

- Hãy chờ một chút, đầu bếp nói; chuyện vặt thôi, có gì mà phải làm khách! Nói rồi, anh ta lấy chảo vục vào một cái nồi, vớt ra ba gà mái và hai ngỗng, bảo Xantrô:

- Anh bạn hãy tạm lót dạ bằng cái bọt nước hầm này [SUP]1[/SUP] trong khi chờ đợi ăn cỗ.

- Nhưng tôi không có gì đựng, Xantrô nói.

- Vậy thì mang cả chảo, cả môi đi cũng chẳng sao vì Camachô giàu lắm, chỉ cần vui thôi.

Trong khi Xantrô mải xin ăn, Đôn Kihôtê đứng nhìn một toán mười hai chàng trai nông phu quần áo bảnh bao đang đi tới; họ cưỡi những con ngựa cái rất đẹp có mang những bộ yên cương đắt tiền và đeo rất nhiều nhạc xung quanh ức. Tới nơi, họ nhất tề phi như bay trên đồng cỏ và cùng reo to:

- Camachô và Kitêria muôn năm! Chàng giàu có bao nhiêu, nàng xinh đẹp bấy nhiêu, nàng xinh đẹp tuyệt trần.

Nghe thấy vậy, Đôn Kihôtê tự bảo:

- Rõ là mấy anh này chưa trông thấy mặt nàng Đulxinêa ở Tôbôxô của ta; ví thử được trông thấy, chắc chắn họ chẳng quá lời khen ngợi Kitêria như vậy.

Lát sau, từ bốn phía kéo đến nhiều đội múa khác, trong đó có một đội múa kiếm gồm hai mươi bốn chàng trai trẻ, khỏe, mặc đồ vải mỏng trắng toát, đầu buộc khăn lụa mịn sặc sỡ. Một người trong toán cưỡi ngựa hỏi đội trưởng múa kiếm - một chàng trai nhanh nhẹn:

- Trong đội anh có ai bị thương không?

- Ơn Chúa, cho tới giờ, chưa có ai bị thương cả, đội trưởng đội múa kiếm đáp; chúng tôi đều mạnh khỏe.

Nói rồi, anh ta nhập vào đội múa của mình, vừa đi vừa dùng những đường kiếm hết sức tài tình khiến Đôn Kihôtê, vốn sành sỏi môn này, cũng phải chịu là tay kiếm giỏi.

Một cảnh tượng nữa cũng làm Đôn Kihôtê thích thú, đó là sự xuất hiện của một đám thiếu nữ rất xinh, rất trẻ, tuổi sàn sàn bằng nhau - không dưới mười bốn, tóc nửa tết nửa xõa, màu vàng óng ánh không thua gì ánh nắng mặt trời. đầu đội những vòng hoa nhài, hồng, mồng gà, kim ngân. Đám thiếu nữ đó do một lão ông và một lão bà dẫn đầu, cả hai nom vẻ đạo mạo, tuy đã cao tuổi song còn nhanh nhẹn, vững vàng. Theo nhịp tiếng kèn mục tử, các cô gái có đôi mắt trong sáng và đôi chân lẹ làng tỏ ra là những vũ nữ tài giỏi nhất thế gian.

Tiếp đó là một đội múa khác mà người ta thường gọi là múa có lời. Đội này gồm tám nữ thần đi thành hàng dọc: một hàng do thần Cupiđô [SUP]2[/SUP] dẫn đầu, hàng kia do thần Phúc lợi; thần Cupiđô mang đôi cánh, cung và ống tên, thần Phúc lợi mặc một bộ đồ sặc sỡ dệt bằng tơ và chỉ vàng. Bốn nữ thần đi theo thần Ái tình đeo trên lưng một tấm biển trắng có ghi tên bằng chữ to. Tên thần thứ nhất là "Thi ca", nữ thần thứ hai là "Ý nhị", nữ thần thứ ba là "Thế gia", nữ thần thứ tư là "Dũng cảm". Bốn nữ thần theo sau thần Phúc lợi cũng vậy: "Hào phóng" là tên nữ thần đi đầu, "Bổng lộc" là tên nữ thần thứ hai, "Bảo vật" là tên nữ thần thứ ba, còn nữ thần cuối cùng là "An hưởng". Dẫn đầu đoàn múa có bốn người khiêng một tòa lâu đài bằng gỗ, họ mặc quần áo tết bằng lá cây trường xuân đằng và bằng gai nhuộm xanh, hóa trang thành bốn chú mọi, nom như thật, suýt nữa làm cho Xantrô chết khiếp. Bốn mặt lâu đài có ghi: "Bất khả xâm phạm". Đội múa có bốn nhạc công đánh trống và thổi sáo rất hay.

Thần Cupiđô mở đầu, biểu diễn hai động tác múa, ngước mắt lên, giương cung nhằm vào một thiếu nữ đang đứng dựa tường trên một lâu đài và nói với cô nàng rằng:

"Ta là chúa tể muôn loài trên không trung, mặt đất và biển cả cùng tất thảy những gì nằm sâu trong vực thẳm hãi hùng.
Ta không hề biết sợ, ta muốn gì được nấy dù ta đòi hỏi những điều không thể làm được; mọi sự trên đời do ta điều khiển, xếp đặt, định đoạt".

Dứt lời, thần Cupiđô bắn một phát tên lên rồi trở về chỗ. Tiếp theo, thần Phúc lợi cũng đi hai động tác múa; những người đánh trống dừng tay, thần Phúc lợi hướng về phía cô gái trên lâu đài và nói:

"Ta tài giỏi hơn thần ái tình dù cho thần ái tình chỉ lối ta đi; ta thuộc dòng giống ưu việt, danh tiếng nhất mà tạo hóa sinh ra trên trái đất này.
Ta là thần Phúc lợi, vì ta mà bao nhiêu người hư hỏng, song thiếu ta mọi việc khó thành. Thần phúc lợi này xin mãi mãi phụng sự nàng, amen".

Thần Phúc lợi rút lui, thần Thi ca tiến ra, cũng đi mấy bước, ngước mắt nhìn người phụ nữ trên tường cao rồi nói:

"Nương tử ơi, với những ý nghĩ tốt đẹp, cao thượng và trang nghiêm, thần Thi ca dịu dàng này dâng nàng tấm linh hồn phủ bằng cả ngàn bài thơ.
Nếu nàng không phật ý vì ta quá sốt sắng, ta sẽ dùng lời thơ để ca tụng số phận của nàng, một số phận mà nhiều cô gái mong ước".

Thần Thi ca tránh sang một bên, thần Hào phóng tiến ra, dạo mấy bước rồi cất tiếng:

"Người ta bảo rằng hào phóng không phải là hoang toàng, không phải là biểu thị của thờ ơ, lạnh nhạt.
Song, để làm đẹp ý nàng, ta muốn làm một kẻ hoang toàng; tuy đó là tật xấu nhưng là tật xấu đáng yêu của một kẻ si tình muốn bày tỏ bằng những tặng vật dâng nàng".

Lần lượt, các nữ thần của hai tốp ra mắt khán giả, múa, đọc thơ rồi rút lui; thơ thì có bài hay bài dở, Đôn Kihôtê chỉ nhớ mấy bài trên mặc dù trí nhớ của chàng rất tốt. Sau đó, hai tốp cùng ra múa, lúc hợp lúc tản, thật nhẹ nhàng uyển chuyển, mỗi khi lượn qua trước mặt tòa lâu đài, thần Ái tình lại bắn mấy phát tên lên, còn thần Phúc lợi thì tung những quả cầu vàng. Sau khi múa một hồi lâu, thần Phúc lợi rút ra một cái túi bằng da mèo vẫn nom có vẻ đầy tiền, quăng mạnh vào tòa lâu đài khiến các thanh ván rung và đổ lả tả, chỉ còn cô gái đứng chơ vơ. Thần Phúc lợi và bốn nữ thần bèn tiến lại tròng vào cổ cô ta một dây xích bằng vàng, làm ra vẻ định bắt mang đi. Lập tức, thần Ái tình và cả tốp xông ra như muốn giữ cô ta lại. Tất cả các động tác của cả hai tốp đều theo nhịp trống, rất khớp. Rồi các chú mọi đứng ra dàn hòa đôi bên, nhanh chóng dựng những tấm ván và cô gái trở vào trong lâu đài. Vở múa kết thúc, người xem tán thưởng nhiệt liệt.

Đôn Kihôtê hỏi một nữ thần xem ai đã soạn và dựng vở múa này, nữ thần đáp: "Đó là một nhà tu hành trong làng, ông ta có tài sáng tác những điệu múa như vậy".

Đôn Kihôtê nói:

- Tôi cam đoan rằng cái anh chàng tú tài hay nhà tu hành này có thiện cảm với Camachô hơn Baxiliô, và chắc anh ta giễu thiên hạ giỏi hơn đọc kinh. Anh ta khéo lồng vào vở múa những tài mọn của Baxiliô cùng sự giàu sang của Camachô.

Nghe chủ nói vậy, Xantrô Panxa bảo:

- Tôi đứng về phía Đức vua, tôi bênh Camachô.

- Xantrô, hiển nhiên mi phải là một kẻ xấu xa, cùng một giuộc với những ai chỉ biết phù nịnh.

- Tôi biết mình cùng một giuộc với những ai, Xantrô đáp, chỉ biết rằng không đời nào tôi vớt được trong nồi của Baxiliô món bọt nước hầm tuyệt vời này như tôi đã vớt được trong nồi của Camachô.

Nói rồi, bác giơ cao cái chảo đầy gà, ngỗng, cầm một con, ăn với một vẻ đắc chí và ngon lành; bác bảo:

- Baxiliô nghèo thì phải chịu thiệt, con người ta càng có nhiều của càng đáng quý và càng đáng quý lại càng có nhiều của. Ngày trước, bà tôi vẫn bảo rằng trên đời này chỉ có hai hạng người, hạng người có của và hạng người không của, và bà tôi đứng về phía người có của. Thời buổi này, thưa ông chủ Đôn Kihôtê, thiên hạ chuộng người có của hơn có tài; một con lừa đeo đầy vàng còn hơn một con ngựa mang bộ yên thường. Bởi thế, tôi xin nhắc lại là tôi về phe Camachô vì rằng bọt nước hầm trong nồi của anh ta là ngỗng, là gà, là thỏ rừng, còn bọt nước hầm trong nồi của Baxiliô chỉ là nước lã mà thôi.

- Xantrô, mi diễn thuyết xong chưa, Đôn Kihôtê hỏi.

- Tôi xin kết thúc ở đây vì thấy ngài có vẻ không thích nghe, Xantrô đáp; quả thật nếu không phải vì lý do đó thì tôi đã chuẩn bị nói trong ba ngày rồi.

- Lạy Chúa, mong sao ta được nhìn thấy mi cấm khẩu trước khi ta nhắm mắt, Đôn Kihôtê nói.

- Cứ cái đà này thì trước khi ngài chết, tôi đã ăn đất rồi, Xantrô đáp, và khi đó, có lẽ tôi sẽ câm bặt không nói nửa lời cho tới ngày tận cùng của trái đất hoặc ít nhất, cho tới ngày phán xét cuối cùng.

- Ôi, Xantrô! Dù có vậy đi chăng nữa, sự câm lặng của mi cũng không bù lại được những lời mi đã nói, đang nói và sẽ còn nói chừng nào mi còn sống. Vả chăng, theo lẽ tự nhiên, ngày chết của ta phải đến trước ngày chết của mi, cho nên ta không bao giờ hy vọng nhìn thấy mi câm, nói quá đi, kể cả khi mi uống rượu hay ngủ.

- Thật tình, thưa ngài, ta không thể nào tin vào mụ thần Chết xương xẩu [SUP]3[/SUP] được; mụ ăn thịt cà cừu non lẫn cừu già. Tôi có nghe Cha xứ nói rằng mụ vào cả những tòa tháp thâm nghiêm của vua chúa lẫn những túp lều hèn mọn của người nghèo. Mụ ưa thích dùng thức ăn cứng rắn hơn mềm dẻo, mụ không khách khí chút nào, cái gì cũng ăn, việc gì cũng làm và nhét đầy túi mọi hạng người, mọi lứa tuổi, mọi tần lớp. Thợ gặt còn ngủ trưa, mụ thì gặt bất kể lúc nào, gặt cả cỏ khô lẫn cỏ xanh; hình như mụ không nhai mà nuốt chửng các con mồi vì mụ đói cào đói cấu, không bao giờ no; và mặc dù mụ không có bụng, người ta nghĩ rằng mụ mắc bệnh thủy thũng [SUP]4[/SUP] và thèm khát muốn uống cạn cuộc sống của con người ta như uống một vò nước tươi mát vậy.

- Xantrô, anh thốt ra những lời thật khôn ngoan, song nói đến đó thôi kẻo hết khôn lại dồn đến dại đấy. Quả thật những điều anh nói về thần Chết - tuy bằng những danh từ quê kệch - chẳng khác gì những điều mà một nhà truyền giáo giỏi giang có thể nói được. Ta nói thật, anh có năng khiếu, nếu lại có kiến thức nữa thì có thể xách một cái bục trong tay mà đi khắp thế gian đăng đàn thuyết giáo như ai đấy.

- Ai sống lâu thì thuyết giáo giỏi, Xantrô đáp, riêng tôi, tôi chẳng biết lý thuyết nào cả.

- Anh cũng chẳng cần tới, Đôn Kihôtê nói. Có một điều ta không hiểu nổi: người ta thường bảo có biết kính sợ Chúa mới trở thành người hiểu biết; anh sợ một con thằn lằn hơn sợ Chúa, vậy mà sao biết nhiều chuyện thế?

- Thưa ông chủ, ngài hãy bình luận những hành động kiếm hiệp của ngài thì hơn, Xantrô đáp; đừng nên xen vào bình phẩm người khác nhút nhát hay dũng cảm; tôi cũng kinh sợ Chúa như mọi người khác trong làng. Thôi, ngài hãy để tôi thanh toán món bọt nước hầm này, những cái khác đều là chuyện nhảm nhí mà ta sẽ phải trả giá ở thế giới bên kia.

Dứt lời, bác tiếp tục tấn công chảo gà, ngỗng một cách hết sức ngon lành khiến Đôn Kihôtê đâm thèm, và chắc chắn chàng sẽ hỗ trợ cho giám mã của mình nếu không có một sự việc ngăn lại, một sự việc không thể không kể lại dưới đây.


--------------------------------
1. Ba gà mái và hai ngỗng, thế mà anh đầu bếp gọi là nước bọt hầm, đủ biết cỗ cưới to chừng nào
2.Thần Ái tình
3.Thần Chết được tượng trưng bằng một bộ xương người
4.Chứng bệnh do nước ứ đọng trong người, đặc biệt ở bụng
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes

Chương XXI

Kể tiếp về đám cưới của chàng Camachô cùng những sự việc lý thú khác


Đôn Kihôtê và Xantrô còn đang trò chuyện như kể ở chương trên, bỗng đâu có tiếng ồn ào náo nhiệt, thì ra đám nông phu cưỡi ngựa đang vừa reo hò vừa phi như bay đi đón cô dâu chú rể. Camachô và Kitêria tiến vào giữa cảnh tưng bừng đàn nhạc múa ca; đi theo sau hai người có Cha xứ, bà con hai họ và những nhân vật tai to mặt lớn trong vùng, ai nấy quần áo bảnh bao. Xantrô nói:

- Phải công nhận cô dâu không quê mùa một chút nào mà diện như bà hoàng bà chúa vậy. Trông kìa, sợi dây đeo cổ hẳn phải là san hô quý, và cái áo màu xanh viền xa-tanh trắng kia phải bằng nhung tơ hảo hạng. Hãy nhìn đôi tay đeo những chiếc nhẫn bằng huyền kia. Lại còn những chiếc vòng nữa chứ! Tôi cứ xin đi bằng đầu nếu không phải là vòng vàng, vàng nguyên chất, có gắn ngọc trai trắng như sữa đặc, mỗi viên trị giá bằng một con mắt người. Cha mẹ ơi, bộ tóc mới đẹp làm sao! Nếu không phải là tóc giả, cả đời tôi chưa từng nhìn thấy bộ tóc nào dài và vàng hơn. Thử xem có ai dám chê dáng người cô ta không! thật chẳng khác gì một cây chà là biết đi, còn đồ trang sức cài trên tóc và đeo ở cổ thì như những chùm quả chà là chíu chít trên cây vậy. Tôi xin thề rằng cô ta xinh gái có một, thật đáng mặt cô dâu.

Nghe những lời khen quê mùa cục mịch của Xantrô Panxa. Đôn Kihôtê không nín được cười tuy trong bụng cũng phải công nhận rằng ngoài tình nương của mình là nàng Đulxinêa làng Tôbôxô, chàng chưa hề thấy có một người đàn bà nào xinh đẹp hơn. Sắc mặt Kitêria có phần hơi nhợt nhạt, có lẽ vì cả đêm hôm trước cô dâu còn bận chuẩn bị cho lễ cưới hôm sau. Cả đoàn đi lại trong một cái sân khấu có trải thảm kết hoa ở một góc cánh đồng, tại đây sẽ tiến hành hôn lễ và sau đó, xem biểu diễn ca múa cùng những trò vui khác. Mọi người tới nơi bỗng nghe phía sau có tiếng kêu to:

- Khoan đã, không đi đâu mà vội, hỡi những con người vô tình kia!

Nghe tiếng kêu, tất cả mọi người quay đầu lại thì thấy có một người mặc áo choàng đen điểm những mảnh lụa hồng hình ngọn lửa, đang đi tới, trên đầu mang một vòng tang kết bằng lá trắc bá, tay cầm một cây gậy lớn; đến gần chút nữa, mọi người đều nhận ra đó là chàng Baxiliô Xinh trai. Ai nấy đều hồi hộp, không hiểu những điều chàng vừa thốt ra sẽ dẫn đến kết quả gì, lo lắng cho sự có mặt của chàng lúc này sẽ đưa đến chuyện chẳng lành.

Baxiliô tới nơi có vẻ mệt nhọc, thở hổn hển, chàng đến trước mặt cô dâu chú rể, cắm phập cây gậy có đầu bịt sắt xuống đất, mặt biến sắc, mắt nhìn thẳng vào Kitêria, nói bằng giọng khàn khàn run run:

- Hỡi Kitêria phụ bạc, hẳn nàng biết rằng theo luật thiêng liêng mà chúng ta đều tôn trọng, chừng nào ta còn sống thì nàng không được lấy ai khác; nàng cũng chẳng lạ gì bấy lâu nay, ta đã bỏ cả thì giờ và sức lực ra những mong có được một cuộc sống khá giả hơn, và ta không hề làm điều gì hại đến thanh danh của nàng. Vậy mà nàng đã phụ bạc tấm lòng ta, trao vật sở hữu của ta cho kẻ khác, một kẻ nhờ có của cải mà được hưởng cả giàu sang lẫn hạnh phúc. Đã vậy, ta muốn đem lại cho kẻ đó hạnh phúc trọn vẹn (ta không nghĩ kẻ đó xứng đáng được hưởng, chẳng qua do trời ban mà thôi); ta sẽ tự tay tước bỏ những gì phá hoại hay cản trở hạnh phúc của kẻ đó bằng cách kết liễu cuộc đời ta. Cầu cho Camachô giàu sang sống muôn đời hạnh phúc và Kitêria bạc tình, Baxiliô nghèo khổ phải chết, sự nghèo khổ đã bẻ gẫy đôi cánh hạnh phúc của chàng và dẫn chàng xuống mồ.

Dứt lời, Baxiliô nắm cây gậy rút mạnh, nửa chiếc gậy vẫn cắm chặt xuống đất, nửa kia rời ra để lộ một thanh gươm ngắn bên trong (thì ra cây gậy là bao gươm); chàng cắm phần đốc gươm xuống đất rồi nhanh như chớp lao mình thẳng vào mũi gươm. Lưỡi gươm xuyên qua người, trồi ra sau lưng tới một nửa, đầu mũi gươm máu chảy ròng ròng; chàng Baxiliô ngã vật ra đất, máu me đầm đìa, bị chính lưỡi gươm của mình đâm vào.

Bạn bè của Baxiliô vội đến cứu, xót thương cảnh bần hàn và nỗi bất hạnh của chàng, Đôn Kihôtê cũng bỏ cả Rôxinantê chạy lại, cầm tay chàng lên thì thấy chàng chưa tắt thở. Mọi người định rút gươm nhưng Cha xứ có ý kiến không nên chừng nào chưa rửa tội cho chàng vì nếu rút ra chàng sẽ chết liền. Lúc này, Baxiliô đã hơi tỉnh; bằng một giọng thảm thiết, chàng phều phào nói:

- Hỡi Kitêria tàn nhẫn, nếu nàng vui lòng trao tay cho ta và nhận là vợ ta trong giây phút sinh ly này, ta nghĩ rằng hành động liều lĩnh của ta có thể tha thứ được, vì với việc làm đó, ta đã đạt được mong muốn là trở thành chồng nàng.

Nghe thấy vậy, Cha xứ khuyên chàng hãy lo tới hạnh phúc vĩnh cửu của linh hồn hơn là những khoái lạc và nhục thể và hãy thành khẩn xin lỗi chúa về những tội lỗi và hành động tuyệt vọng của mình. Baxiliô đáp lại là sẽ không khi nào chịu rửa tội nếu trước đó Kitêria không nhận là vợ chàng, rằng điều đó sẽ thúc đẩy và giúp chàng đủ sức để thú tội.

Nghe những lời của kẻ hoạn nạn, Đôn Kihôtê lớn tiếng phát biểu rằng yêu cầu của Baxiliô rất chính đáng, rất hợp lý và cũng rất dễ thực hiện, nếu Camachô đón Kitêria - quả phụ của Baxiliô dũng cảm - về làm vợ thì điều đó cũng chẳng xấu mặt nào, có khác chi chàng đón Kitêria từ tay bố đẻ của nàng. Chàng nói tiếp:

- Vấn đề ở đây chỉ nói một chữ có mà thôi, bởi chưng giường cưới của cuộc hôn lễ này là nấm mồ.

Từ nãy, Camachô vẫn đứng nghe, lòng dạ bồi hồi, bối rối, không biết xử trí ra sao. Trong khi đó, bạn hữu của Baxiliô nhao nhao lên yêu cầu chàng đồng ý cho Kitêria nhận làm vợ Baxiliô để linh hồn Baxiliô được thanh thoát giã từ cõi đời, cuối cùng, phần vì xúc động, phần vì bị thúc bách, Camachô lên tiếng:

- Nếu Kitêria muốn làm việc đó, tôi cũng không phản đối vì điều này chỉ làm chậm đôi chút việc cử hành hôn lễ của tôi mà thôi.

Mọi người lại tới trước mặt Kitêria van xin, khóc lóc hoặc dùng những lời lẽ chí tình thuyết phục nàng trao tay cho chàng Baxiliô khốn khổ, song Kitêria cứ trơ như đá, im như tượng, như thể không biết, không thể, không muốn trả lời, và chắc nàng cứ đừng ì ra vậy mãi nếu Cha xứ không lên tiếng bảo: "Nàng định làm điều gì thì hãy quyết định nhanh lên kẻo Baxiliô sắp hồn lìa khỏi xác rồi, chẳng còn thời giờ chần chừ nữa đâu". Thế là chẳng nói chẳng rằng với một vẻ bối rối, buồn rầu, ngơ ngác, nàng Kitêria Xinh đẹp tiến lại gần Baxiliô lúc này mắt đã lờ đờ, hơi thở ngắn và gấp, mồm lẩm bẩm nhắc tên Kitêria; điều đó chứng tỏ chàng muốn chết như một kẻ dị giáo chứ không phải một tín đồ Kitô giáo. Tới nơi, Kitêria quỳ xuống, không nói mà chỉ ra hiệu bảo Baxiliô đưa tay cho mình. Baxiliô mở mắt nhìn nàng chăm chú và nói:

- Ôi, Kitêria, nàng đã động lòng trắc ẩn, song tình thương của nàng giờ đây lại là con dao kết liều đời ta, và ta không còn sức để hưởng hạnh phúc mà nàng đem đến cho ta lúc này khi nàng nhận ta làm chồng, và ta cũng không còn đủ sức để dẹp nỗi đau đớn đang nhanh chóng che lấp đôi mắt ta bằng bóng đen khủng khiếp của cái chết! Ta chỉ cầu xin nàng một điều, ôi, ngôi sao bất hạnh của ta! Là trong lúc nàng bảo ta trao tay cho nàng và trao tay nàng cho ta, xin hãy vì nghĩa vụ để lừa dối ta một lần nữa. Nàng hãy công khai nhận rằng nàng đã trao tay cho ta như trao tay cho người chồng chính thức, không vì một sự ép buộc nào cả; trong giây phút này, nàng không nên lừa dối ta hoặc đóng kịch đối với một kẻ luôn luôn chung tình vì nàng.

- Không một sức mạnh nào có thể ép buộc được ý chí của em; bởi vậy, với tất cả sự tỉnh táo trong đầu óc, em xin trao tay cho chàng, coi chàng là chồng chính thức, và em cũng xin cầm bàn tay mà chàng tự ý trao cho em nếu như tai ương mà chàng đã tự chuốc lấy trong cơn tuyệt vọng không làm rối trí chàng.

- Ta xin trao tay cho nàng, Baxiliô đáp; ta không hề rối trí, trái lại, đầu óc ta tỉnh táo như trời kia đã ban cho ta; bởi vậy, ta nhận là chồng nàng.

- Em cũng xin nhận là vợ chàng, Kitêria nói, dù chàng còn sống được nhiều năm nữa hay dù người ta cướp chàng khỏi tay em để đem đi chôn.

- Anh chàng này bị thương nặng mà sao còn nói khỏe thế, Xantrô Panxa nhận xét. Bảo anh ta đừng có tán tỉnh nữa và hãy lo cho linh hồn của mình thì hơn. Xem chừng anh ta còn sống dai chứ chưa chết đâu.

Trong lúc Baxiliô và Kitêria nắm tay nhau, Cha xứ bùi ngùi xúc động làm lễ giáng phúc cho hai người và cầu trời dành cho linh hồn của tân lang một nơi an nghỉ tốt lành. Lễ giáng phúc vừa kết thúc, Baxiliô đứng phắt lên lanh lẹn chưa từng thấy và rút phắt lưỡi gươm đang cắm trên người. Tất cả đều sửng sốt, một vài người ngây thơ và ít suy nghĩ reo lên:

- Phép mầu! Phép mầu!

Baxiliô giải thích:

- Không phải phép mầu mà là kỹ xảo mà thôi.

Cha xứ bàng hoàng hoảng hốt chạy lại đưa cả hai tay sờ nắn vết thương trên người Baxiliô thì thấy lưỡi gươm không đâm vào thịt và sườn chàng mà lại xuyên qua một cái ống sắt chứa đầy máu được bố trí rất khéo ở bên sườn, sau này mới được biết là máu được pha chế cho khỏi đông. Cha xứ, Camachô và tất cả mọi người đều cảm thấy bị lỡm. Riêng cô dâu không tỏ vẻ khó chịu về trò đùa này, không những thế, khi thấy có ý kiến nói rằng cuộc hôn lễ này có tính chất bịp bơm nên vô giá trị, nàng đã đáp lại là sẵn sàng nhận làm vợ Baxiliô một lần nữa, do đó mà mọi người đều cho rằng cô cậu đã mưu mô với nhau bày ra chuyện này. Camachô và bè bạn của chàng tức điên, muốn trả thù ngay và có nhiều người đã rút gươm xông lại chỗ Baxiliô, đồng thời số đông bạn bè của Baxiliô cũng đã vung gươm lên bảo vệ chàng. Đôn Kihôtê cũng nhảy lên ngựa xông vào; thấy chàng lăm lăm ngọn giáo, khiên che kín thân, mọi người đều giạt ra. Xantrô chưa hề thấy có cảnh nào mà vui nhộn đến thế, bác bèn nén mình bên những chiếc nồi đã cung cấp cho bác món bọt nước hầm tuyệt vời, nghĩ rằng nơi đây là thánh địa, ai cũng phải kiêng nể. Đôn Kihôtê cất cao giọng nói:

- Dừng tay lại, các ngài hãy dừng tay lại! Thật phi lý nếu như các ngài trả thù sự xúc phạm do tình yêu gây ra cho ta. Phải biết rằng tình yêu cũng giống như chiến tranh. Cũng như trong chiến tranh, dùng mưu để đánh bại kẻ thù là chính đáng và thông thường trong cuộc đọ sức giành giật tình yêu, những hành động dối trá lừa lọc hòng đạt tới mục đích mong muốn đều không đáng chê trách miễn là không làm tổn thương đến danh dự của người mình yêu. Do sự sắp xếp có lý có tình của con tạo, Kitêria thuộc về Baxiliô và Baxiliô cũng đã thuộc về Kitêria. Camachô có nhiều của cải, bất cứ lúc nào, ở đâu và bằng bất cứ cách gì, chàng vẫn có thể dùng tiền tài để đạt được ý muốn. Baxiliô không có gì khác ngoài con cừu bé nhỏ này, dù ai quyền thế đến đâu cũng không ai cướp được của chàng. Khi Chúa xe kết hai người, không ai có thể chia lìa họ được, và kẻ nào có ý định đó trước tiên phải nếm một đòn của ngọn giáo này.

Dứt lời, chàng vung mạnh ngọn giáo lên với một vẻ rất thành thạo khiến cho những ai chưa từng biết chàng đều phải khiếp đảm. Đối với Camachô, thái độ lạnh nhạt vừa rồi của đã hằn sâu vào trí óc khiến chàng quên phắt con người đó; đã vậy, Cha xứ, một con người khôn ngoan và có thiện ý - lại đem lời hay lẽ thiệt giảng giải cho khiến Camachô và phe cánh của chàng cũng nguôi giận, chứng cớ là họ đã tra gươm vào vỏ và chê trách tính nhẹ dạ của Kitêria hơn là trò bịp của Baxiliô. Camachô còn phát biểu là nếu Kitêria đã yêu Baxiliô khi còn con gái, chắc chắn nàng cũng yêu chồng sau khi cưới, riêng chàng phải cảm tạ Thượng đế, vì may sao, Người không trao Kitêria cho chàng.

Thế là nỗi tức giận của Camachô cùng bè cánh của chàng nguôi đi và bạn hữu của Baxiliô cũng trở nên bình tĩnh. Để tỏ ra mình không thù oán và để tâm cuộc bày trò của Baxiliô, chàng Camachô Giàu có muốn rằng cuộc vui cứ tiếp diễn như thể chàng vẫn tổ chức lễ cưới vậy. Tuy nhiên, Baxiliô, vợ chàng và bè bạn của chàng không muốn dự và quay về làng của Baxiliô. Cho hay, những kẻ nghèo khó nhưng có đức có tài cũng được người ta trọng vọng giúp đỡ như những kẻ giàu sang được kẻ khác xun xoe nịnh bợ. Họ mời cả Đôn Kihôtê về, coi chàng là một con người quân tử. Riêng Xantrô buồn nẫu cả ruột vì thấy không được ăn bữa cỗ linh đình của Camachô và dự các đám hội hè còn mở đến tận khuya. Mỏi mệt và buồn bã, bác đành theo chân chủ lúc này đã nhập với bọn Baxiliô, tuy đã phải bỏ lại sau lưng những nồi hầm béo ngậy nhưng vẫn ôm theo hình ảnh của chúng trong lòng; bác chỉ mang theo được cái chảo trong đó có món bọt hầm đã gần hết, tượng trưng cho sự giàu sang phú quý đã tiêu tan. Tiếc ngẩn tiếc ngơ, tuy bụng vẫn còn no, bác quất con lừa theo vết chân con Rôxinantê.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes


Chương XXII

Nói về cuộc phiêu lưu trong hang Môntêxinôx, ở trung tâm xứ Mantra mà hiệp sĩ dũng cảm Đôn Kihôtê xứ Mantra đã kết thúc một cách tốt đẹp



Để tỏ lòng biết ơn con người đã đứng ra bênh vực cho hạnh phúc của mình, đôi vợ chồng mới cưới đón tiếp Đôn Kihôtê rất nồng hậu, linh đình. Họ coi chàng là một người vừa dũng cảm vừa giỏi giang, vì chàng như một vị tướng tài và là một nhà hùng biện. Trong ba ngày liền, Xantrô ta cũng được ăn uống phè phỡn. Theo Baxiliô kể lại, kế hoạch giả tảng dùng gươm tự sát không được báo trước cho nàng Kitêria xinh đẹp biết mà là mưu kế riêng của chàng nhằm đạt được kết quả như ta đã thấy; Baxiliô cho biết thêm chàng có phổ biến kế hoạch đó cho một vài người bạn để khi cần thiết, họ giúp một tay trong việc thực hiện trò lừa.

- Ta không thể và cũng không nên coi những việc làm nhằm mục đích tốt đẹp là trò lừa, Đôn Kihôtê nói. Yêu nhau mà lấy được nhau là đạt được mục đích tốt đẹp nhất. Song, phải coi chừng vì kẻ thù lớn nhất của tình yêu là sự đói khổ và túng thiếu triền miên. Tình yêu mang lại niềm sung sướng, vui thú, nhất là khi ta được làm chủ con người ta yêu; kẻ thù trực diện và công khai của tình yêu là thiếu thốn, nghèo nàn. Tôi nói vậy là có ý muốn nhắn nhủ ngài Baxiliô hãy xếp lại những tài mọn của ngài vì nó chỉ mang lại cho ngài danh tiếng chứ không làm ra tiền bạc, hãy lo làm giàu bằng những cách chính đáng và khôn khéo, với người khôn ngoan chăm chỉ thì không thiếu gì cách. Đối với một người nghèo lương thiện (nếu một người nghèo có thể vẫn lương thiện), có một người vợ đẹp khác nào vật quý, nếu bị người khác lấy mất tức là mất luôn cả danh dự. Một người đàn bà đẹp và nết na sống chung thủy với một người chồng nghèo, xứng đáng được tặng vòng nguyệt quế và vòng lá kè tiêu biểu cho sự thắng lợi. Sắc đẹp tự nó đã gợi nên sự ham muốn trong lòng người, và những con đại bàng cùng những loài chim hiếm sẵn sàng lao vào miếng mồi ngon dùng để bẫy chúng. Nhưng nếu sắc đẹp lại đi đôi với nghèo khổ và bần cùng thì cả những con quạ, diều hâu và những loài tầm thường khác cũng bâu vào; và người đàn bà nào đứng vững trước ngần ấy cuộc tấn công đáng được coi là niềm vinh quang của chồng mình. Hỡi chàng Baxiliô khôn ngoan, có một hiền nhân nào đó đã phát biểu rằng trên đời này chỉ có một người đàn bà nết na, và ông ta khuyên các ông chồng hãy nghĩ và tin rằng người đàn bà nết na nhất đó chính là vợ mình, như thế sẽ được sống hạnh phúc. Tôi chưa lấy vợ và cho tới bây giờ, tôi cũng chưa hề nghĩ tới việc đó, tuy nhiên tôi có thể góp ý cho người nào hỏi tôi về cách kén chọn một người đàn bà để lấy làm vợ. Trước tiên, tôi khuyên người đó phải quan tâm tới tiếng tăm hơn là của cải bởi chưng một người đàn bà đức hạnh được thiên hạ tôn sùng không chỉ vì đức hạnh mà còn vì thái độ bên ngoài nữa; thường thì những cử chỉ suồng sã, phóng túng còn làm tổn thương tới danh dự của người đàn bà hơn là những lỗi lầm bên trong. Nếu ta đưa về nhà một người đàn bà nết na, ta có thể dễ dàng giữ gìn được, thậm chí bồi dưỡng cho họ càng thêm nết na, nhưng nếu ta rước một người đàn bà xấu nết về thì sẽ mất nhiều công sức uốn nắn vì rằng chuyển từ thái cực này sang thái cực kia không phải là việc dễ làm. Tôi không bảo là không thể làm được, song tôi thấy khó đấy.

Nghe chủ phát biểu, Xantrô lẩm bẩm một mình:

- Mỗi khi mình nói những chuyện đứng đắn nghiêm túc, ông chủ mình thường bảo mình có thể xách một cái bục trong tay đi khắp thế gian đăng đàn thuyết giáo như ai; mình cũng nói lại là mỗi khi ông ta tuôn ra những lời phát biểu và những câu khuyên nhủ, không những ông ta có thể xách một cái bục trong tay mà cả hai cái bằng một ngón tay và đi khắp nơi thuyết giáo liên tục. Quỷ thật, một con người biết nhiều như thế mà lại đi làm hiệp sĩ giang hồ. Mình cứ nghĩ bụng rằng ông ta chỉ biết những chuyện liên quan tới nghề hiệp sĩ mà thôi, ngờ đâu có chuyện gì ông ta không xiên được cái nĩa nào.

Đôn Kihôtê thoáng nghe Xantrô lẩm bẩm mấy câu đó bèn hỏi:

- Xantrô, anh lẩm bẩm gì vậy?

- Tôi chẳng nói gì và cũng chẳng lẩm bẩm gì cả, Xantrô đáp. Tôi chỉ tự nhủ rằng tôi tiếc không được nghe những lời ngài vừa nói ở đây trước khi tôi lấy vợ, lúc này, ở đây, tôi muốn nói: "Tự do thật đáng quý".

- Xantrô, Têrêxa của anh xấu lắm sao? Đôn Kihôtê hỏi.

- Không xấu lắm nhưng cũng chẳng tốt lắm, Xantrô đáp; ít nhất mụ ta cũng không được tốt như tôi mong muốn.

- Xantrô, anh nói xấu vợ như thế là không tốt, Đôn Kihôtê bảo, vì vợ anh là mẹ của các con anh.

- Chúng tôi chẳng nợ nần gì nhau cả, Xantrô đáp; hứng lên, mụ cũng nói tôi chẳng ra gì, nhất là khi lên cơn ghen; những lúc ấy, quỷ Sa tăng cũng không chịu nổi.

Trong ba ngày nghỉ ngơi tại ngôi nhà vợ chồng Baxiliô, thầy trò Đôn Kihôtê được tiếp đãi, hầu hạ như những ông hoàng. Sau đó, Đôn Kihôtê nhờ thầy Cử giỏi kiếm tìm cho một người dẫn đường cho chàng tới hang Môntêxinôx vì chàng rất muốn nhìn tận mắt để xác minh xem những kỳ quan mà dân chúng quanh vùng đồn đại có thật hay không. Thầy Cử đáp sẽ giới thiệu chú em họ - một sinh viên hiếu học và ham đọc sách kiếm hiệp, - chú em này sẽ rất vui lòng dân chàng tới cửa hang và còn đưa đi xem những hồ nước ở Ruiđêra nổi tiếng khắp xứ Mantra và khắp cả nước Tây Ban Nha nữa. Thầy Cử nói tiếp: "Ngài sẽ có người hầu chuyện tâm đắc, vì chú em tôi viết soạn ra sách để in và để tặng các ông hoàng, bà chúa". Lát sau, chú em thầy Cử tới, cưỡi một con lừa chửa, yên lừa trải một tấm thảm sặc sỡ. Xantrô đóng yên cho Rôxinantê và lừa của mình, nhét đầy lương ăn vào cái túi hai ngăn (chú em của thầy Cử cũng mang theo một cái túi hai ngăn đầy ắp), rồi cả ba người cùng cầu Chúa ban phước lành, chào từ biệt chủ nhà và lên đường, hướng về phía hang Mantra nổi tiếng.

Đi đường, Đôn Kihôtê hỏi Chú em làm công việc gì, học hành môn gì, có nghề nghiệp gì. Chú em đáp:

- Nghề nghiệp của tôi là nghiên cứu chủ nghĩa cổ điển; công việc của tôi là viết sách để in, những sách này rất bổ ích, đồng thời giải trí cho mọi người đọc trong nước. Một trong những cuốn sách đó tên là Sách về trang phục, trong đó tôi giới thiệu bảy trăm linh ba kiểu với đầy đủ màu sắc, số liệu, tiêu ngữ; các hiệp sĩ cung đình có thể chọn trong số đó kiểu nào vừa ý để đi dự hội hè đình đám, khỏi phải cầu cạnh ai và cũng khỏi phải moi óc ra - như người ta thường nói - để tìm được kiểu nào cho phù hợp ý muốn. Có những kiểu cho anh hay ghen, cho người bị khinh miệt, cho kẻ bị bỏ rơi, rất thích hợp với từng người. Tôi còn viết một cuốn khác mà tôi định đặt tên là Những biến hóa hay Ôviđiô Tây Ban Nha; đây là một sáng tác mới lạ, trong đó bắt chước lối văn hài hước của Ôviđiô, mô tả pho tượng Hiralđa ở Xêviia, Thiên thần Malđalêna, Cổng nước Vêxinghêra ở Corđôba, những con bò mộng ở Ghixanđô, núi Môrêna, những con suối Lêganitôx và Lavapiêx ở Mađrid, kể cả suối Piôho, Canhô Đôrađô và Priôra, với những lời giải thích bóng bẩy xa xôi, vừa vui vừa lạ, lại bổ ích. Còn cuốn sách nữa mà tôi đặt tên cho là Bổ sung cho Virhiliô Pôliđôrô [SUP]1[/SUP] nói về những phát minh trên đời. Đó là một cuốn có tầm uyên thâm và nghiên cứu sâu vì trong đó tôi xem xét và giải thích một cách dí dỏm những vấn đề quan trọng mà Pôliđôrô đã bỏ qua; ví dụ như ông ta quên không nói ai là người đầu tiên xức thuốc mỡ có thủy ngân để chữa bệnh phong tình. Tôi đã giải thích tỉ mỉ, rõ ràng sau khi nghiên cứu ý kiến của hai mươi nhăm tác giả. Ngài thấy tôi làm việc đó có hay không và một cuốn sách như vậy có bổ ích cho thiên hạ không?

Xantrô từ nãy vẫn lắng nghe Chú em nói, bèn lên tiếng:

- Cầu Chúa mang lại may mắn cho ngài trong việc in sách. Xin hỏi: Ngài có biết - chắc chắn là có vì chuyện gì ngài cũng biết cả - ai là người đầu tiên gãi đầu không? Tôi cho người đó phải là cha Ađam của chúng ta.

- Chắc là thế - Chú em đáp, vì không nghi ngờ gì hết, Ađam có đầu, có tóc và là người đầu tiên sinh ra trên trái đất này, hẳn cũng có lúc gãi đầu chứ.

- Tôi cũng nghĩ như vậy, Xantrô nói; bây giờ, xin hỏi: ai là người đầu tiên trên đời làm trò leo dây múa rối?

- Người anh em ạ, quả tình tôi chưa thể trả lời ngay được mà còn phải nghiên cứu đã, Chú em đáp. Tôi sẽ tìm tòi khi nào trở lại với đống sách của tôi và tôi sẽ thỏa mãn người anh em trong lần gặp gỡ sau vì chắc chắn đây chưa phải là cuộc gặp gỡ cuối cùng.

- Thôi, ngài ạ, Xantrô nói, ngài khỏi phải nhọc lòng vì tôi đã tìm ra câu trả lời cho câu tôi vừa hỏi rồi. Xin thưa rằng người đầu tiên trên đời leo dây múa rối là Luxiphe vì khi bị ném từ trên trời, con quỷ đã vừa bay vừa múa lao xuống vực thẳm.

- Anh bạn nói phải, Chú em bảo.

Đôn Kihôtê có ý kiến:

- Xantrô, câu hỏi này cũng như câu trả lời không phải của anh, hẳn anh nghe ai nói đấy thôi.

- Ngài đừng nói thế, Xantrô cãi; quả thật nếu tôi định hỏi và trả lời thì từ bây giờ đến mai cũng không hết. Để hỏi những câu ngớ ngẩn và đáp những câu ngốc nghếch, tôi đâu cần phải đi tìm sự giúp đỡ của ông hàng xóm.

- Xantrô, anh nói nhiều hơn anh biết, Đôn Kihôtê bảo; có những người ra sức xác minh mọi chuyện, nhưng một khi đã được khám phá, xác minh, những chuyện đó chẳng giúp ích được gì cho trí tuệ cả.

Mải vui câu chuyện, ba người đi hết cả ngày hôm đó; đêm đó, họ nghỉ chân lại một làng nhỏ. Chú em bảo Đôn Kihôtê là từ đây tới hang Môntêxinôx không quá hai dặm đường, nếu chàng quyết tâm thì cần phải kiếm dây thừng buộc vào người để tụt xuống hang sâu. Đôn Kihôtê đáp rằng dù xuống vực thẳm, chàng cũng phải đến tận nơi xem sao. Họ mua khoảng một trăm sải thừng và tới khoảng hai giờ trưa hôm sau thì tới nơi. Miệng hang rộng nhưng bị cây cối ken dày đặc kín mít. Ba người nhảy xuống đất, Chú em và Xantrô lấy thừng buộc ngang người Đôn Kihôtê. Trong khi buộc, Xantrô nói với chủ:

- Ông chủ ơi, xin hãy coi chừng việc làm của mình. Đừng nên chôn sống cuộc đời mình và tự treo mình như người ta treo một cái vò nước xuống giếng để ngâm cho lạnh vậy. Ngài chẳng có phận sự gì để xem xét cái hang này mà tôi chắc rằng còn khủng khiếp hơn cả một ngục sâu.

- Buộc đi, đừng nói nữa, Đôn Kihôtê đáp. Anh bạn Xantrô kia, một việc như thế này đúng là dành riêng cho ta.

Chú em lên tiếng:

- Thưa ngài Đôn Kihôtê, xin ngài quan sát bằng cả trăm con mắt xem trong hang có những gì vì có thể có những điều mà tôi ghi được vào cuốn Những biến hóa của tôi.

- Cứ yên trí, Xantrô Panxa bảo, cái trống đang ở trong tay người biết sử dụng đấy.

Lúc này, thừng đã buộc xong (không phải buộc vào cái áo giáp của Đôn Kihôtê mà là buộc vào cái áo ngắn của chàng), Đôn Kihôtê bảo:

- Chúng ta khờ quá, không kiếm lấy một quả chuông nhỏ để buộc vào dây thừng bên người tôi, chuông reo sẽ báo hiệu là tôi vẫn đang xuống hang và còn sống. Nhưng thôi, bây giờ không kịp nữa rồi, xin Thượng đế soi đường chỉ lối.

Dứt lời, Đôn Kihôtê quỳ xuống đất, ngước mắt lên trời lẩm nhẩm đọc một bài kinh cầu chúc phù hộ cho chàng đạt được kết quả mĩ mãn trong cuộc phiêu lưu mới đầy nguy hiểm này. Xong rồi, chàng cất giọng:

- Hỡi nàng Đulxinêa làng Tôbôxô cao cả, vô song, chủ nhân của mọi hành động, cử chỉ của ta! Nếu như những lời cầu khẩn van xin của kẻ tình nhân này có phúc lọt tới tai nàng, trước sắc đẹp phi thường của nàng, ta xin nàng hãy lắng nghe. Những lời cầu khẩn của ta không có gì khác là van xin nàng đừng từ chối, ủng hộ, giúp đỡ ta trong giờ phút vô cùng khẩn thiết này. Ta đang đứng trước vực thẳm và sắp sửa lao mình giấn thân vào với mục đích duy nhất là để thiên hạ biết rằng nếu nàng ủng hộ ta, không có việc gì ta không dám đương đầu và không giải quyết được.

Nói rồi, chàng tiến lại cửa hang thì thấy không thể vào gần được và cũng không tụt xuống được trừ phi dùng sức của đôi tay hoặc dao phạt. Chàng bèn rút gươm chặt những bụi cây ở cửa hang; thấy có tiếng động, hàng đàn quạ ào ào bay vụt ra khỏi hang, vật luôn Đôn Kihôtê ra đất, nếu chàng cũng mê tín như xưa nay chàng vẫn là một tín đồ Kitô giáo ngoan đạo, ắt chàng sẽ coi đó là điềm gở và không giấn mình vào một nơi như vậy.

Cuối cùng, chàng đứng dậy, thấy không có quạ hoặc chim đêm nào khác bay ra - vừa rồi có cả dơi lẫn quạ, - bèn nắm lấy sợi dây thừng do Chú em và Xantrô đưa cho rồi biến mất trong lòng hang khủng khiếp. Lúc chàng sắp sửa xuống hang, Xantrô cầu phúc cho chủ và làm dấu tới một ngàn lần, bác nói:

- Cầu Chúa cùng Đức mẹ và Tam vị nhất thể đưa đường chỉ lối cho ngài, tinh hoa và bọt bèo của giới hiệp sĩ giang hồ! Nào, xuống đi, con người huyênh hoang nhất đời, có trái tim thép và đôi tay đồng. Một lần nữa, với ánh sáng của cuộc đời này mà ngài đã từ bỏ để giấu mình vào hang tối [SUP]2[/SUP].

Chú em chúc tụng Đôn Kihôtê những lời tương tự.

Đôn Kihôtê vừa tụt xuống hang vừa yêu cầu tiếp tục thả dây thừng và hai người cứ từ từ hạ dây xuống; tiếng chàng vọng lên như qua một đường ống. Rồi không nghe thấy gì nữa. Lúc này, hai người ngồi trên đã thả hết cả một trăm sải dây, họ định kéo chàng lên vì không còn dây để thả tiếp. Tuy nhiên, họ cố chờ chừng nửa tiếng rồi mới kéo dây thì thấy nhẹ tay khiến họ nghĩ rằng Đôn Kihôtê đã ở lại dưới hang. Thế là Xantrô òa lên khóc thảm thiết và hối hả kéo dây xem mình có tưởng nhầm không. Kéo lên được khoảng trên tám mươi sải, thấy nặng tay, hai người mừng quýnh. Chỉ còn mươi sải thì thấy rõ Đôn Kihôtê, Xantrô bèn nói vọng xuống:

- Mừng ông chủ đã trở về, chúng tôi cứ nghĩ ngài ở lại dưới đó để làm bố già.

Chẳng thấy Đôn Kihôtê nói gì. Khi kéo chàng lên khỏi miệng hang thì thấy mắt chàng nhắm nghiền, đang ngủ. Họ đặt chàng xuống đất, tháo dây ra mà chàng vẫn không tỉnh. Hai người phải lay đi lay lại mãi chàng mới mở mắt, duỗi chân tay như vừa qua một giấc ngủ say sưa, ngơ ngác nhìn ngang nhìn ngửa rồi nói:

- Cầu Chúa tha lỗi cho các bạn vì các bạn đã làm mất đi của ta một cuộc sống thú vị và một cảnh tượng ngoạn mục nhất mà chưa một người nào biết tới. Quả thật bây giờ ta mới hiểu rằng mọi lạc thú trên đời thoáng qua như ảo ảnh và giấc mơ hoặc tàn lụi đi như hoa đồng cỏ nội mà thôi. Hỡi Môntêxinôx bất hạnh! Hỡi Đuranđartê mình đầy thương tật! Hỡi Bêlêrma bạc phận! Hỡi Goađiana đa sầu và đa cảm! Hỡi những cô gái đáng thương đã làm dâng nước hồ Ruiđêra bằng những giọt lệ của những đôi mắt xinh đẹp.

Đôn Kihôtê nói với một giọng rất đau xót, như thể những lời nói rứt từ trong ruột ra vậy. Chú em và Xantrô chăm chú nghe. Khi chàng nói xong, hai người khẩn khoản đề nghi chàng giải thích rõ và nói cho biết chàng đã nhìn thấy những cái gì trong địa ngục đó.

- Sao lại gọi là địa ngục? Đôn Kihôtê vặn; không được gọi như thế vì không đúng đâu, rồi các bạn sẽ thấy.

Chàng yêu cầu cho ăn vì đã đói bụng quá. Họ trải tấm thảm lên bãi cỏ xanh, lấy lương thực ở cái túi hai ngăn, rồi cả ba ngồi ăn rất vui vẻ, thân mật. Sau khi tấm thảm đã được cuộn lại, hiệp sĩ Đôn Kihôtê xứ Mantra nói:

- Các con hãy ngồi yên và lắng tai nghe.


--------------------------------
1. Một nhà bác học Ý, thế kỷ XV (43 tr.CN - 16 tr.CN)
2. Từ khi đi theo hầu Đôn Kihôtê, Xantrô cũng bắt chước lối nói hoa văn kiểu cách của chủ, song nhiều khi dùng sai từ ngữ
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes

Chương XXIII

Chàng Đôn Kihôtê xuất chúng kể lại những chuyện kỳ lạ mà chàng đã gặp trong hang Môntêxinôx sâu thẳm, những chuyện phi thường không thể có, tưởng đâu cuộc phiêu lưu này là chuyện bịa


Lúc này là bốn giờ chiều. Mặt trời ẩn sau những đám mây, tỏa xuống một ánh sáng dịu và những tia nắng nhạt; trong không khí mát mẻ, thoải mái, Đôn Kihôtê đã kể cho các thính giả trứ danh [SUP]1[/SUP] của mình những điều đã trông thấy trong hang Môntêxinôx, chàng mở đầu như sau:

Dưới miệng hang chừng mười ba, mười bốn đầu người, về phía tay phải có một cái hốc lớn có thể chứa được cả một cỗ xe lớn với la kéo. Qua một khe hở nào đó trên mặt đất, một tia sáng yếu ớt chiếu vào trong. Ta chợt nhìn thấy cái hốc đó vào lúc người đã thấy mệt và khó chịu vì cứ phải treo mình vào một sợi dây mà tụt xuống một nơi tối tăm vô định; thế là ta bèn ghé vào nghỉ chân. Lúc ấy, ta có kêu rằng các bạn đừng hạ dây nữa chừng nào ta chưa yêu cầu, nhưng chắc không ai nghe thấy nên vẫn tiếp tục thả xuống; ta bèn xếp lại thành vành rế rồi ngồi lên, trong bụng đang phân vân không biết làm thế nào để xuống tận đáy hang nếu không có ai giúp đỡ. Còn đang suy nghĩ mông lung, bỗng ta buồn ngủ lăn ra, rồi ta thấy mình tỉnh dậy, không hiểu vì sao và thấy mình đang ở trên một cánh đồng cỏ đẹp nhất, thú vị nhất mà tạo hóa có thể bày ra hoặc trí tưởng tượng phong phú nhất của con người có thể nghĩ ra được. Ta mở to mắt, giụi đi giụi lại, thấy mình không ngủ mà rõ ràng đang tỉnh; ta lại lấy tay sờ đầu, sờ ngực xem đích thị mình có phải ở nơi đó hay là ma quỷ nào nhập vào người. Sau khi đã sờ, đã cảm giác, đã suy xét, ta vẫn thấy mình như lúc này vậy. Rồi trước mặt hiện lên một tòa lâu đài nguy nga, tưởng như thể bằng pha lê trong suốt; hai cánh cổng lớn mở toang, từ bên trong bước ra một ông già đạo mạo, mình khoác một tấm áo choàng dài lê thê bằng nỉ tím, vai và ngực trùm một tấm khăn choàng bằng xa tanh, đầu đội mũ nhung đen, râu bạc phơ dài quá thắt lưng. Ông ta không mang vũ khí mà chỉ cầm một tràng hạt, hạt nhỏ cũng hơn trái hồ đào, còn to thì bằng quả trứng đà điểu. Thái độ, dáng đi, vẻ trang nghiêm và toàn thân con người ông khiến người ta vừa kinh ngạc vừa kính trọng. Việc đầu tiên khi ông gặp ta là ôm chầm lấy ta, rồi bảo: "Hỡi chàng hiệp sĩ Đôn Kihôtê xứ Mantra, đã bao lâu nay mong chàng tới để loan tin cho thiên hạ biết trong hang sâu tên gọi Môntêxinôx này có chứa đựng những gì; đây là một hành động oanh liệt dành cho trái tim vô địch và lòng dũng cảm phi thường của chàng. Mời quý khách hãy đi theo tôi; tôi muốn giới thiệu với ngài những kỳ công trong tòa lâu đài bằng pha lê này mà tôi là người cai quản vĩnh viễn vì tôi chính là Môntêxinôx; tên tôi đã trở thành tên cái hang này.

Nghe ông ta tự xưng là Môntêxinôx, ta vội nói: "Chẳng hay câu chuyện đồn đại ở trên trần về lão trượng có thật hay không? Người ta kể rằng lời thỉnh cầu của Đuranđartê lúc lâm chung, lão trượng đã dùng một con dao to bản lôi quả tim của chàng ra khỏi lồng ngực mang về cho Bêlerma [SUP]2[/SUP] ". Ông già Môntêxinôx đáp là đúng như vậy, trừ chi tiết về con dao vì con dao này không to bản và cũng không nhỏ mà là loại dao găm mỏng lưỡi, nhọn như dùi thợ giày.

Nghe thấy vậy, Xantrô bảo:

- Con dao găm đó chắc là của Ramôn đê Ôxê [SUP]3[/SUP] ở Xêviia.

- Ta không rõ, Đôn Kihôtê đáp, nhưng chắc không phải vì Ramôn đê Ôxê là chuyện mới, còn chuyện Rônxêxvaiêx - nơi xảy ra sự việc thương tâm này - cách đây bao nhiêu năm rồi. Dù sao, điều nhận xét của anh cũng không quan trọng gì và không làm giảm sự chính xác của câu chuyện ta đang kể.

- Đúng vậy, Chú em nói, xin ngài Đôn Kihôtê hãy kể tiếp, tôi đang nghe một cách vô cùng hào hứng.

- Tôi cũng đang kể với một vẻ hào hứng không kém, Đôn Kihôtê đáp. Xin tiếp tục, ông già Môntêxinôx đáng kính mời ta vào tòa lâu đài bằng pha lê và dẫn đến một căn phòng thấp mát lạnh xây toàn bằng đá trắng; trong phòng, trên một cái bệ cẩm thạch hay vân thạch như ta thường thấy ở các ngôi mộ khác, mà bằng xương bằng thịt hẳn hoi. Tay phải của chàng (một bàn tay lưa thưa lông và gân guốc, chứng tỏ chủ nhân của nó phải là một người lực lưỡng) đặt trên phía trái tim. Ta thấy kinh ngạc nhìn hiệp sĩ này nằm trên bệ, không phải để hỏi, Môntêxinôx bảo: "Đây là anh bạn Đuranđartê của tôi, từng là tinh hoa của các hiệp sĩ si tình và dũng cảm. Tên pháp sư người Pháp Merlin đã dùng thuật giam chàng ở đây cùng với tôi và bao nam nữ khác. Thiên hạ đồn rằng tên Merlin này là con đẻ của quỷ sứ, riêng tôi cho rằng hắn không phải con của quỷ mà hắn còn tinh hơn cả quỷ. Không ai biết bằng cách nào và vì sao hắn phù phép chúng tôi; thời gian sẽ trả lời và tôi nghĩ là sẽ không lâu nữa. Điều làm tôi ngạc nhiên là tôi đã nhìn rõ mồn một - như lúc này đây là ban ngày - thấy chàng Đuranđartê tắt thở trong tay tôi, rồi sau khi chàng chết, chính tay tôi đã moi tim chàng ra, một quả tim phải nặng tới một cân. Theo những nhà bác học, kẻ nào tim to, kẻ đó dũng cảm hơn người tim bé. Một khi chàng đã chết hẳn, làm sao chàng đôi lúc vẫn than thở như còn sống vậy?". Môntêxinôx vừa dứt lời, chàng Đuranđartê bất hạnh thốt lên một tiếng kêu to rồi nói: "Ôi, anh Môntêxinôx của tôi! Đây là lời thỉnh cầu cuối cùng khi hồn tôi đã lìa khỏi xác, hãy dùng dao to bản hoặc dao nhọn moi trái tim trong lồng ngực của tôi rồi mang tới cho nàng Bêlerma".

Nghe thấy vậy, Đôn Kihôtê kể tiếp, ông già Môntêxinôx đáng kính quỳ xuống trước chàng hiệp sĩ đáng thương, rưng rưng nước mắt nói: "Rồi, em Đuranđartê chí thiết của ta, ta đã làm theo lời thỉnh cầu của em trong cái ngày xấu đã mang bất hạnh đến cho chúng ta; ta đã rất khéo léo moi trái tim của em ra khỏi lồng ngực, không để sót một phần nhỏ nào, ta đã lau sạch bằng một chiếc khăn tay viền đăng ten và đã đem ngay sang nước Pháp sau khi đã vùi sâu thi hài em xuống lòng đất. Ta đã khóc em nhiều, và những giọt nước mắt của ta đã đủ để rửa sạch máu ở đôi bàn tay đã luồn vào lồng ngực em. Để có thêm bằng chứng, ta xin nói với chú em rằng tới một làng đầu tiên sau khi rời khỏi đèo Rônxêxvaiêx, ta đã bỏ một dúm muối vào quả tim của em cho nó khỏi có mùi, nếu không còn tươi thì ít nhất cũng còn nguyên vẹn khi trao cho phu nhân Bêlerma mà lão pháp sư Merlin đã dùng pháp thuật giam ở đây bao năm trời cùng với em, ta - giám mã Goađiana của em, bà quản gia Ruiđêra cùng bày người con gái và hai cháu gái của bà, chưa kể bao nhiêu bạn bè quen thuộc của năm trăm năm đã trôi qua, song không một ai trong chúng ta qua đời; riêng bà Ruiđêra cùng các con cháu của bà, vì quá khóc than nên Merlin đã mủi lòng biến họ thành những hồ nước mà ngày nay trên trần, ở xứ Mantra, người ta gọi là hồ Ruiđêra; bảy hồ (tức là bảy cô con gái nhà Ruiđêra), thuộc quyền của vua Tây Ban Nha, còn hai hồ (tức là hai cô cháu), thuộc quyền của các hiệp sĩ dòng thánh Huam. Vì quá thương cảm nỗi bất hạnh của em, giám mã Goađiana biến thành một con sông là sông Goađiana; khi con sông này nhô ra khỏi mặt đất và nhìn thấy mặt trời của một thế giới khác, nó buồn phiền vì đã bỏ em ở đây nên lại luồn sâu vào lòng đất; song, theo lẽ tự nhiên, nó không thể đổi chiều được nên đôi lúc nó lại hiện lên trên mặt đất để mặt trời và mọi người trông thấy nó. nước ở hồ Ruiđêra cùng nhiều hồ khác đổ vào sông Goađiana khiến nó chảy vào một con sông lớn khi chảy vào Bồ Đào Nha. Tuy nhiên, khi chảy qua nơi nào đi chăng nữa, nó cũng tỏ ra buồn phiền nhớ nhung; dòng nước của nó chẳng nuôi những loài cá ngon, hiếm mả chỉ có những con cá rẻ tiền, vô vị, khác hẳn những con cá ở sông Taho vàng óng. Em ơi! Những điều ta vừa nói, ta đã nói với em bao lần song em không trả lời nên ta nghĩ rằng em không tin ta hoặc không thèm nghe những gì ta nói; chỉ có trời biết ta buồn phiền tới chừng nào. Hôm nay, ta mang đến cho em một tin mới, tuy không làm nhẹ nỗi đau của em song cũng không làm nó tăng lên. Em hãy mở cả hai mắt ra mà nhìn, trước mặt em là hiệp sĩ vĩ đại Đôn Kihôtê xứ Mantra, con người được pháp sư Merlin tiên đóan nhiều điều tốt lành; con người ấy, với những khả năng to lớn hơn những hiệp sĩ của các thế kỷ trước, đã làm sống lại trong ngày nay ngành hiệp sĩ giang hồ đã bị lãng quên. Với tài năng và sự giúp đỡ của chàng, chúng ta có thể được giải phép vì xưa nay, những chiến công vĩ đại thường dành cho những con người vĩ đại". "Dù không được như vậy, anh chàng Đuranđartê đáp lại bằng một giọng yếu ớt, anh ơi, dù không được như vậy, cứ chịu khó chia bài" [SUP]4[/SUP]. Rồi chàng trở người nằm nghiêng, lặng im như trước, không thèm nói câu nào.

Vừa lúc đó, ta nghe có những tiếng kêu khóc, kèm theo là những tiếng rên rỉ, thổn thức não ruột. Ta quay nhìn qua, nhìn lại bức tường bằng pha lê thì thấy ở phòng bên có một đám thiếu nữ xinh đẹp tuyệt trần đang đi thành hai hàng, tất cả mặc đồ tang, đầu đội khăn trắng kiểu Thổ Nhĩ Kỳ. Đi sau cùng là một người đàn bà có dáng vẻ trang nghiêm, rõ ràng là một mệnh phụ, bà ta cũng mặc áo đen, ngòai khoác một tấm áo choàng trắng rộng và kéo lê dưới đất, khăn đội đầu to gấp đôi tấm khăn to nhất của các cô gái nọ. Bà ta có đôi lông mày giao nhau, mũi hơi tẹt, miệng rộng, môi đỏ; thỉnh thoảng bà ta để lộ một hàm răng thưa và không đều nhưng trắng như hạnh nhân bóc vỏ. Người đàn bà đó nâng một chiếc khăn tay mỏng trong đó ta nhận ra một quả tim ướp đã khô quắt. Ông già Môntêxinôx cho ta hay rằng đám thiếu nữ đi rước là thị nữ của Đuranđartê và Bêlerma. Một tuần, bà cùng đám thị nữ đó đi rước bốn ngày; họ vừa đi vừa hát, nói đúng hơn, họ rên rỉ những bài bi ca ai oán trước thi thể và trái tim đáng thương của chàng Đuranđartê. Mantra bảo ta: "Nếu ngài cảm thấy rằng nàng Bêlerma có phần kém sắc hoặc không được xinh đẹp như lời đồn đại, đó là nàng đã phải sống trong những đêm sầu thảm và những ngày còn sầu thảm hơn trong tình trạng bị phù phép, chứng cớ là mắt nàng có hai quầng to và nước da vàng vọt. Nước da đó và đôi mắt đó không phải do bệnh khó ở thông thường hàng tháng của phụ nữ vì đã bao tháng nay, thậm chí đã bao năm nay, nàng không biết tới bệnh đó nữa; đó là quả tim thường xuyên trên tay nàng đã làm cho nàng đau lòng và gợi lên trong ký ức nỗi bất hạnh của người tình xấu số. Nếu không vì lý do đó, vị tất nàng Đulxinêa làng Tôbôxô vĩ đại đã sánh kịp về nhan sắc mặc dù đã nghe khắp vùng này và khắp cả thế giới ca tụng". Nghe thấy vậy, ta vội nói: "Thôi, thôi, ngài Đôn Môntêxinôx, ngài hãy kể chuyện của ngài thôi; hẳn ngài cũng biết mọi so sánh đều đáng ghét và ngài không nên đem so người này với người kia mà chỉ nên biết rằng nàng Đulxinêa làng Tôbôxô vô song không giống nàng Bêlerma, có thế thôi". Môntêxinôx đáp: "Xin ngài Đôn Kihôtê thứ lỗi cho; thú thật tôi đã sơ suất khi nói rằng vị tất nàng Đulxinêa sánh kịp nàng Bêlerma. Chỉ cần tôi ngờ ngợ rằng ngài là hiệp sĩ của nàng, tôi thà tự cắn lưỡi còn hơn là đem nàng ra so sánh, dù là so sánh với ông trời". Lời nói của ông già Môntêxinôx khiến ta hởi lòng hởi dạ trút hết nỗi bực tức khi thấy ông ta so sánh tình nương của ta và nàng Bêlerma.

Xantrô bảo:

- Tôi lấy làm lạ là sao ngài không nhảy lên người lão khọm già ấy mà giần cho tan xương và vặt cho trụi không còn sợi râu nào nữa.

- Không nên, anh bạn Xantrô ạ, Đôn Kihôtê đáp; làm thế không hay ho gì vì tất cả chúng ta đều phải tôn trọng người già dù họ không phải là hiệp sĩ, còn đối với người già là hiệp sĩ và đang bị phù phép, ta càng phải tôn trọng. Có điều chắc chắn là trong những câu hỏi và đáp giữa hai người, chẳng ai chịu lép ai đâu.

Chú em lên tiếng:

- Thưa ngài Đôn Kihôtê, tôi không hiểu bằng cách nào mà trong một thời gian ngắn ở dưới hang, ngài lại mục kích được nhiều việc và nói được nhiều chuyện thế.

- Tôi xuống đó được bao lâu, Đôn Kihôtê hỏi.

- Già một tiếng đồng hồ, Xantrô đáp.

- Không thể thế được, Đôn Kihôtê cãi, vì ta đã nhìn thấy mặt trời lặn rồi mọc, tất cả ba lần; như vậy, về phần ta, ta đã sống ba ngày ở nơi xa xôi khuất mắt người trần.

- Chắc là ông chủ tôi nói đúng, Xantrô bảo, vì tất cả những chuyện xảy ra với ngài đều có những bàn tay pháp sư phù phép. Nếu đối với chúng tôi, thời gian của ngài ở dưới hang là một tiếng thôi thì đối với ngài, nó phải là ba ngày cộng với ba đêm.

- Chắc vậy, Đôn Kihôtê đáp.

- Thưa ngài, chẳng hay ngài có ăn uống gì trong suốt thời gian ấy không? Chú em hỏi.

- Tôi không ăn một miếng nào cả, Đôn Kihôtê đáp; tôi không thấy đói và cũng không nghĩ tới chuyện đó.

- Thế những người bị phù phép có ăn không? Chú em lại hỏi.

- Họ không ăn và cũng không đi đại tiện, Đôn Kihôtê đáp. Tuy nhiên, thấy nói rằng móng tay, móng chân, râu và tóc họ vẫn mọc.

- Những người bị phù phép có ngủ không, thưa ngài? Xantrô hỏi.

- Tất nhiên là không, Đôn Kihôtê đáp; ít nhất là trong ba ngày ta sống với họ, không ai chợp mắt, kể cả ta.

Xantrô nói:

- Câu tục ngữ: gần mực thì đen, gần đèn thì rạng áp dụng vào đây quả thật hợp! Ngài giao du với những kẻ bị phù phép, không ăn không ngủ, vậy thì có gì lạ nếu ngài không ăn, không ngủ lúc gần họ. Nhưng thôi, ông chủ hãy tha lỗi cho, xin thưa là nếu tôi tin một chút nào vào tất cả những điều ngài đã nói thì Thượng đế (tôi định nói là quỷ sứ) cứ bắt tôi đi.

- Sao lại không tin, Chú em vặn lại, chả nhẽ ngài Đôn Kihôtê lại nói dối ư? Dù có muốn, ngài cũng không thể trong một thời gian ngắn bày ra cả triệu câu chuyện bịa như vậy được.

- Tôi không nghĩ rằng ông chủ tôi nói dối, Xantrô đáp.

- Nếu vậy, anh nghĩ gì? Đôn Kihôtê hỏi.

- Tôi nghĩ rằng lão Merlin hoặc những lão pháp sư đã phù phép bọn người mà ngài vừa gặp và nói chuyện ở dưới hang, chính lũ pháp sư đó đã nhồi vào đầu óc ngài tất cả những chuyện nhảm nhí mà ngài vừa kể hoặc sắp kể tiếp.

- Xantrô, lẽ nào lại như vậy, Đôn Kihôtê nói. Không phải thế đâu vì những điều ta vừa kể, ta đã nhìn tận mắt, sờ tận tay. Anh sẽ ăn nói làm sao bây giờ nếu ta kể cho anh rằng, trong bao điều kỳ lạ mà Môntêxinôx đã cho ta xem (ta sẽ kể dần trên đường đi vì lúc này không thích hợp), ông ta chỉ cho ta ba cô gái quê vừa đi vừa nhảy nhót như những con dê trên những cánh đồng xanh tốt; ta nhận ra một trong ba cô là nàng Đulxinêa làng Tôbôxô. Ta hỏi Môntêxinôx có biết ba người đó không, ông ta bảo không biết vì họ mới xuất hiện trên cánh đồng được ít lâu nay những chắc phải là những phu nhân quyền quý bị phù phép; ông ta bảo ta không nên lấy làm ngạc nhiên vì trong hang còn nhiều phu nhân của các thế kỷ trước cũng như thế kỷ này bị phù phép dưới nhiều hình thức kỳ dị, trong đó có hoàng hậu Hinêbra và thị nữ Kintanhôra chuốc rượu cho hiệp sĩ Lanxarôtê khi chàng từ Brêtanha tới.

Nghe chủ nói, Xantrô ngỡ rằng mình sắp hóa rồ hoặc sẽ cười lăn ra mà chết vì bác chẳng lạ gì câu chuyện bịp bợm về nàng Đulxinêa bị phù phép mà chính bác là pháp sư và cũng là người chứng kiến. Tin chắc chủ mình mất trí hoàn toàn, bác nói:

- Ông chủ quý mến của tôi ơi, ngài đã đi đến một thế giới khác vào một giờ hung và vô phúc gặp phải Môntêxinôx nên đã bị lão ta làm cho lú lẫn mất rồi. Trước khi xuống hang, đầu óc ngài còn tỉnh táo như Chúa đã ban cho, ngài nói năng khôn ngoan, chí lý chứ đâu có như bây giờ, nói toàn những chuyện nhảm nhí nhất mà người ta có thể bày đặt ra được.

- Ta biết tính anh rồi nên không để tâm những lời anh nói, Đôn Kihôtê đáp.

- Tôi cũng chẳng để tâm đến những lời của ngài, Xantrô đối đáp. Ngài có đánh tôi, giết tôi vì những điều tôi đã hoặc định nói, tôi cũng đành nếu ngài không sửa lại câu nói của ngài. Thôi, thế là thầy trò ta đã làm lành với nhau; bây giờ, xin hỏi ngài, làm thế nào và bằng cách nào mà ngài nhận ra bà chủ tôi? Khi nói chuyện với bà, ngài hỏi câu gì và bà trả lời ra sao?

- Ta nhận ra nàng ở bộ y phục nàng đã mặc khi anh dẫn nàng tới gặp ta trước kia, Đôn Kihôtê đáp. Ta hỏi nhưng nàng không nói năng gì mà quay ngoắt chạy trốn nhanh đến nỗi tên bắn không kịp. Ta định đuổi theo nhưng Môntêxinôx khuyên ta không nên tốn công vô ích, vả chăng lúc đó đã đến giờ ta rời khỏi hang. Trong tất cả những gì ta trông thấy, điều làm ta đau lòng nhất là khi ta nói chuyện với Môntêxinôx, một trong hai cô gái đi cùng với nàng Đulxinêa bất hạnh lẻn lại gần ta, đôi mắt đầy lệ, khẽ nói bằng một giọng bối rối: " Bà chủ Đulxinêa làng Tôbôxô của tôi xin hôn tay ngài và xin ngài cho biết tình hình sức khỏe. Vì đang gặp cơn túng quẫn, bà chủ tôi khẩn khoản xin ngài vui lòng cho giật sáu đồng rêal hoặc có bao nhiêu cho vay bấy nhiêu.Bà chủ tôi cầm đỡ cái váy bằng sợi bông tôi mang theo đây và hứa sẽ hoàn lại trong thời gian ngắn". Thấy chuyện lạ quá, ta quay sang hỏi ngài Môntêxinôx: " Thưa ngài Môntêxinôx, chẳng lẽ những nhà quyền quý bị phù phép cũng túng quẫn ư?". Ông ta đáp: "Thưa ngài Đôn Kihôtê xứ Mantra, hãy tin rằng cái mà thiên hạ gọi là sự túng thiếu có mặt khắp chốn khắp nơi, không tha một ai, kể cả những người bị phù phép; một khi bà Đulxinêa làng Tôbôxô cho người đến hỏi vay ngài sáu rêal với một vật đảm bảo chắc chắn như vậy, xin ngài cứ đưa, hẳn bà ta đang gặp khó khăn lớn". Ta đáp: "Tôi không cần vật bảo đảm và cũng không cho vay đủ số tiền nàng hỏi vì chỉ còn bốn rêal". Rồi ta đưa tiền (số tiền mà Xantrô đưa hôm nọ để bố thí cho kẻ nghèo dọc đường) và nói với cô gái: "Cô bạn hãy về thưa với bà chủ rằng nỗi khó khăn của nàng làm ta buồn phiền tận đáy lòng và ta muốn làm một Phucar [SUP]5[/SUP] để cứu vớt nàng. Ta mong nàng biết cho rằng ta không thể và không được phép có sức khỏe một khi không được nhìn thấy dung nhan kiều diễm và không được nghe những lời nói tế nhị của nàng, và ta khẩn khoản cầu xin nàng vui lòng cho hiệp sĩ lang thang hèn mọn này được hầu chuyện. Cô hãy nói thêm rằng một lúc nào đó, không chờ không đợi, nàng sẽ được tin rằng ta đã thề, giống như hầu tước Đê Mantua đã thề trả thù cho cháu ngoại ngài là Balđôvinôx khi thằng cháu sắp tắt thở trên một ngọn núi; ngài đã thề là ăn không cần trải bàn và còn làm nhiều chuyện khác nữa chừng nào chưa báo được thù cho cháu. Ta cũng sẽ không nghỉ ngơi và sẽ đi hết bảy phần trái đất, đi nhiều hơn cả hoàng tử Đôn Pêđrô nước Bồ Đào Nha, chừng nào ta chưa giải được phép cho nàng". Cô ta đáp: "Ngài làm được việc đó cùng nhiều việc khác nữa là nhờ có bà chủ tôi đấy". Rồi cô ta cầm bốn đồng rêal, không cúi chào mà lại nhảy lộn một vòng, cao đến hơn hai thước.

Nghe thấy vậy, Xantrô gào lên:

- Ôi, lạy Chúa, chẳng lẽ lại có chuyện tuyệt vời đến thế xảy ra trên đời này ư? Chẳng lẽ lũ pháp sư và phép thuật của chúng lợi hại đến nỗi có thể biến người sáng láng như chủ ta thành người điên rồ ư? Ngài ôi, vì Chúa, xin ngài hãy nhìn lại; vì danh dự, xin hãy trở về với con người thật của ngài, đừng tin những chuyện nhảm nhí khiến cho ngài mụ mẫm, mất cả trí khôn.

- Xantrô, vì anh quá yêu ta nên mới nói thế, Đôn Kihôtê bảo, và vì anh không từng trải nên nghĩ rằng việc gì khó là không thể làm được. Nhưng thôi, như ta nói, ta sẽ kể một số chuyện nữa mà ta được chứng kiến ở dưới hang khiến anh sẽ tin những điều ta nói là sự thật, không phải bàn cãi gì hết.


--------------------------------
1. Xin độc giả lưu ý lối nói hài hước của Xervantex (mà ta thường gặp), gọi Chú em và Xantrô là những thính giả trứ danh của Đôn Kihôtê.
2. Bị trọng thương trong trận Rônxêxvaiêx, hiệp sĩ Đuranđartê nhờ Môntêxinôx moi tim dâng cho tình nương của chàng là Bêlerma
3.Chẳng hiểu vì sao Xantrô nhắc đến tên người này vì trong sử sách không hề nói tới
4.Một câu nói cửa miệng dùng để an ủi, khích lệ những con bạc khi gặp đen. Với nghĩa rộng, khích lệ những ai gặp nhiều bất hạnh
5.Một dòng họ quý tộc Đức nổi tiếng giàu có
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes


Chương XXIV

Cả ngàn chi tiết vô lý nhưng cần thiết để hiểu thấu đáo pho sách vĩ đại này



Người dịch pho sách lớn này từ nguyên bản do hiền sĩ Amêtê Bênenhêli soạn, nói rằng tới chương về cuộc phiêu lưu dưới hang Môntêxinôx, ông ta thấy ở lề sách có những dòng chữ sau đây do chính tay ngài Amêtê ghi:

"Tôi không thể hiểu và cũng không thể tin được rằng tất cả những điều kể ở chương trên lại có thể xảy đến đối với chàng Đôn Kihôtê dũng cảm. Lý do là cho tới nay, tất cả những chuyện phiêu lưu của chàng hiệp sĩ đều có thể xảy ra và đều có thật, riêng chuyện về hang Môntêxinôx thì tôi thấy không có căn cứ gì để coi là có vì nó vượt ra ngoài giới hạn của sự thật. Tuy nhiên, tôi không thể nghĩ rằng Đôn Kihôtê nói dối vì chàng là nhà quý tộc chân chính nhất và là hiệp sĩ cao cả nhất của thời đại, dù có bị cả ngàn mũi tên xuyên vào người cũng không thể nói dối. Mặt khác, tôi thấy rằng chàng kể câu chuyện này với tất cả các tình huống đã diễn ra, vậy thì chàng không thể trong một thời gian ngắn bày đặt ra cả một mớ chuyện hoang đường như vậy. Còn nếu đây là chuyện bịa thì lỗi không chỉ tại tôi chỉ biết ghi chép, không kết luận đó là bịa hay thật. Bạn đọc, bạn là người thận trọng xin để tùy bạn nhận xét vì tôi không có nhiệm vụ nào khác và cũng không thể làm gì hơn. Tuy nhiên, người ta biết chắc rằng lúc sắp qua đời, Đôn Kihôtê có rút lui ý kiến và nói rằng chàng đã bịa ra câu chuyện này vì thấy nó phù hợp với những cuộc phiêu lưu mà chàng đã đọc trong đống sách của chàng.

Đến đây, tác giả Amêtê kể tiếp:

Chú em lấy làm ngạc nhiên trước những lời lẽ hỗn hào của Xantrô cũng như trước thái độ kiên nhẫn của chủ bác giám mã; chú cho rằng sở dĩ Đôn Kihôtê tỏ ra vui vẻ dễ tính như vậy là vì chàng vừa được gặp mặt tình nương Đulxinêa làng Tôbôxô - mặc dù nàng đã bị phù phép - nếu không thế, chắc chắn Xantrô đã bị dừ đòn vì những lời nói vừa rồi; quả thật, chú thấy Xantrô ăn nói xấc láo với chủ. Chú bảo:

- Thưa ngài Đôn Kihôtê xứ Mantra, Tôi đi với ngài chuyến này thật là bổ ích vì tôi đã thu hoạch được bốn điều. Thứ nhất là được làm quen với ngài mà tôi coi là đại hạnh. Thứ hai, được biết trong hang Môntêxinôx có những gì, cũng như sự biến hóa của con sông Goađiana và những hồ nước Ruiđêra, chi tiết bổ ích cho cuốn Ôđiviô Tây Ban Nha mà tôi đang soạn. Thứ ba là biết được sự xuất hiện lâu đời của những lá bài - ít nhất là từ thời hoàng đế Carlô Macnô - căn cứ vào những lời của Đuranđartê vì như lời ngài đã kể, khi nghe xong bài diễn thuyết tràng giang đại hải của Môntêxinôx, chàng đã tỉnh lại và nói: "Cứ chịu khó chia bài"; chắc hẳn chàng không học được lối nói này sau khi đã bị phù phép mà phải là trước đó, khi chàng còn ở Pháp, dưới thời hoàng đế Carlô Macnô; điều xác minh này rất có ích cho một cuốn sách nữa mà tôi đang soạn mang tên Bổ sung cho Virhiliô Pôliđôrô, về những phát minh thời cổ xưa. Theo tôi, Virhiliô đã quên không nhắc tới sự phát minh ra những lá bài trong sách của ông ta, và tôi sẽ nhắc tới trong cuốn của tôi; vấn đề này sẽ có một tầm quan trọng lớn lao, nhất là tôi lại dẫn chứng lời của một nhân vật chân chính và nghiêm túc như ngài Đuranđartê. Thứ tư là biết chắc chắn về cội nguồn con sông Goađiana mà cho tới nay thiên hạ chưa biết.

- Ngài nói phải, Đôn Kihôtê bảo, song tôi xin hỏi: một khi Chúa phù hộ cho ngài được phép in những cuốn sách đó (điều mà tôi không chắc), ngài sẽ tặng cho ai?

- Ở Tây Ban Nha có nhiều nhà quyền quý để tặng, Chú em đáp.

- Không nhiều đâu, Đôn Kihôtê nói; không phải vì họ không xứng đáng mà vì họ không muốn nhận, sợ phải mang ơn tác giả là người đã bỏ công sức và có ý tặng sách cho mình. Tôi biết có một ông hoàng có thể khắc phục được điểm thiếu sót này của các vị kia; ông ta có rất nhiều ưu điểm, nếu tôi kể ra, chắc chắn sẽ khiến cho những trái tim hào hiệp phát ghen. Nhưng thôi, ta hãy bàn vấn đề này vào một dịp khác thuận tiện hơn, bây giờ ta hãy đi tìm nơi nghỉ chân đêm nay đã.

Chú em bảo:

- Cách đây không xa có một tu viện do một ẩn sĩ trông coi; đồn rằng ông ta trước kia đi lính, có tiếng là người ngoan đạo, lịch thiệp và nhân từ. Bên cạnh nhà tu có một căn nhà nhỏ do chính tay ông ta dựng lên, tuy hẹp nhưng cũng có thể đón khách được.

- Chẳng hay ông ẩn sĩ đó có gà không?

- Ít ẩn sĩ không có gà, Đôn Kihôtê đáp, vì các ẩn sĩ thời nay không giống như các ẩn sĩ thời trước kia sống trên những bãi sa mạc ở Ai Cập, chỉ mặc lá cỏ và ăn rễ cây. Đừng nghĩ là tôi muốn khen người này và chê người khác, tôi chỉ muốn nói rằng sự khổ hạnhcủa các nhà tu ngày nay không chặt chẽ và khắc khổ như ngày trước, song cũng không vì thế mà họ không tốt; tôi nghĩ về họ như vậy đó. Và một khi xảy ra chuyện không hay, kẻ đạo đức đóng vai mô phạm ít gây tác hại hơn là công khai làm bậy.

Còn đang trò chuyện, bỗng thấy có một người đi tới, chân bước vội vã, vừa đi vừa cầm cây sào quất một con la chở đầy giáo mác. Khi đi qua trước mặt Đôn Kihôtê, người đó cúi đầu chào rồi đi thẳng. Đôn Kihôtê bảo:

- Người anh em hãy dừng chân lại một chút nào, hình như hơi nhanh đấy, con la không theo kịp đâu.

- Tôi không thể dừng lại được, người kia đáp; ngày mai phải dùng tới những vũ khí mà ngài thấy tôi mang theo đây. Bởi vậy, tôi không thể đứng lại được, xin chào ngài. Nếu ngài muốn biết tôi chở đống vũ khí này làm gì, xin thưa là đêm nay tôi ngủ tại quán trọ phía bên trên tu viện; nếu ngài cùng đường, ngài sẽ gặp lại tôi tại đó và tôi sẽ kể cho nghe những chuyện lạ lùng. Thôi xin chào ngài một lần nữa.

Nói rồi, người đó giơ roi thúc con la đi gấp khiến Đôn Kihôtê không kịp hỏi xem những chuyện lạ lùng bác định kể là chuyện gì. Vốn tính tò mò, lại hay muốn biết những điều mới lạ, Đôn Kihôtê ra lệnh lên đường ngay và sẽ nghỉ đêm tại quán trọ, không nghỉ tại tu viện như ý kiến Chú em nữa.

Cả ba người lên đường thẳng tiến về phía quán trọ, xẩm tối tới nơi. Trên đường đi, Chú em đề nghị tạt vào tu viện kiếm rượu uống chơi. Nghe Chú em nói, Xantrô vội hướng luôn con lừa về phía đó, theo sau là Đôn Kihôtê và Chú em. Nhưng do vận đen của Xantrô xui khiến - ẩn sĩ đi vắng - một ả coi nhà tu [SUP]1[/SUP] bảo họ như vậy. Ba người hỏi có rượu ngon đắt tiền không; ả đáp là ông chủ không có, nếu muốn nước lã rẻ tiền thì ả mang đến cho.

- Nếu muốn uống nước lã thì trên đường thiếu gì giếng, tha hồ mà uống, Xantrô đáp. Ôi, đám cưới của Camachô, ngôi nhà sung túc của Đôn Điêgô, ta còn phải luyến tiếc các ngươi bao nhiêu lần nữa.

Rời tu viện, ba người thẳng về phía quán trọ, mới được một quãng, thấy phía trước có một chàng trai lững thững đi trên đường, lát sau, ba người đuổi kịp. Anh ta vác trên vai thanh gươm treo lủng lẳng một cái bọc dáng chừng đựng quần áo - hình như quần, áo khoác và vài ba chiếc sơmi, - trên người mặc một chiếc áo ngắn bằng nhung có những lát xa tanh, sơ mi khoác ngoài, đi bít tất lụa và giầy vuông kiểu cung đình. Anh ta trạc mười tám, đôi mươi, nét mặt tươi tỉnh, dáng điệu nhanh nhẹn. Vừa đi, anh ta vừa hát những bài dân ca cho quên mệt nhọc. Khi ba người đi ngang, anh ta vừa kết thúc một bài ca mà Chú em thuộc ngay, bài hát như sau:

Túng tiền nên phải ra đi
Túi mà rủng rỉnh thiết gì binh đao

Đôn Kihôtê là người đầu tiên lên tiếng hỏi:

- Hỡi chàng trẻ bảnh trai, trông anh thật nhẹ nhàng thảnh thơi. Anh đi đâu vậy? Nếu không có gì phiền, hãy cho chúng tôi được biết.

Chàng trai đáp:

- Tôi nhẹ nhành thảnh thơi là do nóng nực và nghèo túng. Tôi đi đâu ư? Tôi đi đánh giặc.

- Sao lại nghèo túng? Đôn Kihôtê hỏi. Do nóng nực thì có thể.

- Thưa ngài, chàng trai đáp, tôi có mang trong bọc vài chiếc quần nhung để mặc cùng với tấm áo ngắn này; nếu mặc đi đường, sợ hỏng, vào tỉnh không có quần diện, mà tiền thì không có để mua. Vì thế để được thoáng mát, tôi cứ mặc thế này cho tới khi gặp các đại đội bộ binh đóng cách đây khoảng mười hai dặm để nhập ngũ. Khi đó, tôi sẽ được trang bị đầy đủ để đi tới bến tàu, nghe nói là ở Cartahêna. Tôi muốn thờ phụng Đức vua và muốn phục vụ Người trong chiến tranh chứ không muốn hầu hạ những kẻ ngu xuẩn trong triều nữa.

- Nhưng chắc ngài cũng đã được hưởng lương cao bổng hậu chứ? Chú em hỏi.

Chàng trai đáp:

- Nếu như tôi phụng sự một viên đại thần hoặc một nhân vật quan trọng nào, chắc chắn là có rồi. Phục vụ những ông chủ tốt mới được như vậy; từ thân phận tôi đòi, ta có thể trở thành thiếu úy, đại úy hoặc được hưởng bổng lộc kha khá. Khốn thay, tôi chỉ những kẻ chạy theo địa vị và hãnh tiến, trả lương chết đói, hồ cứng một cái cổ áo đã hết nửa tiền. Họa chăng có phép mầu thì số phận một gã thị đồng mới khấm khá lên đôi chút.

- Xin hỏi anh bạn, Đôn Kihôtê lên tiếng, có lẽ nào trong những năm phục vụ thiên hạ, anh bạn không được cấp một bộ chế phục [SUP]2[/SUP]?

- Họ có cho tôi hai bộ, gã thị đồng đáp, song cũng giống như với kẻ phá giới trước kia làm lễ thề nguyền, người ta tước quần áo tu hành và trả lại quần áo cũ, những ông chủ của tôi, - sau khi đã giải quyết xong công việc trong triều - trở về nhà trả lại cho tôi bộ quần áo cũ và thu hồi những bộ chế phục mà họ đã cấp cho, chỉ vì họ sính phô trương hình thức.

- Thật là bủn xỉn, Đôn Kihôtê kêu lên; tuy nhiên anh bạn hãy mừng là đã rời bỏ cung đình với một ý định hay ho như vậy. Trên đời này không có gì danh giá và lợi ích hơn là trước tiên phụng sự Chúa, sau đến Đức vua của chúng ta, đặc biệt bằng nghề võ; như tôi đã nói, nếu nghề này không mang lại lắm tiền bạc hơn nghề văn, ít ra nó cũng mang lại nhiều vinh quang hơn. Mặc dù nghề văn đào tạo ra nhiều quan lại đại thần hơn nghề võ, quan võ vẫn có một cái gì đó trội hơn quan văn, cái gì đó chính là vẻ uy nghi hùng tráng khiến ông quan võ vượt lên trên tất cả những người khác. Tôi muốn anh nhớ kỹ điều tôi sắp nói ra đây, điều này rất có lợi, khiến cho mọi công việc của anh trở nên nhẹ nhàng; đừng bao giờ nghĩ tới chuyện chẳng lành có thể xảy đến. Xấu nhất là chết, nhưng nếu chết vinh thì chết lại đẹp nhất. Có lần người ta hỏi Huliô Xêdar, vị hoàng đế La Mã dũng cảm, cái chết nào đẹp nhất, ông đáp: "Chết mà không nghĩ tới, chết đột ngột, chết không biết trước". Mặc dù câu trả lời này là của một kẻ dị giáo, không hề biết tới Chúa, nhưng ông ta đã nói đúng vì chết như vậy là không bị một tình cảm nào chi phối. Giả sử anh bị chết trong cuộc giao tranh đầu tiên, hoặc bị trúng đạn hoặc bị trúng mìn, điều đó có gì quan trọng đâu nào. Chết cũng vẫn là chết, và thế là xong. Theo Têrenxiô, người lính thà chết ngoài mặt trận còn hơn sống trong lẩn trốn. Và người quân nhân càng chấp hành tốt mệnh lệnh của cấp trên và những người chỉ huy càng được nổi tiếng. Con nên nhớ rằng đối với người lính, thuốc súng thơm hơn xạ hương, và nếu ta trọn đời theo đuổi nghề nghiệp vinh quang đó thì đến đầu bạc răng long, mình đầy thương tích, dù què cụt, ta vẫn được tiếng thơm, không một sự nghèo túng nào có thể làm phai nhạt. Vả chăng, đã có lệnh nuôi dưỡng chăm sóc những quân nhân già và phế binh. Thật chẳng hay ho gì nếu người ta đối xử với họ như những kẻ vẫn thường trả tự do cho nô lệ da đen một khi người này già yếu, kiệt sức: bị đuổi ra khỏi nhà chủ dưới danh nghĩa được giải phóng, họ trở thành nô lệ của sự đói nghèo, và chỉ cái chết mới giải phóng được họ mà thôi. Tôi nói thế thôi, bây giờ anh bạn hãy leo lên ngồi trên mông con ngựa của tôi. Ta cùng đi đến quán trọ rồi cùng ăn với nhau một bữa; sáng mai, anh sẽ tiếp tục lên đường. Chúa sẽ phù hộ cho anh gặp may mắn, cần gì được nấy.

Gã thị đồng từ chối không ngồi mông ngựa nhưng nhận lời cùng ăn một bữa với Đôn Kihôtê tại quán trọ. Người ta đồn rằng, nghe chủ nói xong, Xantrô đã lẩm bẩm một mình như sau: "Ông chủ của mình thật kỳ lạ! Có lẽ nào một con người vừa thốt ra những câu chí lý như vậy lại bảo là đã nhìn thấy những chuyện nhảm nhí đến mức không thể tưởng tượng được dưới hang Môntêxinôx! Thôi cũng đành vậy, mặc cho ông ấy nói".

Xẩm tối, họ tới quán trọ. Thấy chủ không gọi là lâu đài như mọi lần mà gọi đích danh là lữ quán, Xantrô lấy làm mừng lắm. Vừa bước vào, Đôn Kihôtê hỏi ngay chủ quán về người chở giáo mác; chủ quán đáp là bác ta đang buộc la trong chuồng. Chú em và Xantrô cũng dắt lừa vào buộc trong chuồng, dành cho Rôxinantê cái máng ăn và chỗ nghỉ tốt nhất.


--------------------------------
1.Dưới thời Xervantex, có nhiều ẩn sĩ giả, chúng là bọn lưu manh chuyên nghiệp, có nuôi hầu gái trong nhà
2.Quần áo của các đầy tớ nhà quyền quý



Phù...dài quá, đọc và post hết cả hơi. May quá, hôm nay HẾT rồi!
 
Top