Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes

5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes


Chương XXXVII


KỂ TIẾP CÂU CHUYỆN VỀ NÀNG CÔNG CHÚA MICÔMICÔNA NỔI TIẾNG CÙNG NHỮNG SỰ VIỆC LÝ THÚ KHÁC



Nghe xong, Xantrô cảm thấy lòng đau như cắt; thế là bao nhiêu hy vọng công hầu của bác đã tan ra mây khói, nàng công chúa xinh đẹp Micômicôna hóa thành cô gái Đôrôtêa, tên khổng lồ hóa thành Đôn Phernanđô, còn chủ bác vẫn đang ngủ kỹ không hề quan tâm đến mọi việc xảy ra. Đôrôtêa vẫn ngờ rằng hạnh phúc vừa đến với mình chỉ là một giấc chiêm bao, Carđêniô cũng nghĩ như vậy và Luxinđa cũng chung một ý nghĩ với Carđêniô. Đôn Phernanđô cảm tạ Thượng đế đã ban phúc và gỡ cho chàng thoát ra khỏi một tình trạng vô cùng rối ren có thể làm chàng mất uy tín và cả linh hồn. Tất cả mọi người trong quán trọ đều hởi lòng hởi dạ vì thấy những vấn đề vô cùng rắc rối, tưởng đâu vô kế khả thi, đã kết thúc một cách đẹp đẽ. Ông Cha xứ khôn ngoan nêu bật kết quả đã đạt được và chúc mừng sự thành công của mọi người. Nhưng bà chủ quán là người vui sướng hả hê nhất vì Carđêniô và Cha xứ đã hứa sẽ bồi thường tất cả những thiệt hại do Đôn Kihôtê gây ra. Riêng Xantrô Panxa buồn thỉu buồn thiu; bác mang bộ mặt rầu rĩ vào gặp chủ lúc này vừa tỉnh giấc; bác nói:

- Ngài Mặt Buồn ơi, ngài cứ việc ngủ đi không phải quan tâm đến việc giết tên khổng lồ hoặc trao lại ngôi báu cho cô công chúa kia nữa; mọi việc đã được giải quyết xong rồi.

- Ta cũng nghĩ như vậy, Đôn Kihôtê đáp; ta đã chạm trán với tên khổng lồ trong một cuộc chiến đấu tưởng đâu khủng khiếp nhất trong suốt đời ta, và bằng một nhát gươm, sạt! ta đã chém văng đầu tên đó xuống đất, máu phun ra như nước sông vậy.

- Như rượu vang đỏ thì đúng hơn, Xantrô đáp. Nếu ngài hãy còn mơ hồ, tôi xin thưa để ngài biết rằng tên khổng lồ bị giết là một bao rượu bị chọc thủng, máu là gần một trăm lít rượu ở trong cái bao đó, còn cái đầu bị chém đứt là... là cái đĩ mẹ đã đẻ ra tôi. Thôi, xếp hết những chuyện đó lại!

- Mi nói gì vậy, thằng rồ kia? Đôn Kihôtê hỏi vặn. Mi còn bộ óc không?

- Ngài hãy trở dậy, Xantrô nói, rồi ngài sẽ thấy kết quả những hành động hay ho của ngài và số tiền chúng ta phải trả đền; ngài sẽ thấy nàng công chúa hóa thành một cô gái bình thường tên là Đôrôtêa, và còn những chuyện khác nữa khiến ngài phải kinh ngạc nếu như ngài vỡ lẽ ra.

- Ta không có gì phải kinh ngạc cả, Đôn Kihôtê đáp; nếu anh còn nhớ, lần trước nghỉ tại đây, ta đã nói với anh rằng mọi sự việc xảy ra trong cái quán trọ này đều có bàn tay của pháp sư phù phép, cho nên không có gì lạ nếu lần này lại có những chuyện như vậy.

- Tôi sẽ tin vào lời ngài, Xantrô nói, nếu như trước kia tôi có bị pháp sư phù phép tung lên vật xuống; nhưng không, việc đó hoàn toàn có thật vì chính mắt tôi nhìn thấy lão chủ quán ở đây cầm một đầu khăn trải giường lăng mạnh tôi lên trời, mồm cười khanh khách. Tuy ngu đần và là kẻ có tội, tôi cũng biết kẻ hay người dở, và tôi nghĩ rằng trong chuyện này chẳng có pháp sư nào phù phép cả mà chỉ có những trận đòn nhừ tử cùng những tai bay vạ gió.

- Thôi được, Chúa sẽ cứu vãn tình thế này, Đôn Kihôtê nói. Bây giờ hãy lấy quần áo cho ta mặc để ta ra ngoài đó xem sao; ta muốn được nhìn những sự việc cùng những biến đổi như anh vừa nói.

Xantrô đưa quần áo cho chủ mặc. Trong khi đó, Cha xứ kể cho Đôn Phernanđô và bạn bè của chàng về những hành động rồ dại của Đôn Kihôtê, về mưu kế cha đã dùng để đưa chàng hiệp sĩ ra khỏi đảo Nghèo, nơi chàng đã sống vì nghĩ mình bị tình nương hắt hủi. Cha xứ không quên thuật lại những chuyện phiêu lưu mạo hiểm của Đôn Kihôtê mà Cha xứ đã được Xantrô cho biết, khiến mọi người vừa kinh ngạc vừa buồn cười vì thấy Đôn Kihôtê mắc phải một loại bệnh điên kỳ lạ nhất. Cha xứ nói tiếp:

- Bây giờ, chuyện riêng của Đôrôtêa đã được thu xếp ổn thỏa và nàng không thể tiếp tục đóng vai công chúa được nữa; ta phải tìm cách khác để đưa Đôn Kihôtê về làng vậy.

Carđêniô nhận vẫn đóng vai cũ và cử Luxinđa thay thế vai của Đôrôtêa.

- Chớ, Đôn Phernanđô nói, chớ làm thế. Tôi muốn để Đôrôtêa đóng tiếp vai của mình. Từ đây về nhà Đôn Kihôtê không còn xa lắm và tôi vui lòng được đóng góp vào việc chữa chạy cho chàng.

- Từ đây về nhà chàng không quá hai ngày đường, Cha xứ nói.

- Dù có hơn thế nữa, Đôn Phernanđô đáp, tôi cũng vui lòng đi để đánh đổi lấy một việc làm hữu ích.

Lúc này, Đôn Kihôtê ở trong buồng bước ra, vũ khí đầy người, đầu đội chiếc mũ sắt méo mó của Mambrinô, tay cầm khiên, tay xách giáo. Sự xuất hiện kỳ lạ đó khiến Đôn Phernanđô và đám người đi theo chàng phải kinh ngạc, kinh ngạc về khuôn mặt dài ngoằng, khô khẳng và vàng ệch, vì những vũ khí không tương xứng với nhau, vì thái độ khoan thai của chàng; họ lặng yên chờ chàng lên tiếng trước. Đôn Kihôtê nhìn vào Đôrôtêa rồi nói với một thái độ nghiêm trang, từ tốn:

- Công nương xinh đẹp, giám mã của tôi cho tôi biết rằng nàng bây giờ đã thất cơ lỡ vận vì từ địa vị một hoàng hậu cao quý xưa nay, nàng bỗng chốc biến thành một cô gái bình thường. Nếu đó là mệnh lệnh của phụ thân nàng, một ông vua có phép tài nghĩ rằng tôi sẽ không giúp đỡ nàng được chu đáo, tôi xin nói rằng ông ta đã không biết gì cả và ít am hiểu về sách kiếm hiệp giang hồ. Nếu ông ta dành nhiều thời giờ để đọc đi đọc lại những sách đó như tôi đã làm, ông ta sẽ thấy rằng trong mỗi đoạn đều có những hiệp sĩ tuy tiếng tăm không lừng lẫy bằng tôi nhưng vẫn làm được những việc còn khó khăn hơn nhiều. Giết một tên khổng lồ nhãi nhép có gì là khó dù nó có ngạo mạn đến mấy chăng nữa. Tôi mới nghênh chiến với nó trong vài hiệp, thế mà... Nhưng thôi, tôi không muốn nói nữa để người ta đừng bảo là tôi nói khoác. Thời gian sẽ khám phá ra mọi chuyện và đến một lúc nào đó sẽ nói thay tôi.

- Ông đã nghênh chiến với hai bao rượu chứ không phải với tên không lồ đâu, chủ quán nói.

Đôn Phernanđô ra lệnh cho chủ quán không được ngắt lời; Đôn Kihôtê nói tiếp:

- Tóm lại, thưa công nương cao quý và bất hạnh, nếu vì lý do tôi vừa nói mà cha nàng đã hóa phép khiến nàng biến đổi như vậy, tôi xin nàng chớ tin; không một gian nguy nào trên đời có thể cản trở được thanh kiếm của tôi, thanh kiếm đã phạt băng đầu kẻ thù của nàng xuống đất và sẽ đặt vương miện lên đầu nàng tức thời.

Nói xong, Đôn Kihôtê chờ nàng công chúa trả lời. Biết ý Đôn Phernanđô muốn mình đóng tiếp vai kịch cho tới khi đưa được Đôn Kihôtê về làng, Đôrôtêa đáp với một vẻ vừa duyên dáng vừa nghiêm trang:

- Thưa hiệp sĩ Mặt Buồn dũng cảm, kẻ nào nói với chàng rằng thiếp đã thay hình đổi dạng, kẻ đó nói sai. Trước kia cũng như giờ đây, thiếp vẫn là một. Quả thật đã có một vài sự kiện may mắn làm thay đổi cuộc đời của thiếp và mang lại cho thiếp niềm hạnh phúc lớn nhất mà thiếp vẫn ước ao; tuy nhiên, thiếp vẫn là con người trước kia và thiếp vẫn nghĩ rằng cánh tay dũng mãnh vô địch của chàng rất cần cho thiếp. Bởi vậy thưa hiệp sĩ, xin chàng hãy trả lại danh dự cho người cha, đã sinh ra thiếp và hãy coi cha thiếp như một con người thông thái khôn ngoan vì, bằng sự hiểu biết của mình, người đã tìm ra một biện pháp giản đơn và chắc chắn để giải thoát nỗi bất hạnh cho thiếp. Thiếp nghĩ rằng ngoài chàng ra, chỉ có cha thiếp mới mang lại hạnh phúc cho thiếp như ngày nay. Những điều thiếp nói hoàn toàn có thật và các vị có mặt ở đây có thể làm chứng cho thiếp. Như vậy là ta chỉ còn việc lên đường và sáng mai ta sẽ ra đi vì hôm nay đã muộn rồi. Về kết quả công việc sắp tới của thiếp, thiếp xin trông cậy vào Chúa và vào lòng dũng cảm của chàng.

Nghe nàng Đôrôtêa khôn ngoan nói xong, Đôn Kihôtê đùng đùng nổi giận quay lại bảo Xantrô:

- Tên Xantrô nhãi nhép kia, mi là kẻ súc sinh xấu xa nhất trên đất Tây Ban Nha này. Tên gian ngoan kia, phải chăng mi vừa nói với ta rằng công chúa đây đã biến thành một cô gái tên là Đôrôtêa, rằng cái đầu tên khổng lồ mà ta đã chém đứt là cái đĩ mẹ đã sinh ra mi, cùng những lời lẽ quàng xiên khác, khiến ta chưa bao giờ phải hoang mang bối rối như vậy? Ta thề có Chúa... (Đôn Kihôtê ngửa mặt lên trời nghiến chặt hai hàm răng)... ta muốn băm vằm mổ xẻ mi ra để làm răn từ nay về sau cho tất cả những tên giám mã dối giả của các hiệp sĩ giang hồ ở trên đời này.

- Xin ngài hãy bình tâm lại, Xantrô đáp; có thể là tôi đã nhầm khi nói về sự thay đổi của công chúa Micômicôna, nhưng về cái đầu tên khổng lồ hay nói đúng hơn, về những bao rượu bị chọc thủng và rượu đỏ nom như máu, lạy Chúa! tôi không nhầm đâu vì những bao rách còn kia, ngay trên đầu giường của ngài, và rượu đã đổ ra làm thành một cái hồ trong buồng ngài. Thời gian sẽ trả lời ngài; tôi muốn nói là rồi đây ngài sẽ rõ khi nào ông chủ quán đòi tiền bồi thường. Ngoài ra, tôi lấy làm mừng thấy công chúa vẫn là công chúa vì tôi vẫn có phần vào đấy.

- Nếu vậy thì anh chỉ là đồ ngốc thôi, Đôn Kihôtê nói; đừng trách ta đã quá nặng lời và cũng không nên nhắc tới chuyện ấy nữa.

- Phải, không nên nhắc tới nữa, Đôn Phernanđô nói. Ta hãy làm theo lời công chúa, ngày mai lên đường vì bây giờ đã muộn. Đêm nay, chúng ta có thể trò chuyện vui vẻ với nhau, rồi sớm mai chúng ta sẽ đi theo ngài Đôn Kihôtê vì chúng ta muốn được chứng kiến những chiến công lẫy lừng chưa từng có mà ngài sẽ lập nên trong sự nghiệp vĩ đại của ngài.

- Chính tôi mới là kẻ đi theo để phụng sự các ngài, Đôn Kihôtê đáp. Tôi xin cảm tạ các ngài đã cho phép tôi làm việc đó và đã có những ý nghĩ tốt lành về tôi. Tôi sẽ cố gắng hành động sao cho khỏi phụ lòng các ngài dù có phải hy sinh tính mạng hoặc hơn thế nữa nếu có thể.

Đôn Kihôtê và Đôn Phernanđô còn đang ân cần trao đổi với nhau bỗng đâu có một người khách bước vào quán khiến họ ngừng bặt. Y phục của người khách lạ chứng tỏ đây là một tín đồ Kitô giáo mới từ xứ Arập tới: anh ta mặc một chiếc áo nịt bằng dạ màu xanh da trời, vạt ngắn, tay ngắn và không có cổ, quần dạ và mũ cũng màu da trời, chân đi giày ủng, ngực đeo một cái dải lủng lẳng một thanh gươm hình cong của người Môrô 2. Một người đàn bà ăn vận theo kiểu Arập cưỡi lừa theo sau, mặt che kín, đầu đội mũ gấm, mình khoác một chiếc áo dài suốt từ vai tới chân. Người đàn ông nom tráng kiện khôi ngô, tuổi ngoài bốn mươi, nước da hơi nâu, đôi ria mép dài và bộ râu cằm rất bảnh bao, tóm lại, nếu người đó có quần áo sang trọng, chắc không ai dám bảo là người tầm thường. Khách mới tới hỏi thuê một buồng, và khi nghe chủ quán đáp là không còn buồng nào nữa thì xịu mặt chạy tới đỡ người đàn bà mặc theo kiểu Arập xuống đất. Luxinđa, Đôrôtêa, bà chủ quán, cô con gái bà ta và cô hầu Maritornêx lấy làm lạ về y phục của người đàn bà mới tới, xúm lại xem. Đôrôtêa, vốn niềm nở và ý tứ, đoán rằng hai người khách mới tới đang lo không có buồng, bèn lên tiếng:

- Xin chị chớ phiền lòng vì nơi đây thiếu tiện nghi; các quán trọ đều như vậy cả. Nhưng nếu chị vui lòng ở chung buồng với chúng tôi (vừa nói, Đôrôtêa vừa chỉ vào Luxinđa), có lẽ chị sẽ thấy rằng trong suốt cuộc hành trình tới giờ, không mấy khi chị được thù tiếp chu đáo như ở đây.

Người con gái che mặt không đáp; đang ngồi, nàng đứng dậy hai tay bắt chéo để lên ngực, đầu cúi xuống, toàn thân ngả ra đằng trước ngỏ ý cám ơn. Thấy nàng lặng yên, mọi người đoán rằng nàng là người Môrô nên không nói được tiếng của những người theo đạo Kitô. Lúc này, Người Tù 3 trở vào sau khi đã đi thu xếp công việc; thấy đám phụ nữ đang xúm quanh người bạn đồng hành của mình, chàng ta vội đỡ lời:

- Thưa các bà, cô gái này biết rất ít tiếng của chúng ta và chỉ nói được tiếng của dân tộc mình, vì vậy nên cô ta không trả lời những câu hỏi của các bà được.

Luxinđa đáp:

- Chúng tôi không hỏi gì cô ta cả mà chỉ mời vào nghỉ trong buồng với chúng tôi đêm nay thôi. Trong hoàn cảnh quán trọ ở đây, chúng tôi xin cố gắng tiếp đãi chu đáo với tất cả tấm lòng đối với những người khách dị tộc, đặc biệt đó lại là một người đàn bà.

- Thưa cô nương, Người Tù nói, thay mặt cho cô ta và nhân danh cá nhân, tôi xin được hôn tay cô nương; tôi đánh giá cao sự giúp đỡ của cô nương vì trong hoàn cảnh của chúng tôi, được một người cao quý như cô nương giúp đỡ cho thì thật là quý hóa quá.

- Xin hỏi ngài, Đôrôtêa lên tiếng, cô gái là tín đồ Kitô giáo hay là người Môrô. Y phục và sự yên lặng của cô ta buộc chúng tôi phải nghĩ rằng cô là người Môrô, trái với lòng mong muốn của chúng tôi.

- Về y phục và thể xác thì cô ta là người Môrô nhưng về linh hồn, cô ta là một tín đồ Kitô giáo thực thụ vì đó là điều ước mong lớn nhất của cô ta.

- Vậy ra cô ta chưa được làm phép thông công ư? Luxinđa hỏi.

- Từ khi rời tổ quốc và quê hương là Arhêl 4, cô ta không có dịp nào để làm việc đó cả. Cho tới nay, vì cũng chưa có gì cấp bách có thể nguy tới tính mạng nên hẵng cứ để cho cô ta được biết tất cả những nghi lễ của Giáo hội đã, rồi sẽ làm phép thông công sau. Chắc rằng Chúa sẽ giúp cô ta sớm được trở lại đạo với tất cả lễ tiết tương xứng với một con người có những đức tính tốt đẹp hơn bộ y phục đang mặc trên người.

Những lời nói đó khiến mọi người đều muốn biết cô gái Môrô và Người Tù mới tới là ai; tuy nhiên không ai dám lên tiếng hỏi vì thấy lúc này cần thu xếp chỗ nghỉ cho họ hơn là hỏi về lý lịch của họ. Đôrôtêa cầm tay cô gái kéo xuống ngồi cạnh mình và bảo cô bỏ cái mạng che mặt ra. Cô gái nhìn Người Tù như để hỏi xem Đôrôtêa nói gì và mình phải làm gì. Người Tù đáp bằng tiếng Arập rằng mọi người muốn cô tháo mạng ra và bảo cô ta hãy làm theo. Nghe nói vậy, cô gái bỏ mạng xuống để lộ một khuôn mặt tuyệt đẹp, Đôrôtêa cho là còn đẹp hơn cả Luxinđa và Luxinđa cũng nghĩ là đẹp hơn cả Đôrôtêa, những người khác thì cho rằng chỉ cô gái Môrô này mới có thể sánh ngang Đôrôtêa và Luxinđa được, thậm chí có người còn thấy cô ta có đôi nét trội hơn. Xưa nay, sắc đẹp vẫn thu hút trái tim con người, cho nên lúc này ai cũng muốn chăm nom săn sóc cô gái Môrô xinh đẹp.

Đôn Phernanđô yêu cầu Người Tù cho biết tên cô gái, Người Tù đáp:

- Cô ta là Lêla Dôraiđa 5.

Như thể đoán được câu chuyện giữa hai người, cô gái vội đáp với một vẻ vừa buồn phiền vừa duyên dáng:

- Không, không Dôraiđa; Maria, Maria! - ý muốn nói rằng tên mình là Maria chứ không phải Dôraiđa.

Giọng nói dịu dàng của cô gái khiến một số người phải rớt nước mắt, đặc biệt là mấy người phụ nữ vốn dịu dàng và dễ mủi lòng. Luxinđa ôm chầm lấy cô ta và nói:

- Có, có, Maria, Maria!

Cô gái đáp:

- Có, có, Maria; Dôraiđa, macanhê (macanhê có nghĩa là không).

Lúc này, trời đã tối. Theo lệnh của những người cùng đi với Đôn Phernanđô, chủ quán ra tay chuẩn bị một bữa ăn thật sang. Vì trong quán không có loại bàn tròn hoặc vuông nên mọi người phải ngồi vào một cái bàn dài và hẹp vẫn dùng cho gia nhân đầy tớ các nhà quan. Mặc dù Đôn Kihôtê từ chối, họ mời chàng ngồi vào ghế chủ tọa ở đầu bàn; chàng hiệp sĩ yêu cầu công chúa Micômicôna ngồi bên cạnh vì chàng là người bảo vệ. Luxinđa, Dôraiđa, Cha xứ và bác phó cạo ngồi tiếp theo và trước mặt họ là Đôn Phernanđô, Carđêniô, Người Tù và các hiệp sĩ khác. Mọi người ăn uống rất vui vẻ; họ càng phấn khởi khi thấy Đôn Kihôtê ngừng tay và cất tiếng; lúc này, chàng hiệp sĩ bỗng nảy ra một ý nghĩ tương tự như trước đây khi ngồi ăn với những người chăn dê khiến chàng đã đọc một bài diễn văn tràng giang đại hải, chàng nói:

- Thưa các ngài, quả thật chúng ta phải công nhận rằng những người hành nghề hiệp sĩ giang hồ được chứng kiến những sự kiện vĩ đại và ly kỳ chưa từng thấy. Nếu không, xin hỏi: giả sử có kẻ nào trên đời bước vào trong lâu đài đây và nhìn thấy chúng ta ngồi ăn uống với nhau như thế này, liệu kẻ đó có đoán được chúng ta là ai không? Có ai dám bảo rằng tiểu thư ngồi bên cạnh tôi là bà hoàng vĩ đại mà tất cả chúng ta đều biết, còn tôi là hiệp sĩ Mặt Buồn được người đời ca tụng không? Giờ đây, không còn điều gì phải nghi ngờ nữa, nghề hiệp sĩ giang hồ vượt lên trên tất cả các nghề khác mà người đời đã nghĩ ra, và nghề đó càng nguy hiểm bao nhiêu thì ta càng phải quý trọng nó bấy nhiêu. Những người nào nói rằng nghề văn hơn nghề võ hãy mau mau xéo ngay; dù họ là ai, tôi cũng sẽ bảo thẳng vào mặt rằng họ nói mà chẳng hiểu mình nói gì; họ thường dựa vào lập luận sau đây: công việc trí óc khó hơn công việc chân tay, mà làm nghề võ chỉ dùng đến chân tay; họ coi nghề võ như một nghề ăn no vác nặng, chỉ cần có sức lực là đủ; họ cho rằng nghề nghiệp của chúng tôi, tức là nghề võ, không bao gồm những hoạt động quân sự đòi hỏi tới trí tuệ; hoặc giả họ nghĩ rằng một quân nhân có nhiệm vụ điều khiển một đạo quân hay bảo vệ một thành trì đang bị vây hãm chỉ cần có sức lực, không cần mưu trí gì cả. Liệu sức mạnh của thể xác có phát hiện được những ý đồ, kế hoạch, mưu mô của đối phương và những khó khăn do chúng gây ra không? Có đủ để ngăn chặn được tai họa không? Muốn làm được những việc đó phải có trí tuệ, thể xác không dính dáng gì tới. Như vậy là nghề võ cũng cần tới trí tuệ như nghề văn. Bây giờ ta thử xem giữa hai bộ óc của một văn nhân và của một quân nhân, bộ óc nào làm việc nhiều hơn; muốn vậy phải nhìn vào cái đích cuối cùng mà mỗi bên theo đuổi vì rằng đích càng cao quý bao nhiêu thì ý đồ ban đầu càng đáng quý trọng bấy nhiêu. Mục đích cuối cùng của văn chương... (tôi không nói tới văn chương trong Thánh kinh nhằm giải thoát linh hồn, một mục đích cao cả không gì so sánh nổi)... nhằm xác định rõ quyền thưởng phạt, trao trả cho mỗi người những cái gì thuộc về họ và duy trì những luật lệ hay ho. Đó là một mục đích tốt đẹp và cao quý đáng được ca tụng. Nhưng nghề võ còn đáng được ca tụng nhiều hơn vì mục đích cuối cùng của nó là hòa bình, điều mong ước lớn nhất của người đời. Bởi vậy, những tin mừng đầu tiên mà loài người trên trái đất nhận được là khi các thiên thần hát vang trong không trung trong cái đêm trở thành ngày của chúng ta, họ hát rằng "Sáng danh Chúa cả trên các tầng lời và bằng an cho mọi người ngay lành dưới thế". Vị chúa tể muôn loài đã dạy bảo các tông đồ thân tín khi bước chân vào nhà ai phải hỏi như sau: "Cầu cho nhà ta được bằng an"; Người thường nói với các tông đồ: "Ta mang đến cho các người bằng an, ta để lại cho các người bằng an, ta cầu cho các người được hưởng bằng an", coi đó như một tặng phẩm quý giá, thiếu nó thì dù ở trên trời hay dưới trần cũng đều không thể có hạnh phúc được. Sự bằng an đó chính là sự kết thúc của chiến tranh, mà khi ta nói chiến tranh tức là nói đến nghề võ. Ta đã công nhận với nhau rằng sự kết thúc của chiến tranh có nghĩa là bằng an và mục đích cuối cùng của nghề võ cao hơn của nghề văn; bây giờ ta hãy phân tích xem giữa một văn nhân và một người làm nghề võ, ai phải vận dụng tới chân tay nhiều hơn.

Đôn Kihôtê lý luận rất chặt chẽ và dùng những câu chữ rất chính xác khiến trong đám thính giả của chàng, không ai dám bảo chàng điên; hơn nữa, đa số những người nghe đều là những hiệp sĩ rất gần gũi với nghề võ nên họ đều thích thú lắm. Đôn Kihôtê nói tiếp:

- Trước hết, tôi xin kể ra đây những công việc và những khó khăn của một thư sinh: khó khăn chủ yếu của anh ta là sự nghèo khó tuy rằng không phải anh nào cũng nghèo cả; ở đây, tôi muốn nêu lên tình huống xấu nhất: khi nói rằng anh ta phải chịu đựng sự nghèo khó có nghĩa là không còn gì hơn để nói lên sự bất hạnh của anh ta nữa vì một người nghèo khó không làm gì có hạnh phúc. Sự nghèo khó gây ra hoặc đói, hoặc rét, hoặc thiếu thốn, có khi là tất cả cộng lại. Tuy nhiên, anh ta không đến nỗi không có gì để ăn mặc dù phải ăn chậm hơn những người khác hoặc ăn thừa của nhà giàu. Đó là nỗi khổ cực to lớn nhất của anh thư sinh mà anh ta gọi là gõ cửa ăn xin. Mặt khác, anh ta còn có thể nhờ đống lửa hoặc lò sưởi của người khác để sưởi ấm người đôi chút và đêm đến, anh ta cũng còn có chỗ che gió che mưa. Tôi không muốn đi vào những chi tiết như thiếu áo quần giày dép, ăn mặc phong phanh, hoặc ngược lại có khi gặp may được đánh một bữa no say. Trên con đường mà tôi vừa tả, một con đường gian khổ và gay go, chàng thư sinh vừa đi vừa ngã, đứng lên đi rồi lại ngã, nhưng cuối cùng cũng được toại nguyện. Sau khi bình yên vượt qua những bãi đá ngầm, có nhiều anh gặp vận, nhẹ bước thang mây, ngồi trên ngai vàng trị vì thiên hạ, đang đói rét thành no ấm, đang rách rưới thành bảnh bao, đang chiếu manh thành chăn ấm đệm êm, một phần thưởng xứng đáng với công sức anh ta đã đổ ra. Thế nhưng nếu ta bắc cân lên, công sức của một chàng thư sinh không thấm vào đâu so với công sức mà một chiến binh phải bỏ ra, như tôi sẽ chứng minh sau đây.

--------------------------------
1Một dân tộc ở phía bắc châu Phi.
2Tức là người khách đàn ông mới tới.
3Tức Angiê, thủ đô Angiêri ngày nay.
4Tiếng Arập Lêla đặt trước tên một người đàn bà chỉ người đó thuộc dòng họ quý phái.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes


Chương XXXVIII


BÀI DIỄN VĂN LÝ THÚ CỦA ĐÔN KIHÔTÊ VỀ NGHỀ VÕ VÀ NGHỀ VĂN


Đôn Kihôtê nói tiếp:

- Chúng ta đã bắt đầu bằng phân tích sự nghèo khó của một thư sinh cùng những hậu quả của nó; bây giờ ta thử xem một người lính có sung túc gì hơn không. Chúng ta sẽ thấy rằng trong số những người nghèo khó, không ai nghèo hơn anh lính vì anh ta sống bằng đồng lương chết đói trả chậm hoặc không trả, hay bằng cách đánh đổi tính mạng và lương tâm lấy những của cải do chính tay mình cướp bóc. Có những anh nghèo túng đến nỗi chỉ có độc chiếc áo da nát như băm để mặc ngày thường cũng như ngày hội. Mùa đông tháng giá, giữa nơi đồng không mông quạnh, để chống lại thời tiết khắc nghiệt, anh ta chỉ biết hà hơi từ trong bụng ra cho ấm người, nhưng vì bụng trống rỗng cho nên theo lẽ tự nhiên hơi thở ra cũng lạnh toát. Mong sao trời chóng tối để anh ta có thể ngả lưng trên giường lấy lại sức sau một ngày cực nhọc. Cái giường mới rộng làm sao! Mặt giường là cả mặt đất, tha hồ cho anh ta lăn lộn, xoay ngang xoay dọc chẳng sợ mất chăn. Thế rồi ngày thăng quan tiến chức tới, đó là ngày anh ta đi chiến trận: người ta sẽ đội cho anh một cái mũ tiến sĩ làm bằng vải thưa để băng bó vết thương do một viên đạn xuyên qua thái dương hoặc làm anh què chân cụt tay. Nếu việc đó không xảy ra vì trời kia rủ lòng thương cho anh được sống sót nguyên vẹn, có thể anh sẽ vẫn nghèo khổ như trước, và cần phải có những cuộc đọ sức mới, những cuộc chiến đấu mới để kiếm được chút đỉnh nếu như anh ta toàn thắng trở về. Nhưng, nếu các ngài có quan tâm đến vấn đề này, các ngài sẽ nhận thấy rằng trong chiến tranh, kẻ được khen thưởng quá ít so với con số tử vong. Chắc chắn các ngài sẽ phải công nhận rằng không thể đem so sánh được vì số người chết thì nhiều, còn số người sống sót được khen thưởng không quá số trăm. Đối với các văn nhân, tất cả những điều nói trên đây đều đảo ngược lại. Họ chẳng phải vất vả gì lắm cũng đủ sống; thành thử người lính phải làm nhiều nhưng hưởng ít hơn. Tuy nhiên, người ta có thể trả lời rằng việc ban thưởng cho hai ngàn văn nhân dễ hơn cho ba vạn quân nhân vì đối với các văn nhân, có thể giao cho họ những công việc phù hợp với nghề nghiệp của họ, còn nếu ban thưởng đầy đủ cho các quân nhân thì những lãnh chúa của họ sẽ phải chịu thiệt thòi. Nhưng thôi, ta hãy gạt vấn đề này sang một bên vì nó quá rắc rối, không có đường ra. Bây giờ ta quay trở lại vấn đề đang bàn tức là nghề võ quan trọng hơn nghề văn. Vấn đề này còn đang được bàn cãi vì mỗi bên đều có lý lẽ của mình. Những người bênh vực nghề văn nói rằng nếu không có nghề văn, nghề võ không thể tồn tại được vì chiến tranh cũng có những luật lệ, do đó phải phụ thuộc vào nghề văn và các văn nhân. Trái lại những người bênh vực nghề võ đối lại rằng nếu không có nghề võ thì những luật lệ cũng không tồn tại được vì nhờ có nghề võ mà các quốc gia được bảo vệ, các vương quốc được duy trì, các thành phố được giữ gìn, đường xá được bảo đảm, biển khơi không còn bóng hải tặc; tóm lại nếu nghề võ không thịnh hành, các quốc gia, vương quốc, triều đình, thành phố, các đường bộ và đường biển sẽ chìm đắm trong sự hỗn loạn chừng nào chiến tranh còn tiếp diễn với tất cả sự tốn kém và tàn khốc của nó. Rõ ràng là một việc làm càng tốn công tốn sức bao nhiêu, càng phải được coi trọng bấy nhiêu. Một người muốn đạt tới đỉnh cao của nghề văn phải có thời gian, phải thức khuya dậy sớm, ăn đói mặc rách, chịu đựng những cơn nhức đầu đầy bụng và còn nhiều chuyện khác như tôi đã kể ra một phần ở trên kia. Nhưng một người muốn trở thành một quân nhân xuất sắc cũng phải chịu mọi gian khổ như một thư sinh nhưng ở mức rất cao không thể so sánh được bởi vì mỗi bước đi của anh ta đều có thể dẫn tới chỗ chết. Nỗi lo sợ cảnh thiếu thốn nghèo khổ của một anh học trò không giống nỗi lo sợ của một người lính bị vây hãm trong thành, đang đứng gác trên một trạm tiền tiêu bỗng đâu phát hiện thấy kẻ địch đặt mìn ngay dưới chân mình mà không dám rời vị trí để tránh một nguy hiểm gang tấc đang đe dọa. Anh ta chỉ có thể báo cáo cho người chỉ huy biết để có biện pháp phá mìn, còn bản thân vẫn phải giữ nguyên vị trí mặc dù trong bụng nơm nớp không biết khi nào mình bị hất tung lên trời để rồi sẽ rơi xuống vực thẳm một cách miễn cưỡng. Nếu như điều đó chưa lấy gì làm nguy hiểm lắm, tôi xin đưa ra một ví dụ khác để xem có nguy hiểm bằng hoặc hơn không: giữa biển cả, hai chiến thuyền gặp nhau trong một trận giáp lá cà, mũi thuyền hai bên sát vào nhau, muốn xông sang thuyền đối phương phải băng qua một lối rất hẹp ở mũi thuyền; trước muôn ngàn sứ giả của thần chết, trước những họng súng trái phá tua tủa của đối phương chĩa thẳng vào mình, chỉ lỡ sẩy chân là xuống thăm Thủy cung; người chiến binh, với lòng dũng cảm phi thường và với ý thức cao về danh dự đang sôi sục trong lòng, đã lao lên hứng đựng hỏa lực dày đặc, cố băng qua khoảng cách nhỏ hẹp để vượt sang thuyền địch. Điều đáng khâm phục nhất là khi một người vừa ngã xuống để rồi không bao giờ trở dậy nữa, người khác đã thế chân ngay, và nếu người này cũng lăn xuống biển cả sâu thẳm, tuy anh ta chưa chết hẳn đã lại có những người khác tiếp tục thế chân; những gương dũng cảm và gan dạ như vậy luôn luôn xuất hiện trong chiến tranh. Hạnh phúc thay những thế kỷ trước đây không biết tới sự khốc liệt của những khẩu pháo ma quỷ! Kẻ đã phát minh ra những vũ khí khủng khiếp ấy đáng phải xuống địa ngục để nhận phần thưởng. Vì sự phát minh quỷ quái đó mà một kẻ xấu xa hèn nhát có thể kết liễu cuộc đời của một chiến binh dũng cảm; giữa nơi trận tiền bừng bừng khí thế chiến đấu làm nức lòng dũng sĩ, một viên đạn lạc (có thể do một kẻ nhát gan hoảng sợ cả tiếng nổ của chính khẩu súng mình đang bắn) bỗng đâu cắt đứt và kết liễu cuộc đời của những con người đáng được hưởng một cuộc sống bền lâu. Một khi nghĩ tới điều đó, thâm tâm tôi, tôi cảm thấy ân hận vì đã bước vào nghề hiệp sĩ giang hồ ở một thời đại đáng ghét như thời đại chúng ta đang sống. Gian nguy tôi không sờn, nhưng tôi thấy ngài ngại khi nghĩ rằng một chút thuốc súng và một viên chì nhỏ sẽ làm tôi lỡ cơ hội sử dụng cánh tay dũng mãnh và lưỡi gươm để trở nên lừng lẫy tiếng tăm khắp nơi nơi. Nhưng thôi, tất cả đều do Thượng đế định đoạt; tôi sẽ cố gắng thực hiện, và bước đường tôi đi càng gian lao nguy hiểm hơn của các hiệp sĩ giang hồ trước kia bao nhiêu, tôi sẽ càng được người đời quý trọng bấy nhiêu.

Trong lúc mọi người đánh chén, Đôn Kihôtê làm một bài diễn văn dài dằng dặc, quên cả ăn uống mặc dù đôi lúc Xantrô Panxa có nhắc chàng hãy ăn đã, rồi sau đó muốn nói bao nhiêu cũng được. Những người có mặt lại càng ái ngại cho chàng vì thấy một người thông minh, hiểu biết rộng, nói năng rành rọt như vậy mà hễ động tới những chuyện nhảm nhí về hiệp sĩ đạo là đầu óc bỗng dưng trở nên u mê lú lẫn. Cha xứ nói rằng những lý lẽ mà Đôn Kihôtê đã đưa ra để bênh vực nghề võ là rất đúng, và tuy là một người đi theo nghề văn có đỗ đạt hẳn hoi, Cha hoàn toàn đồng ý với chàng.

Lúc này, mọi người đã ăn xong. Sau khi dọn dẹp bàn ghế, bà chủ quán, con gái và cô hầu Maritornêx thu dọn lại căn buồng của Đôn Kihôtê để cho mấy cô gái ngủ. Đôn Phernanđô yêu cầu Người Tù kể lại cuộc đời, chàng nói:

- Căn cứ vào những hiện tượng khi ngài thoạt bước chân vào quán trọ này cùng với cô gái Dôraiđa tôi đoán rằng cuộc đời của ngài phải ly kỳ và lý thú.

Người Tù đáp:

- Tôi xin vui lòng tuân lệnh, chỉ e câu chuyện kể ra đây không đáp ứng sự mong muốn của ngài mà thôi; tuy nhiên, vì không dám cưỡng lại ý ngài, tôi xin kể.

Cha xứ và mọi người xung quanh cũng ngỏ ý muốn nghe và cảm ơn Người Tù trước. Thấy tất cả đều yêu cầu, Người Tù nói:

- Các ngài hà tất phải yêu cầu thêm vì lệnh của ngài đây cũng đủ rồi. Bây giờ, xin hãy chú ý, các ngài sẽ được nghe một câu chuyện hoàn toàn thật, khác những câu chuyện tưởng tượng do những kẻ dối giả đã nặn óc bày đặt ra.

Nghe Người Tù nói vậy, mọi người thu xếp lại chỗ ngồi và hết sức giữ yên lặng. Thấy các thính giả ngồi yên chờ mình lên tiếng, bằng một giọng êm ái, Người Tù chậm rãi mở đầu câu chuyện như sau:
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes


Chương XXXIX

NGƯỜI TÙ TƯỜNG THUẬT LẠI CUỘC ĐỜI MÌNH CÙNG NHỮNG BIẾN CỐ ĐÃ XẲY RA



- Quê tôi thuộc miền núi Lêôn, cảnh vật đẹp mắt nhưng đồng tiền eo hẹp. Tuy nhiên, trong khắp vùng nghèo đói ấy, cha tôi được tiếng là có của và quả là cha tôi sẽ giàu có thật sự nếu như người biết giữ gìn gia sản không phá tán nó đi. Cái tính nết rộng rãi hoang toàng đó, cha tôi đã mắc phải từ hồi còn trẻ, khi người vào lính. Quân đội là một trường học ở đó anh hà tiện trở thành rộng rãi, anh rộng rãi trở thành hoang toàng; còn nếu có người lính nào tỏ ra bủn xỉn thì đó chỉ là những hiện tượng quái gở, hãn hữu mà thôi. Tính cha tôi vượt quá sự rộng rãi và xấp xỉ mức hoang toàng; điều này hoàn toàn bất lợi đối với một người đã có gia đình và con cái để nối nghiệp mình. Cha tôi có ba người con, đều là con trai và đã đến tuổi lập thân. Thấy không thể sửa được tính nết - cha tôi vẫn tự nói như vậy, - người muốn trừ bỏ nguyên nhân đã khiến người trở nên phung phí hoang toàng, đó là tự tước quyền sử dụng gia sản, một khi không có của cải trong tay thì ngay Alêhanđrô Đại Đế cũng trở nên keo kiệt. Một hôm, cha tôi gọi riêng ba anh em chúng tôi vào buồng và nói với chúng tôi đại để như sau: "Các con, để thấy rằng cha cầu mong những điều tốt lành cho các con, chỉ cần biết và nói rằng các con là con ta, nhưng muốn nghĩ rằng cha định làm hại các con, chỉ cần biết là cha đã vung tay quá trán phá tán cơ nghiệp trong nhà. Để cho các con từ nay nghĩ rằng ta yêu các con với tấm lòng một người cha và ta không muốn làm hại các con, ta định làm cho các con một việc, một việc ta đã suy nghĩ và chuẩn bị từ bao ngày nay. Các con đã đến tuổi trưởng thành, hay ít ra cũng đã đến lúc phải chọn một nghề để sau đây trở nên người có danh vọng tiền tài; bởi vậy, ta muốn chia gia tài ra làm bốn phần: ta dành ba phần đều nhau cho ba con và giữ lại cho mình một phần để tiêu dùng trong những ngày còn lại mà trời kia để cho ta được sống. Nhưng ta muốn rằng sau khi đã nhận phần gia tài của mình, mỗi con sẽ đi theo một con đường do ta vạch ra. Ở Tây Ban Nha chúng ta có một câu phương ngôn mà ta thấy rất đúng, cũng đúng như tất cả các câu phương ngôn khác vì đó là những lời lẽ cô đọng rút ra từ những kinh nghiệm quý báu lâu đời; câu phương ngôn nói như sau: "Giáo hội, trùng dương hoặc vương gia", nói rõ hơn nữa là: "Ai muốn danh giá và giàu có hãy gia nhập giáo hội, hoặc vượt biển đi buôn, hoặc vào hầu trong hoàng cung"; người ta lại nói rằng: "Một miếng vua ban hơn một sàng chúa tặng". Ta nói thế bởi vì ta muốn rằng một trong ba con ta theo học chữ, một đứa đi buôn và đứa thứ ba phụng sự đức vua ngoài trận tiền vì phụng sự được đức vua trong cung là một điều khó thực hiện. Quả thật chiến tranh không mang lại của cải nhưng làm cho con người ta nên danh nên giá. Trong tám ngày, ta sẽ trao phần gia tài cho các con bằng tiền mặt, không thiếu một xu như các con sẽ thấy. Bây giờ, các con hãy nói cho ta rõ các con có thuận làm theo ý kiến ta vừa đề ra không". Cha tôi bảo tôi nói trước vì tôi là con cả. Sau khi đã thưa với cha tôi rằng người cứ giữ cả gia tài mà sử dụng riêng theo ý thích vì chúng tôi đã lớn và có thể kiếm ra tiền, tôi đáp là sẵn sàng làm theo ý muốn của người và sẽ đi theo nghiệp võ, phụng sự Chúa và đức vua. Người em thứ của tôi cũng nhận làm theo ý của cha tôi và sẽ dùng số tiền được chia để sang buôn bán ở châu Mỹ. Đứa em út (theo tôi, nó là người khôn ngoan nhất) đáp là muốn gia nhập Giáo hội, trước mắt là tiếp tục theo học ở Xalamanca.

Sau khi cha con đã nhất trí trong việc chọn ngành nghề, cha tôi ôm hôn ba anh em chúng tôi và thực hiện ngay điều đã hứa. Tôi còn nhớ là cha tôi đưa cho mỗi đứa chúng tôi một số tiền mặt là ba ngàn đồng vàng (một ông chú trong họ đã nhận mua lại gia sản của cha tôi vì không muốn để lọt vào tay người ngoài và đã trả ngay bằng tiền mặt). Thế là một ngày kia, ba chúng tôi từ giã người cha thân yêu ra đi; riêng tôi không nỡ để cha mình sống những ngày còn lại với một số tiền quá ít ỏi nên đã đưa lại cho người hai ngàn trong số ba ngàn đồng thuộc phần tôi vì số tiền còn lại cũng đủ để tôi sắm sửa những đồ dùng cần thiết cho một người lính. Theo gương của tôi, hai đứa em tôi cũng để lại mỗi đứa một ngàn đồng cho cha. Như vậy là cha tôi có bốn ngàn đồng tiền mặt cộng với phần gia sản dành cho mình đáng giá ba ngàn đồng; cuối cùng, ba anh em tôi từ biệt cha và chú; phút chia tay thật là cảm động, không ai cầm được nước mắt. Hai vị dặn dò chúng tôi mỗi khi có dịp thuận tiện phải cho biết tin tức, dù hay dù dở, và chúng tôi đều hứa sẽ làm đúng lời dặn. Rồi hai vị ôm hôn và tiễn chúng tôi lên đường. Sau đó, một đứa em tôi đi Xalamanca, một đứa đi Xêviia, còn tôi đi Alicantê; tại đây tôi được biết có một thuyền buôn chở len về Hênôva 1.

Năm nay vừa đúng hai mươi hai năm, tôi rời khỏi ngôi nhà của cha tôi; trong suốt quãng thời gian đó, tôi có viết một vài lá thư gửi về nhưng không hề nhận được tin tức của cha và các em tôi. Bây giờ tôi xin kể lại vắn tắt những gì đã đến với tôi trong thời gian đó. Tôi đáp tàu ở Alicantê và tới Hênôva bình yên vô sự; từ đó tôi đi Milan; tại đây tôi mua sắm vũ khí và một số quân dụng cần thiết với ý định gia nhập đạo quân Piamôntê; trên đường đi Alêhanđria đê la Paia, được tin ngài công tước Alba đã sang miền Phlanđêx, tôi đổi ý kiến và đi hầu ngài. Tôi đã theo ngài dự nhiều trận, đã được chứng kiến cái chết của các bá tước Eghêmôn và Ornô, sau đó được phong làm sĩ quan kỳ thủ cho một đại úy nổi danh ở Guađalahara tên là Điêgô đê Urbina. Vài tháng sau khi tôi đến Phlanđêx, có tin thành lập liên minh giữa Giáo hoàng Piô Đệ Ngũ với Vênêxia và Tây Ban Nha để chống lại kẻ thù chung là quân Thổ Nhĩ Kỳ; khi ấy, thủy quân Thổ vừa chiếm được đảo Síp thuộc quyền cai trị của Vênêxia; thất bại đó thật là tai hại.

Có tin đồn chắc chắn rằng tướng chỉ huy liên minh mới thành lập là ngài Đôn Huan đê Aoxtria, em ruột đức vua Đôn Phêlipê của chúng ta; thiên hạ bàn tán về bộ máy chiến tranh khổng lồ đang được xây dựng; tất cả những sự việc đó thôi thúc lòng tôi và tôi ước sao được tham dự cuộc đọ sức lịch sử sắp tới. Mặc dù khi đó cấp trên hứa hẹn sắp sửa thăng chức đại úy, tôi đã có ý định bỏ hết để đi Ý-đại-lợi, và cuối cùng tôi đã làm theo ý mình. May mắn thay, giữa lúc đó thì ngài Đôn Huan đê Aoxtria cũng vừa tới Hênôva rồi đi Napôlêx để chuẩn bị sáp nhập với thủy quân của Vênêxia (việc sáp nhập này đã được tiến hành tại Mêxina). Cuối cùng, tôi đã có hạnh phúc được tham dự cuộc thủy chiến đó với cương vị đại úy bộ binh, một chức vụ mà tôi đã đạt được nhờ vào sự may mắn hơn là bằng tài cán. Đó là một ngày vô cùng sung sướng cho các nước theo đạo Kitô vì tất cả các quốc gia trên thế giới đã nhận ra sai lầm của mình khi nghĩ rằng quân Thổ Nhĩ Kỳ là vô địch trên mặt biển; ngày đó, sự kiêu căng ngạo nghễ của Thổ Nhĩ Kỳ đã bị đập tan. Trong lúc mọi người đều vui mừng hớn hở (những người Kitô giáo đã chết trong trận đó còn sung sướng hơn cả những người sống và chiến thắng), riêng tôi không gặp may. Đáng lẽ phải được tặng thưởng một vòng hoa vinh quang như ở dưới thời La Mã, trong cái đêm tiếp theo cuộc chiến thắng lẫy lừng đó, tôi đã bị đeo gông cùm xiềng xích vào chân và tay, sự việc xảy ra như sau: vua Arhêl là Uchali, một tên cướp biển liều lĩnh và luôn luôn gặp may, đánh chiếm được thuyền hạm trưởng Malta trên đó còn ba chiến sĩ của ta bị thương chưa chết; thấy vậy, chiến thuyền Huan Anđrêan trên đó có tôi và đại đội của tôi vội xông tới cứu nguy; với ý thức đầy đủ về nhiệm của mình trước một tình huống như vậy, tôi nhảy sang thuyền địch; bỗng dưng chiếc thuyền lùi ra xa để tránh một cuộc đụng độ, thành thử các chiến sĩ của tôi không nhảy sang theo được. Thế là một mình tôi phải đương đầu với một kẻ địch đông hơn gấp bội, không sao chống đỡ nổi, cuối cùng bị thương nặng phải đầu hàng. Như các ngài đã biết, sau đó Uchali vội chạy trốn cùng với cả hạm đội và tôi trở thành tù nhân của y. Trong lúc mọi người vui sướng hưởng tự do - trong ngày hôm đó có mười lăm ngàn người Kitô giáo chèo thuyền cho thủy quân Thổ Nhĩ Kỳ đã được giải phóng -, riêng tôi chịu số phận hẩm hiu của một kẻ bị bắt làm tù binh.

Chúng đưa tôi tới Cônxtantinôpla. Tại đây, đại đế Thổ Nhĩ Kỳ là Xêlim phong tướng cho Uchali vì y đã anh dũng làm tròn nhiệm vụ trong chiến đấu, mang được về lá cờ của Malta . Năm sau, tức là năm 1572, tôi chèo thuyền trên một chiếc tư lệnh hạm ở Navarinô và tôi nhận thấy rằng quân ta đã bỏ lỡ cơ hội để bắt toàn bộ hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ. Khi ấy, tất cả binh lính trên các chiến thuyền địch đều đinh ninh rằng chúng sẽ bị tấn công ngay trong cảng, và chúng đã chuẩn bị khăn gói sẵn sàng chạy lên bờ thoát thân không chờ ta đánh; điều đó chứng tỏ chúng rất sợ lực lượng thủy quân của ta.

Thế nhưng trời kia đã không muốn như vậy, không phải do sự sơ suất của viên tướng chỉ huy quân ta mà do tội lỗi của những người theo đạo Kitô, và cũng do Chúa muốn rằng chúng ta luôn luôn bị những tên đao phủ trừng phạt. Sau đó, Uchali rút về Môđôn, một hòn đảo gần Navarinô; y đưa hết quân lên bộ, củng cố hải cảng và chờ cho tới khi ngài Đôn Huan quay trở lại tấn công. Trong trận này, quân ta bắt được của quân Thổ chiến thuyền La Prêxa, chỉ huy trưởng là con trai tên cướp biển khét tiếng Barbarôha. Chiến công này do thuyền hạm trưởng La Lôba lập nên; người chỉ huy của nó là hầu tước ở Xanta Crux tên là Đôn Alvarô đê Baxan, một viên tướng bách chiến bách thắng có những đòn sấm sét, người cha của binh lính. Tôi muốn kể thêm một chuyện trong việc đánh chiếm thuyền La Prêxa. Con trai của tên Barbarôha vốn rất độc ác và đối xử với tù binh rất tàn tệ; bởi vậy khi thấy tàu La Lôba của ta lao tới nơi, những người chèo thuyền nhất tề buông mái chèo, túm lấy viên chỉ huy lúc đó đang hò hét thúc họ nhanh tay, rồi vừa chuyền tay nhau tên chỉ huy từ đằng lái tới phía mũi, họ dùng răng cắn vào người y đến nỗi chưa tới cột buồm thì linh hồn y đã bay xuống âm phủ; tôi kể ra đây để thấy sự độc ác của y và lòng căm thù của những tù nhân phải chèo thuyền cho y. Tôi bị đưa trở về Cônxtantinôpla. Năm sau, tức là năm 1573, tôi biết tin ngài Đôn Huan đã chiếm được Tunêx trong tay quân Thổ và giao cho Mulây Amét khiến Mulây Amiđa, tên Môrô độc ác có một nhưng cũng dũng cảm có một, cụt hy vọng trở lại cai trị. Mất Tunêx, đại đế Thổ Nhĩ Kỳ đau lắm; với một sự minh mẫn truyền thống của dòng họ, y cầu hòa với người Vênêxia (thực ra, Vênêxia cũng rất muốn có ngưng chiến); sang năm sau tức là năm 1574, quân Thổ lật lọng tấn công La Gôlêta 2 và một đồn binh ở gần Tunêx mà ngài Đôn Huan xây dở dang. Trong khi đó, tôi vẫn bị cột vào chiếc mái chèo trên chiếc thuyền của quân Thổ, không hy vọng thoát thân; tôi cũng không mong tìm thấy tự do bằng cách chuộc tiền vì tôi nhất định không chịu viết thư báo tin buồn này cho cha tôi.

Cuối cùng, pháo đài La Gôlêta và đồn binh nói trên rơi vào tay địch; tại hai nơi này, bảy mươi nhăm ngàn quân Thổ cùng với hơn bốn mươi vạn quân Môrô và Arập của toàn châu Phi bỏ mạng; vũ khí đạn dược nhiều vô kể; lính công binh đông đến nỗi chỉ cần mỗi tên dùng tay bốc đất cũng đủ phủ kín cả pháo đài La Gôlêta lẫn đồn binh. Pháo đài La Gôlêta từ trước vẫn được coi như bất khả xâm phạm thất thủ trước tiên, lỗi không phải ở những người bảo vệ nó (họ đã làm hết bổn phận và hết sức) mà vì kinh nghiệm cho thấy rằng việc dựng tường cao ở bãi sa mạc này rất dễ dàng. Người ta cứ tưởng có nước ngay dưới mặt đất nhưng trong thực tế quân Thổ đã đào rất sâu mà vẫn không thấy nước đâu cả, và bằng những bị cát, chúng đắp những bức lũy rất cao, vượt cả tường thành của đồn binh, rồi chúng đứng trên đó bắn xuống khiến bên trong quân ta không sao chống đỡ nổi.

Dư luận chung cho rằng đáng lý quân ta không nên cố thủ trong pháo đài La Gôlêta mà phải kéo ra chờ quân địch ở ngay ngoài bến. Những người nói như vậy đã không hiểu tình hình cụ thể và chưa có kinh nghiệm vì La Gôlêta và đồn binh chỉ có ngót nghét bảy ngàn binh lính. Với số quân quá ít ỏi như vậy, dù có chiến đấu dũng cảm bao nhiêu cũng không thể đương đầu với một kẻ địch đông gấp bội. Làm sao họ có thể giữ nổi vị trí La Gôlêta một khi không có viện trợ và nhất là quân địch bao vây họ vừa nhiều, vừa ngoan cường, lại chiến đấu ngay trên đất mình? Tuy nhiên, rất nhiều người trong đó có tôi nghĩ rằng trời kia đã đặc biệt thương tới đất nước Tây Ban Nha ta nên mới xui khiến ra như vậy vì pháo đài này đã gây ra bao nhiêu tai họa và đã ngốn không biết bao nhiêu tiền của chỉ để lưu truyền chiến công của Carlôx Đệ Ngũ vô địch như những tấm bia đá nọ ghi lại mãi mãi cho hậu thế. Sau đó tới lượt đồn binh thất thủ; tuy nhiên quân Thổ Nhĩ Kỳ đã phải chật vật mới chiếm được vì những người lính bảo vệ đồn chiến đấu rất dũng cảm kiên cường và đã tiêu diệt trên hai mươi nhăm ngàn quân trong hai mươi hai cuộc tấn công của chúng. Trong số ba trăm quân ta bị địch bắt sống, không một người nào còn lành lặn; điều đó chứng tỏ họ đã chiến đấu anh dũng ngoan cường và kiên quyết bảo vệ vị trí. Còn một đồn binh nhỏ nữa cũng đầu hàng; đó là một cái tháp dựng lên ở giữa đảo Extanhô, thuộc quyền chỉ huy của Đôn Huan Xanôghêra, một hiệp sĩ sinh trưởng ở Valenxia có nhiều thành tích trong chiến trận. Tướng chỉ huy pháo đài La Gôlêta là Đôn Pêđrô Puertôcarêrô bị địch bắt; ông ta đã chiến đấu hết sức mình; sau khi pháo đài thất thủ, ông ta rất buồn phiền và đã chết trong lúc bị giải tới Cônxtantinôpla. Viên chỉ huy đồn binh cũng bị bắt; đó là tướng Gabriô Xerveyôn, một hiệp sĩ sinh trưởng ở Milanô, một kỹ sư có tài và một quân nhân rất dũng cảm. Còn nhiều nhân vật nổi tiếng khác đã chết trong hai trận này, như Pagan đê Ôria, huân chương Xan Huan, tính tình quảng đại như xem cách đối xử rộng rãi của ông ta với em là Huan Anđrêa đê Ôria, một hiệp sĩ nổi tiếng. Cái chết của ông càng đáng thương vì ông đã bị mấy tên Arập sát hại; số là khi đồn binh thất thủ, mấy tên này bảo ông cải trang làm dân Môrô và nhận đưa ông đi lánh ở Tabarca, một hải cảng nhỏ của những người Hênôva chuyên đi kiếm san hô. Trên đường đi trốn, những tên Arập này đã chặt đầu ông đem nộp cho viên tướng chỉ huy hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ; thế nhưng viên tướng này đã thực hiện câu phương ngôn của ta nói rằng: "Nếu như sự phản bội làm cho ta hài lòng, trái lại những kẻ phản phúc thật đáng ghét" và y đã hạ lệnh treo cổ những tên Arập nọ với lý do đã không bắt sống tù binh mang về.

Trong số những người Kitô giáo trong đồn binh bị bắt có một người tên là Đôn Pêđrô đê Aghilar, không biết quê quán thuộc tỉnh nào của miền Anđaluxia; anh ta là sĩ quan cầm cờ, một chiến binh rất dũng cảm và thông minh, có biệt tài làm thơ. Tôi kể lại chuyện này vì số phận đã run rủi anh ta ngồi chung một hàng ghế và cùng chèo thuyền với tôi trên chiếc thuyền của tên tướng Thổ Nhĩ Kỳ. Trước khi thuyền chúng tôi rời bến, anh ta đã làm hai bài thơ khóc than số phận của pháo đài La Gôlêta và đồn binh. Tôi muốn đọc ra đây vì tôi đã thuộc lòng, và tôi nghĩ rằng các ngài sẽ phải thích chứ không chán.

Khi nghe nhắc tới tên Đôn Pêđrô đê Aghilar, Đôn Phernanđô đưa mắt cho mấy người bạn rồi cả bọn tủm tỉm cười; đến lúc Người Tù nói tới những bài thơ thì một người trong bọn của Đôn Phernanđô lên tiếng:

- Trước khi ngài tiếp tục câu chuyện, xin hãy nói cho tôi được biết số phận của Đôn Pêđrô đê Aghilar ra sao.

Người Tù đáp:

- Theo chỗ tôi được biết, sau hai năm tù tội ở Cônxtantinôpla, anh ta đã cải trang đi trốn cùng với một người do thám Hy Lạp, không hiểu có thoát không; tuy nhiên tôi nghĩ rằng anh ta trốn được vì một năm sau, tôi gặp lại người do thám Hy Lạp ở Cônxtantinôpla nhưng không tiện hỏi về kết quả cuộc đi trốn.

- Kết quả tốt, người kia đáp, vì Đôn Pêđrô là anh tôi và hiện nay đang sống ở quê nhà, khỏe mạnh, giàu có, đã lấy vợ và có ba con.

- Cảm ơn Chúa đã ban phước lành cho anh ta. Người Tù nói; theo tôi, ở đời không có gì sung sướng bằng tìm thấy tự do bị mất.

- Tôi cũng thuộc những bài thơ do anh tôi làm.

- Nếu vậy, xin ngài hãy đọc lên, chắc ngài sẽ đọc sẽ hay hơn tôi.

- Rất vui lòng; bài thơ về pháo đài La Gôlêta như sau:



--------------------------------

1Một thương cảng lớn ở Ý-đại-lợi.

2Pháo đài bảo vệ cảng Tunêx.
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes


Chương XL

KỂ TIẾP CUỘC ĐỜI NGƯỜI TÙ



"Hỡi các linh hồn hạnh phúc, bằng hành động dũng cảm các người đã trút khỏi thể xác, từ cõi trần ô trọc bay bổng lên thượng giới cao siêu.
Căm giận quân cướp nước và một lòng cúc cung tận tụy, các người đã chẳng tiếc thân, bằng máu của mình và của đồng đội nhuốm thắm biển khơi và những bãi cát vàng.
Các người đã chết vì sức cùng lực tận nhưng tinh thần vẫn còn dư và những cánh tay rã rời của các người đã mang lại chiến thắng.
Cái chết đáng thương xót của các người giữa nơi mũi tên hòn đạn được người đời ca tụng và được Chúa ban vinh hiển đời đời".

- Bài thơ đúng như vậy, Người Tù nói.

- Nếu tôi không nhớ sai, người bạn của Đôn Phernanđô nói, bài thơ về đồn binh như sau:

"Từ mảnh đất cằn cỗi hoang tàn này, từ những thành trì đổ nát này, linh hồn của ba ngàn binh sĩ bay lên yên nghỉ trên cõi thiên đường đầy hạnh phúc.
Những cánh tay của họ đã vung lên dũng cảm nhưng vô hiệu quả và cuối cùng, người ít sức kiệt, họ đã ngã gục dưới mũi gươm của quân thù.
Đất này đã chứng kiến biết bao sự kiện buồn thương từ những thế kỷ xưa cho đến nay.
Nhưng cũng từ mảnh đất khốc liệt này có những linh hồn cao cả nhất bay bổng lên trời cao và cũng tại đây có những con người dũng cảm nhất yên nghỉ đời đời".

Mọi người đều khen thơ hay, riêng Người Tù tỏ vẻ vui mừng vì được biết tin bạn cũ; anh ta kể tiếp:

- Sau khi pháo đài La Gôlêta và đồn binh thất thủ, bọn Thổ ra lệnh phá đổ pháo đài (đồn binh thì không còn gì để phá nữa). Để tranh thủ thời gian và đỡ tốn công sức, chúng nổ mìn từ ba phía. Tuy nhiên, những bước tường thành cổ tưởng như dễ phá vẫn đứng trơ trơ, trái lại phần công sự do kỹ sư Phratin xây sau này bị mìn đánh sập ngay. Sau đó, hạm đội thắng trận trở về Cônxtantinôpla; mấy tháng sau, chủ tôi là tướng Thổ Uchali chết. Người ta gọi hắn là Uchali Phartắc, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ có nghĩa là kẻ bội giáo mắc bệnh sài. Quả thật, hắn có bệnh sài, và người Thổ có tục lấy những tật xấu hay những tính tốt của mỗi người để đặt tên cho nhau. Ở Thổ Nhĩ Kỳ chỉ có bốn dòng họ chính cống, còn những dòng họ khác lấy những tật xấu hoặc những tính tốt của mình để tự đặt tên họ. Năm mười bốn tuổi, tên Uchali này là nô lệ của hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ và phải đi phục dịch trên một chiến thuyền; năm ba mươi tư tuổi, một hôm trong lúc đang chèo thuyền, hắn bị một tên Thổ đánh cho một cái tát; ức quá, hắn từ bỏ tôn giáo của mình để chờ dịp trả thù, không chịu ra luồn vào cúi như những sủng thần của hoàng đế đã làm để được thăng quan tiến chức, hắn đã bằng tài năng để trở thành vua Arhêl rồi làm đô đốc thủy quân, chức vụ thứ ba trong triều. Quê quán hắn ở Calabrơ; hắn là một người tốt bụng, đối xử nhân đạo với tù nhân. Sau khi hắn chết, theo chúc thư để lại, người ta phân chia số ba ngàn tù nhân của hắn cho những bộ hạ thân tín của hắn và cho hoàng đế (theo lệ, hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ là người thừa kế của tất cả những người chết và cũng được hưởng một phần gia tài như những người con khác). Chủ mới của tôi là một kẻ bội giáo quê quán ở Vênêxia; tên này bị Uchali bắt được từ hồi còn nhỏ khi đang làm việc trên một chiếc tàu. Hắn được Uchali rất yêu quý và trọng đãi, nhưng hắn độc ác có một trên đời. Tên hắn là Axan Aga, làm vua Arhêl và rất giàu có. Được về Arhêl với hắn, tôi cũng mừng vì ở đó gần Tây Ban Nha. Không phải tôi có ý định viết thư về nước báo tin bất hạnh của tôi đâu; tôi chỉ muốn xem ở Arhêl tôi có gặp may mắn hơn không vì khi còn ở Cônxtantinôpla, tôi đã dùng trăm phương ngàn kế để đi trốn nhưng đều không gặp may. Tại Arhêl, tôi cũng đã tìm nhiều cách hòng đạt được điều tôi mong ước vì không một lúc nào tôi từ bỏ hy vọng được trở lại tự do; mỗi khi ý nghĩ và hành động của tôi không đem lại kết quả mong muốn, tôi không nản chí, cố tạo ra một nguồn hy vọng mới để giữ vững tinh thần, dù hy vọng đó mỏng manh. Tôi đã sống như vậy trong một nhà tù, người Thổ Nhĩ Kỳ gọi là ngục giam trong đó có những tù nhân Kitô giáo của nhà vua và của các tư nhân cùng những phạm nhân của thành phố; những người này chuyên đi phục dịch những việc công cộng, rất khó được thả ra vì họ là của chung không thuộc về một người chủ nhất định nào cả, không biết thương lượng với ai để chuộc tiền dù họ có tiền chuộc. Như tôi đã nói, nhiều người trong tỉnh gửi tù nhân của họ tại những ngục giam này, nhất là những người tù để chuộc, vừa đảm bảo vừa giữ cho tù nhân được lành mạnh khi trao trả. Những tù nhân để chuộc của vua Thổ Nhĩ Kỳ cũng không phải đưa đi làm; nếu mãi không có ai đến chuộc, để thúc tù nhân chăm viết thư về nhà xin tiền, người ta bắt họ cũng phải đi làm, đi kiếm củi hoặc những việc khác khá nặng nhọc.

Tôi cũng là một trong những tù nhân để chuộc; khi biết tôi là đại úy, họ liệt tôi vào danh sách những nhà quý tộc mặc dù tôi đã thanh minh là tôi không có tiền nong gì cả; họ đeo cho tôi một cái xích, không phải để trói buộc tôi mà để phân biệt tôi thuộc loại chờ chuộc tiền. Tôi sống trong ngục giam cùng với những người quyền quý khác cũng được liệt vào số người để chuộc. Tuy bị đói rách thiếu thốn nhưng điều làm chúng tôi đau khổ nhất là phải chứng kiến những hành động tàn ác chưa từng thấy của lão chủ đối với những người Kitô giáo. Mỗi ngày hắn treo cổ một người, có người bị đóng cọc vào hậu môn, có người bị xẻo tai, chỉ vì những chuyện rất nhỏ hoặc chẳng vì lý do gì cả. Chính những người Thổ Nhĩ Kỳ cũng phải nhận rằng hắn hành hạ tù nhân chỉ vì ý thích riêng và do bản tính muốn tiêu diệt hết giống người. Riêng có một người tù của hắn được sống yên ổn; đó là một quân nhân Tây Ban Nha tên là Xaavêđra 1. Để giành lại tự do, anh ta đã có những hành động táo bạo khiến dân địa phương còn nhớ mãi, thế nhưng lão Axan Aga không hề đánh đập hoặc nói nặng một câu; trước những việc làm của anh ta, tất cả chúng tôi đều lo cho anh bị trừng trị và bản thân anh ta cũng lo. Giá có thời giờ, tôi sẽ kể ra đây một vài việc làm của anh ta, chắc các ngài sẽ thấy thú vị và ngạc nhiên hơn cả câu chuyện về cuộc đời tôi. Nhưng thôi, ta hãy quay trở lại câu chuyện của tôi.

Bên cạnh nhà tù của chúng tôi là tư thất của một người Môrô giàu có và quyền quý, cửa sổ nhìn thẳng xuống sân nhà tù. Theo kiến trúc của người Môrô, cửa sổ là những lỗ hổng có che mành kín mít. Một hôm, tôi và ba người bạn tù đeo xiềng xích tập nhảy trong sân để giết thời giờ vì những người tù Kitô giáo khác đi làm việc cả rồi, bỗng đâu tôi ngước mắt nhìn lên thì thấy ở trên một cái cửa sổ che mành có một cây sào thò ra, đầu sào treo một cái gói, cây sào cứ đu đưa như làm hiệu cho chúng tôi cầm lấy. Chúng tôi chăm chú nhìn, rồi một người trong bọn tiến đến dưới cửa sổ để xem ở trên làm gì hoặc có hạ cây sào xuống không. Khi anh ta tới nơi, cây sào vọt lên rồi đảo ngang lia lịa như một người trả lời không. Anh bạn tù bỏ đi thì cây sào lại hạ xuống và lại làm hiệu như lúc ban đầu. Người thứ hai trong bọn tôi tiến lại cửa sổ và sự việc cũng diễn ra như trước; rồi đến người thứ ba cũng vậy. Nhìn thấy thế, tôi cũng muốn thử để cầu may; khi tôi đến dưới cửa sổ, cây sào bỗng dưng hạ xuống sát chân tôi. Tôi tháo cái gói và mở ra, thấy có một cái khăn tay trong đựng mười xianix, tiền Môrô làm bằng một loại vàng kém phẩm chất, mỗi đồng ăn mười rêal của ta. Không cần phải nói cũng biết là tôi rất mừng rỡ khi nhận được gói đó; cả bọn chúng tôi vừa vui mừng vừa ngạc nhiên trước món quà, đặc biệt là tôi vì cây sào kia chỉ hạ xuống khi tôi lại gần, chứng tỏ rằng món quà đó dành cho tôi. Tôi cầm lấy tiền, bẻ gãy cây sào, trở về chỗ cũ nhìn lên thì thấy có một bàn tay trắng muốt mở cửa sổ ra rồi lại đóng vào ngay. Thấy vậy, chúng tôi nghĩ và đoán rằng có một người đàn bà nào ở trong nhà đó đã làm phúc cho chúng tôi, và để tỏ lòng biết ơn, chúng tôi chào kính cẩn theo kiểu Môrô, đầu cúi, người ngả xuống, tay để lên ngực. Một lát sau, cũng từ trong khung cửa sổ nói trên có một cây thánh giá nhỏ làm bằng sậy thò ra rồi thụt vào ngay. Hiện tượng đó khiến chúng tôi đoán rằng có một người đàn bà nào theo đạo Kitô bị giam ở bên trong, và cũng chính người đó đã cho chúng tôi tiền. Thế nhưng bàn tay trắng trẻo và những vòng xuyến đeo ở cánh tay đã đánh tan ý nghĩ đó của chúng tôi. Chúng tôi lại đoán rằng có lẽ đó là một người đàn bà Kitô giáo đã từ bỏ đạo của mình rồi được chủ lấy làm vợ chính thức. Có nhiều người Môrô lấy vợ như vậy, và họ quý hơn cả những người cùng giống, coi đó là một hạnh phúc lớn. Tuy nhiên, tất cả những điều dự đoán của chúng tôi còn rất xa sự thật. Cũng từ hôm đó, chúng tôi chỉ chăm chăm nhìn về hướng cửa sổ ở đó đã hiện ra cây sào, ngôi sao dẫn đường cho chúng tôi. Nửa tháng trôi qua nhưng không thấy xuất hiện lại cây sào, cũng chẳng thấy bàn tay thò ra hoặc một dấu hiệu gì khác. Mặc dù đã tìm mọi cách để tìm hiểu xem ai sống trong ngôi nhà đó và ở trong ngôi nhà đó có người đàn bà Kitô giáo nào bỏ đạo không, chúng tôi chỉ được nghe nói rằng chủ nhân là một người Môrô quyền quý và giàu có tên là Ahi Môratô, nguyên tổng đốc trấn thủ pháo đài Pata, một trong những chức vụ rất quan trọng. Giữa lúc chúng tôi đã hết hy vọng nhìn thấy những đồng tiền vàng từ trên cửa sổ rơi xuống, bỗng dưng cây sào lại xuất hiện cùng với một gói tiền to hơn treo lủng lẳng ở đầu. Cũng như lần trước, lúc đó sân nhà tù vắng người, không có ai ngoài bọn tôi. Chúng tôi cũng lại thử như lần trước; ba người bạn tù của tôi lần lượt đến dưới cửa sổ và lần nào cây sào cũng không hạ xuống thấp, chỉ đến khi tôi tới thì nó mới chịu. Tôi mở gói ra thấy có bốn mươi đồng tiền vàng Tây Ban Nha và một lá thư viết bằng tiếng Arập, cuối dòng có hình một cây thánh giá lớn. Tôi hôn hình cây thánh giá, cầm tiền trở về chỗ cũ, rồi cả bốn anh em chúng tôi làm lễ chào kính cẩn. Bàn tay lại hiện ra làm hiệu bảo chúng tôi đọc thư, rồi cửa sổ khép vào. Chúng tôi vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ; trong bọn không người nào biết tiếng Arập; ai nấy đều ước ao muốn biết ngay trong thư nói gì nhưng tìm ra một người đọc hộ là một chuyện rất khó. Cuối cùng, tôi quyết định nhờ cậy một người đã từ bỏ đạo Kitô, sinh trưởng tại Murxia ở Tây Ban Nha; anh ta rất thân với tôi và hứa sẽ giữ kín chuyện này. Trên thực tế, có những người từ bỏ đạo Kitô nhưng vẫn muốn trở về quê hương bản quán cho nên họ muốn được những người bạn tù có tín nhiệm chứng nhận rằng họ đối xử tốt với những người Kitô giáo và có ý định trốn về nước ngay khi có dịp. Có những người kiếm bằng được những tờ chứng nhận đó với ý tốt, nhưng cũng có những kẻ lợi dụng; chúng đi theo bọn Thổ Nhĩ Kỳ xâm nhập vào các nước Kitô giáo để cướp bóc và nếu bị bắt, chúng chìa giấy chứng nhận ra thanh minh rằng chúng có ý muốn trở về nước và phải đi theo bọn Thổ để về được; sau khi đã thoát khỏi những trận đòn phủ đầu, chúng tỏ vẻ ăn năn trở lại với Chúa, không bị tội gì cả, và khi nào có cơ hội, chúng lại trở về Berbêria làm nghề cũ. Trái lại, có những người sử dụng những tờ giấy chứng nhận đó với ý định tốt và ở lại làm ăn trên đất Kitô giáo. Người tù nói trên thuộc loại này; vì là bạn của tôi, anh ta được chúng tôi chứng nhận rất tốt, và nếu bọn Môrô tìm thấy những tờ chứng nhận đó, chúng sẽ thiêu sống anh. Tôi biết anh ta thạo tiếng Arập, vừa nói vừa viết được; tuy nhiên, trước khi kể lại rõ sự việc, tôi bảo anh ta đọc lá thư, nói tránh rằng đã vô tình nhặt được ở một cái khe trong chỗ ngủ. Anh ta giở thư ra nhìn một lúc rồi lẩm nhẩm đọc từng chữ. Tôi hỏi có hiểu không, anh ta bảo: "Hiểu lắm chứ; nếu anh muốn tôi dịch nguyên văn, hãy đem bút và mực ra đây, tôi sẽ làm được tốt hơn". Chúng tôi vội đi lấy những thứ đó đem lại, anh ta bắt đầu dịch, dịch xong, anh ta bảo:

- Tất cả những câu chữ Tây Ban Nha dịch ra đây là toàn bộ nội dung lá thư; chỉ xin lưu ý các anh là những chữ Lêla Mariên có nghĩa là Đức Mẹ Đồng Trinh Maria.

Chúng tôi đọc thì thấy nội dung như sau:

"Khi tôi còn nhỏ tuổi, cha tôi có một người nô lệ gái; người này đã dạy tôi đọc kinh Kitô giáo bằng tiếng của dân tộc tôi và kể cho tôi nghe nhiều chuyện về Lêla Mariên. Người nô lệ gái đã qua đời và tôi biết chị không bị hỏa thiêu mà đã đi theo thánh Ala vì có hai lần tôi thấy chị hiện về bảo tôi tìm đến đất Kitô giáo để nhìn thấy Lêla Mariên; chị còn bảo Lêla Mariên yêu quý tôi lắm. Tôi không biết đi bằng cách nào. Từ trên cửa sổ này, tôi đã nhìn thấy nhiều tù nhân Kitô giáo nhưng không thấy ai có vẻ trung hậu như ông. Tôi là một cô gái có nhan sắc và có nhiều tiền mang theo. Ông thử xem có cách nào cho chúng ta đi khỏi nơi đây được không. Nếu ông làm được, đến chỗ mới, ông sẽ là chồng tôi, còn nếu ông không muốn thì cũng chẳng sao; Lêla Mariên sẽ cho tôi một người chồng. Tôi viết cho ông lá thư này, ông hãy liệu tìm người đọc hộ; chớ tin vào bọn Môrô vì tất cả đều tráo trở. Tôi rất lo và không muốn ông bộc lộ chuyện này với bất cứ ai vì nếu cha tôi biết, người sẽ ném tôi xuống giếng rồi chặn đá lên. Tôi sẽ mắc một sợi dây vào cây sào để ông buộc thư trả lời; nếu ông không có ai viết giúp cho bằng tiếng Arập, hãy ra hiệu cho tôi biết, Lêla Mariên sẽ giúp tôi hiểu được ý ông. Cầu Lêla Mariên và Ala phù hộ cho ông và cây thánh giá này mà tôi vẫn thường hôn theo lời dặn của người nô lệ gái".

Các ngài thử nghĩ xem, làm sao chúng tôi không khỏi ngạc nhiên và mừng rỡ khi đọc xong những lời lẽ đó. Người chối Chúa 2 đã nhận thấy thái độ của chúng tôi và hiểu rằng không phải tôi vô tình nhặt được lá thư mà rõ ràng thư đó viết cho một người trong bọn tôi; anh ta nói:

- Nếu quả thật điều tôi suy đoán là đúng, xin hãy tin cậy vào tôi và nói rõ sự thật; vì tự do của các bạn, tôi sẽ không tiếc thân.

Nói xong, anh ta rút ở trong ngực ra một cây thánh giá bằng kim khí, vừa khóc lóc vừa thề trước hình Chúa rằng dù là kẻ có tội, anh vẫn tin tưởng vào Người; anh ta còn hứa sẽ trung thành giữ kín những điều chúng tôi bộc lộ, anh nói:

- Theo cảm nghĩ và sự ước đoán của tôi, nhờ vào người con gái đã viết bức thư này, tất cả chúng ta đây sẽ được tự do. Riêng tôi sẽ đạt nguyện vọng tha thiết là được trở lại Thánh hội mà tôi đã phải xa lìa vì sự dốt nát và những tội lỗi mình đã gây ra.

Vừa nói, anh vừa khóc lóc thảm thiết, tỏ ra rất ăn năn hối hận khiến chúng tôi đều nhất trí là có thể nói rõ sự thật được, và chúng tôi đã kể hết sự tình không giấu giếm gì. Chúng tôi chỉ cho anh ta cái cửa sổ ở đó đã xuất hiện cây sào; anh ta quan sát kỹ ngôi nhà và hứa sẽ đặc biệt chú ý điều tra xem chủ nhân của nó là ai. Chúng tôi cũng nhất trí là phải trả lời ngay lá thư của cô gái Môrô vì sẵn có người làm việc đó. Tôi bèn đọc cho anh ta viết, và bây giờ, tôi xin nhắc lại nguyên văn để các ngài nghe. Xin thưa là tôi vẫn nhớ như in tất cả những sự việc quan trọng đã xảy ra trong toàn bộ câu chuyện này và chừng nào còn sống, tôi sẽ không bao giờ quên. Thư trả lời cô gái Môrô viết như sau:

"Thưa cô, thánh Ala chân chính và Đức Mẹ Mariên phúc đức phù hộ cho cô. Đức Mẹ Mariên chính là Mẹ của Chúa và chính Người đã làm cho cô hiểu ra rằng cô cần phải sang sống trên đất của những người Kitô giáo vì Người rất yêu quý cô. Hãy cầu Người chỉ bảo cho cách nào để thực hiện được lệnh của Người; Người rất tốt và sẽ giúp cho. Về phần tôi và những người bạn Kitô giáo của tôi, chúng tôi sẵn sàng làm hết sức mình để giúp cô, dù có phải chết. Hãy viết thư báo cho tôi biết ý đồ của cô, tôi sẽ trả lời. Thánh Ala vĩ đại đã cho chúng tôi một người tù Kitô giáo nói và viết rất thạo tiếng của dân tộc cô như cô thấy trong thư này. Cô không phải lo ngại chi, có điều gì xin cứ cho chúng tôi biết. Trong thư trước, cô có nói rằng một khi đặt chân lên đất Kitô giáo, cô sẽ làm vợ tôi. Là một giáo đồ Kitô ngoan đạo, tôi xin hứa nhận lời. Cô cũng biết rằng những người Kitô giáo thực hiện lời hứa đúng hơn người Môrô. Thánh Ala và Mẹ của Người là Mariên phù hộ cho cô".

Thư viết xong được dán kín. Theo thường lệ, hai ngày sau ngục giam mới vắng người; chờ cho tới ngày đó, tôi ra sân như mọi lần để xem có thấy cây sào không; quả nhiên, chỉ một lát sau nó xuất hiện. Tuy không nhìn thấy mặt người cầm sào, tôi giơ bức thư lên có ý bảo ở trên đó giắt thêm một sợi dây vào cây sào; nhìn lại thấy sào đã có dây, tôi liền buộc lá thư vào. Lát sau lại thấy xuất hiện cây sào - ngôi sao chiếu mệnh của chúng tôi - cùng chiếc khăn tay màu trắng nom như lá cờ hòa bình vậy. Cây sào hạ thấp xuống vừa tầm tay tôi; trong chiếc khăn tay thấy có cả tiền vàng lẫn tiền bạc, tổng cộng là năm mươi đồng; nỗi mừng vui của chúng tôi cũng tăng lên năm mươi lần, và hy vọng được trở lại tự do càng thêm vững chắc. Tối hôm đó, Người chối Chúa trở về nói với chúng tôi rằng chủ nhân ngôi nhà đó là một người Môrô tên là Ahi Môratô, đúng như chúng tôi đã điều tra được trước đây; ông này giàu nứt đố đổ vách và chỉ có một người con gái kế thừa tất cả gia sản đó; dư luận chung trong tỉnh đều cho cô ta là người đàn bà đẹp nhất miền Berbêria; có nhiều vị phó vương tới ngỏ ý muốn được kết duyên nhưng cô ta không muốn lấy chồng. Anh còn cho biết rằng trong nhà có nuôi một người tù gái theo đạo Kitô và người này đã chết rồi. Tóm lại, tất cả những điều anh ta nói đều ăn khớp với bức thư của cô gái.

Sau đó, chúng tôi bàn bạc với Người chối Chúa xem nên làm cách nào đưa được cô gái Môrô ra khỏi nhà để rồi sau đó cả bọn kéo về đất Kitô giáo. Cuối cùng, chúng tôi thỏa thuận với nhau là phải nghe thêm ý kiến của Dôraiđa (đó là tên thật của cô gái, còn Maria là tên mà cô ta tự đặt cho mình) vì chúng tôi nghĩ rằng chỉ có cô ta mới có thể tìm ra phương kế giải quyết những khó khăn. Sau khi đã quyết định như vậy, Người chối Chúa lại khuyên chúng tôi không nên nản chí và còn hứa sẽ giải thoát cho chúng tôi nếu không sẽ chết. Trong bốn ngày liền, nhà tù luôn luôn có người, cho nên cây sào không xuất hiện; ngày hôm sau, khi nhà tù đã trở lại vắng vẻ như thường lệ, cây sào lại hiện ra cùng với một gói to hứa hẹn một món tiền lớn. Cây sào hạ xuống chỗ tôi đứng, tôi cầm lấy cái gói mở ra thấy bên trong có một lá thư cùng một trăm đồng vàng chẵn. Nhân có Người chối Chúa ở đó, chúng tôi kéo nhau về buồng rồi đưa cho anh ta đọc hộ. Bức thư viết:

"Thưa ông, tôi không biết làm cách nào để chúng ta về được Tây Ban Nha; Lêla Mariên cũng không khuyên bảo gì tuy tôi có hỏi. Một việc có thể tiếp tục làm được là tôi sẽ trao cho ông thật nhiều tiền vàng; ông sẽ dùng tiền đó để tự chuộc mình và chuộc cho những người bạn của ông. Sau đó, một người sẽ trở về đất Kitô giáo mua thuyền quay lại đây đón những người còn lại. Các ông sẽ đến tìm tôi tại khu vườn của cha tôi ở gần cổng Babadôn, bên cạnh bờ biển. Tôi sẽ nghỉ tại đó suốt mùa hè này cùng với cha tôi và gia nhân đầy tớ. Ban đêm, các ông có thể đem tôi đi một cách dễ dàng rồi sau đó đưa tôi xuống thuyền. Và phải nhớ rằng ông sẽ là chồng tôi, nếu không tôi sẽ cầu nguyện Mariên trừng phạt. Nếu ông không nhờ cậy vào ai được thì hãy tự chuộc mình rồi đi sắm thuyền. Tôi tin rằng ông sẽ trở lại nhanh chóng hơn những người khác vì ông là một nhà quý tộc và theo đạo Kitô. Hãy thăm dò khu vườn của cha tôi; khi nào ông qua đó, tôi sẽ đưa cho nhiều tiền. Ala phù hộ ông".

Đó là nội dung lá thư thứ hai; xem xong, anh nào cũng muốn mình được chuộc tiền trước, hứa sẽ đi và trở về thật nhanh; tôi cũng nhận làm việc này. Người chối Chúa phản đối, nói rằng anh hoàn toàn không đồng ý để cho một người nào trong bọn tôi được tự do trước những người khác; kinh nghiệm cho thấy rằng những người được trở lại tự do không thực hiện đúng lời hứa khi còn ở trong tù. Có nhiều tù nhân thuộc gia đình quyền quý đã dùng cách này; họ chuộc cho một tù nhân khác rồi phái người này đi Valenxia hay Maiorca để mua thuyền về đón họ. Trên thực tế, người được đi mua thuyền không bao giờ quay trở lại; vì sợ mất tự do mới giành được, người ta quên hết mọi bổn phận trên đời. Để chứng minh sự thật đó, anh ta kể cho chúng tôi nghe về một trường hợp mới xảy ra với một đám người quý tộc Kitô giáo; thật là một chuyện lạ lùng nhất trong tất cả những chuyện lạ lùng và đáng kinh ngạc thường xảy ra ở nơi đó. Bởi vậy, theo ý anh ta, điều có thể làm được và phải làm là bằng món tiền định dùng để chuộc cho một người trong bọn tôi, anh ta sẽ mua một chiếc thuyền tại Arhêl, nói là để sử dụng vào việc buôn bán với Têtuan và các tỉnh ven biển. Một khi đã làm chủ chiếc thuyền, anh ta sẽ có cách đưa tất cả chúng tôi ra khỏi nhà giam và xuống thuyền. Anh ta bàn tiếp: "Kể ra, nếu cô gái Môrô kia cho chúng ta đủ tiền để chuộc tất cả bọn, như cô ta đã hứa, các anh có thể đàng hoàng xuống thuyền giữa ban ngày ban mặt sau khi được thả. Khó khăn lớn nhất đối với chúng ta lúc này là người Môrô không cho phép một kẻ bội giáo mua loại thuyền nhỏ mà chỉ cho mua thuyền to để đi chiến đấu; họ sợ người mua thuyền nhỏ - đặc biệt nếu người đó là người Tây Ban Nha - sẽ dùng nó để trốn về đất Kitô giáo. Tuy nhiên việc này có thể giải quyết được; tôi sẽ để một người tagarinô 3 đứng chung tên mua thuyền và hưởng nửa số tiền lời. Nhờ hắn, tôi sẽ là chủ nhân chiếc thuyền, sau đó thì mọi việc sẽ trôi chảy". Tuy bốn chúng tôi đều nghĩ rằng việc cử người đi Maiorca mua thuyền như cô gái Môrô đã gợi ý là thượng sách nhưng không ai dám phản đối e rằng nếu làm trái ý, anh ta sẽ tố giác và việc đó sẽ đe dọa tính mạng của chúng tôi, nhất là của cô gái Dôraiđa, một người mà chúng tôi có thể hy sinh cả cuộc đời. Cuối cùng, chúng tôi chỉ còn biết phó thác số phận cho Chúa và cho anh ta. Lập tức, chúng tôi viết thư cho Dôraiđa nói rằng chúng tôi sẽ làm tất cả theo ý cô vì ý kiến của cô rất đúng như thể chính Lêla Mariên đã truyền bảo, rằng cô có toàn quyền quyết định thời gian tiến hành sớm hay muộn; trong thư, tôi cũng nhắc lại là tôi nhận lấy cô làm vợ. Một hôm khác, đúng vào ngày nhà tù vắng vẻ, với cây sào và chiếc khăn tay, bằng nhiều lần cô ta lại trao cho chúng tôi hai ngàn đồng tiền vàng cùng một lá thư trong đó cô báo cho biết là ngày thứ sáu tới, cô sẽ tới nghỉ tại khu vườn của cha, trước khi đi sẽ trao thêm tiền cho chúng tôi, nếu chưa đủ thì cứ cho biết, cần bao nhiêu sẽ đưa vì cha cô nhiều tiền quá không nhớ xuể, vả chăng cô lại là người tay hòm chìa khóa trong nhà. Chúng tôi đưa cho Người chối Chúa năm trăm đồng tiền vàng để đi mua thuyền, riêng tôi trích ra tám trăm để tự chuộc mình. Tôi đưa tiền cho một thương gia người Valenxia khi đó đang ở Arhêl; ông ta thương lượng với vua Arhêl, hẹn khi nào có tàu ở Valenxia tới mới có tiền nộp; làm như vậy, ông ta sẽ kiếm được một món lời vì nếu đưa tiền ngay lúc đó, lão vua sẽ suy ra rằng số tiền chuộc vẫn có sẵn ở Arhêl. Tính nết lão chủ tôi rất đa nghi cho nên không dại gì đưa tiền ngay cho lão.

Trước ngày ra nghỉ tại khu vườn một hôm, tức là thứ năm, cô gái Dôraiđa xinh đẹp lại chuyển cho chúng tôi một ngàn đồng nữa và báo tin hôm sau sẽ đi; cô ta còn căn dặn tôi phải tìm đến khu vườn ngay sau khi được thả và phải tạo mọi cơ hội để tới đó thăm thú. Tôi trả lời vắn tắt là sẽ làm đúng như vậy và còn dặn cô hãy đọc những bài kinh mà người nô lệ gái đã dạy cho để cầu Lêla Mariên phù hộ chúng tôi. Sau đó, tôi tính đến việc chuộc nốt cho ba người bạn để họ cũng được ra khỏi nhà tù. Tuy họ là những người tốt, không có gì đáng ngại, nhưng một khi thấy tôi đã được thả rồi, tiền để chuộc còn dư mà họ vẫn bị cầm tù, có khi họ đâm bực mình và rồi trong một phút u mê ám chướng họ có thể làm những điều có hại cho Dôraiđa. Để tránh hết mọi trở ngại có thể xảy ra, tôi quyết định chuộc cho họ, làm theo cách cũ tức là đưa hết tiền cho thương gia nọ để ông ta đạt được kết quả tốt trong việc thương lượng; tuyệt nhiên tôi không cho ông ta biết kế hoạch bí mật của chúng tôi vì điều đó nguy hiểm.


--------------------------------
1Trong đoạn này, Xervantêx nhắc tới quãng đời tù đày của mình ở Arhêl.
2Tức là người đã từ bỏ đạo Kitô giáo nói ở trên, bạn của Người Tù.
3Thuộc giống người Môrô nhưng sinh trưởng ở Tây Ban Nha và theo đạo Kitô.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes


Chương XLI

NGƯỜI TÙ KỂ TIẾP



Chỉ trong vòng nửa tháng sau, Người chối Chúa đã mua được một chiếc thuyền rất tốt, có thể chở được trên ba mươi người. Để che mắt thiên hạ, anh ta đi một chuyến tới một nơi gọi là Xarhêl, cách Arhêl hai mươi dặm về phía Ôran, ở đó có một thị trường lớn buôn bán trái vả khô. Anh ta đi luôn hai ba chuyến nữa cùng với người bạn tagarinô nói trên. Ở xứ Berbêria, người ta gọi những người Môrô sinh trưởng ở Aragôn là tagarinô và những người Môrô ở Granađa là muđêhar, còn tại vương quốc Phêx, những người muđêhar lấy tên là elchơ thường phục vụ nhà vua khi có chiến tranh. Mỗi chuyến đi như vậy, anh ta đều đậu thuyền ở một cảng nhỏ cách khu vườn của Dôraiđa chừng hai tầm nỏ cỡ lớn, rồi cùng với đám tay chèo trẻ tuổi, anh ta cầu kinh hoặc tìm cách thực hiện ý đồ của mình một cách rất tự nhiên: anh ta mon men tới khu vườn xin trái quả và cha Dôraiđa cũng vui lòng cho. Anh ta kể lại với tôi rằng những lúc đó trong bụng anh rất muốn gặp Dôraiđa để nói cho cô ta yên tâm là anh đã được tôi giao cho nhiệm vụ đưa cô ta tới đất Kitô giáo, nhưng anh không sao làm được việc đó là vì những cô gái Môrô không để cho một người Môrô hay Thổ Nhĩ Kỳ nào gặp mặt trừ phi được phép của chồng hoặc cha, trái lại họ sẵn sàng chuyện trò với những người tù Kitô giáo. Riêng tôi rất ngại Dôraiđa gặp Người chối Chúa vì nàng sẽ hoảng hốt khi nghĩ rằng số phận của mình nằm trong tay một kẻ bội giáo. Cũng may, Chúa sắp đặt mọi việc theo hướng khác và Người chối Chúa đã không thực hiện được điều mong muốn. Lúc này, thấy những chuyến đi Xarhêl đều trôi chảy, muốn đậu thuyền ở đâu và lúc nào cũng được, không sợ anh bạn tagarinô phản đối, mặc khác tôi cũng đã được tự do, duy chỉ còn thiếu một số người Kitô giáo để chèo thuyền, Người chối Chúa bảo tôi định đưa những người nào đi theo ngoài ba anh bạn tù đã được chuộc thì phải tự lo tìm kiếm và dặn họ sẵn sàng trong ngày thứ sáu tới, ngày đã được chọn để khởi sự. Tôi bèn đi gặp mười hai người Tây Ban Nha là những tay chèo khỏe và có thể đi khỏi thành phố một cách dễ dàng. Trong tình thế bấy giờ, tìm được ngần ấy người không phải chuyện dễ vì khi đó có hai mươi chiếc thuyền ra khơi cùng với tất cả những tay chèo. Sở dĩ tìm được họ vì chủ thuyền của họ còn đang bận đóng một chiếc tàu khác. Tôi chỉ dặn họ là đến chiều thứ sáu tới, phải kín đáo rút ra khỏi thành, đi tới khu vườn của Ahil Môratô và chờ tôi đến. Tôi nói riêng với từng người, dặn họ nếu có gặp những người Kitô giáo khác tại chỗ hẹn thì chỉ nói là tôi bảo đợi tại đó. Xong việc đó lại còn một việc nữa quan trọng hơn tức là thông báo cho Dôraiđa biết tình hình tiến hành công việc để nàng khỏi bỡ ngỡ hoảng hốt một khi bị chúng tôi mang đi đột ngột vì nàng sẽ nghĩ rằng người đi mua thuyền không thể trở về sớm như vậy được. Tôi bèn quyết định đi tới khu vườn để xem có gặp được nàng không. Một ngày trước khi hành sự, tôi tới đó với lý do đến hái một ít rau ăn. Người đầu tiên tôi gặp là cha nàng. Bằng một thứ tiếng vẫn thường dùng ở khắp miền Berbêria và cả ở Cônxtantinôpla giữa những người tù và người Môrô (không phải tiếng Arập, cũng không phải tiếng Tây Ban Nha hoặc tiếng của một nước nào mà là một sự hỗn hợp của nhiều tiếng khác nhau, ai cũng hiểu được), ông ta hỏi tôi tìm kiếm gì trong vườn của ông ta và chủ là ai. Tôi đáp rằng tôi là nô lệ của ông Arnaotê Mami (sở dĩ tôi nói vậy vì biết chắc chắn rằng Arnaotê Mami là bạn rất thân của ông ta), tới đây hái một ít rau mang về trộn. Ông ta lại hỏi tôi có thuộc loại tù để chuộc hay không và chủ tôi đòi tiền chuộc bao nhiêu. Trong lúc hai người còn đang trao đổi thì nàng Dôraiđa xinh đẹp từ trong nhà bước ra; nàng đã nhìn thấy tôi từ lâu. Như tôi đã nói ở trên, phụ nữ Môrô không rụt rè e lệ đối với những người Kitô giáo và không lảng tránh họ, cho nên lúc này không có điều gì ngăn cản nàng tới chỗ hai chúng tôi đang đứng; không những vậy cha nàng thấy nàng đi chậm chạp, bèn gọi nàng tới. Giờ đây, tôi không sao diễn tả nổi sắc đẹp tuyệt vời, vẻ duyên dáng cũng như những đồ trang sức quý giá trên người Dôraiđa yêu quý của tôi khi nàng hiện ra trước mắt tôi; chỉ xin nói rằng những viên ngọc trai đeo quanh cái cổ tuyệt đẹp, ở đôi tai và trên đầu nàng còn nhiều hơn cả tóc của nàng. Cổ chân của nàng để hở theo tục lệ trong nước và đeo một đôi vòng bằng vàng nguyên chất có nạm rất nhiều viên kim cương (sau này, nàng cho tôi biết rằng cha nàng đánh giá đôi vòng chân tới mười ngàn đôbla); đôi vòng vàng đeo ở cổ tay cũng trị giá tương đương. Những viên ngọc trai đeo trên người nàng nhiều vô kể và rất đẹp. Đồ trang sức chính của phụ nữ Môrô là ngọc trai, cho nên dân Môrô có nhiều ngọc trai hơn tất cả các dân tộc khác. Cha Dôraiđa nổi tiếng là người có nhiều ngọc trai và có những viên đẹp nhất Arhêl, ngoài ra ông còn có trên hai trăm ngàn đồng tiền vàng Tây Ban Nha; vậy mà người thừa kế gia tài đó giờ đây lại thuộc về tôi. Trông nàng lúc đó thật là kiều diễm trong bộ đồ trang sức đắt tiền; và nếu như ngày nay, sau bao cơn sóng gió, nàng còn nhan sắc như vậy thì ta có thể nghĩ là trước kia nàng xinh đẹp biết bao trong cảnh vàng son. Chúng ta đều biết nhan sắc của phụ nữ có thời; những biến chuyển trong cuộc đời làm cho sắc đẹp của họ tăng hay giảm, cũng như những sự ham muốn khiến họ thêm xinh tươi hoặc xấu xa đi, mà thông thường là làm cho sắc đẹp của họ phai tàn. Tóm lại, đồ trang sức cũng như nhan sắc của nàng đều tuyệt vời; riêng tôi cảm thấy trong đời chưa gặp một người nào đẹp như vậy, cộng vào đó là tình nặng ân sâu của nàng đối với tôi khiến tôi cảm thấy như trước mắt tôi là một nữ thần giáng thế để cứu vớt và mang lại hạnh phúc cho tôi. Khi Dôraiđa tới nơi, cha nàng nói với nàng bằng tiếng Môrô rằng tôi là nô lệ của ông Arnaotê Mami tới đây kiếm ít rau ăn. Bằng một thứ tiếng pha trộn như tôi đã giới thiệu ở trên, nàng hỏi tôi có thuộc dòng dõi quý tộc không và vì sao tôi chưa chịu chuộc mình. Tôi đáp là đã tự chuộc với giá một ngàn năm trăm xôltani, một số tiền lớn qua đó nàng có thể thấy được rằng ông chủ tôi đã đánh giá tôi khá cao. Nàng nói:

- Nếu ngươi là nô lệ của cha ta, ta sẽ không để cha ta chuộc với một số tiền to gấp đôi vì rằng bọn Kitô giáo các người chuyên môn nói dối và hay giả nghèo giả khổ để đánh lừa những người Môrô.

- Thưa tiểu thư, điều đó cũng có thể xảy ra, tôi đáp; nhưng tôi không hề nói dối chủ tôi, và bây giờ cũng như sau này, tôi không bao giờ nói dối bất cứ một người nào.

- Thế bao giờ nhà ngươi định đi? Dôraiđa hỏi tôi.

- Tôi định đi ngày mai; có một chiếc tàu Pháp nhổ neo ngày mai và tôi sẽ đáp tàu đó.

- Sao không đợi tàu Tây Ban Nha tới hãy đi có hơn không? Bọn Pháp không phải là bạn của các người đâu.

- Không thể đợi được; kể ra nếu cô tin chắc chắn rằng có tàu Tây Ban Nha tới, tôi sẽ đợi; nhưng đi được ngày mai tốt hơn vì tôi nóng lòng muốn được trở về nước sống giữa những người thân của tôi, cho nên dù có điều kiện thuận lợi hơn nhưng phải chờ đợi tôi cũng chịu thôi.

- Chắc ngươi có vợ ở quê nhà nên muốn về gặp chứ gì?

- Tôi chưa có vợ nhưng tôi đã hứa với một người là sẽ cưới cô ta một khi trở về nước.

- Thế con người mà nhà ngươi đã hứa lấy làm vợ có đẹp không?

- Để ca tụng sắc đẹp của cô ta và để nói thật với tiểu thư, tôi xin thưa là cô ta đẹp như tiểu thư vậy.

Nghe tôi nói, cha Dôraiđa phá lên cười và bảo:

- Lạy thánh Ala , nếu cô ấy giống con gái ta thì phải đẹp lắm đấy, anh chàng Kitô giáo ạ. Con gái ta đẹp nhất vương quốc này, không tin anh cứ nhìn kỹ sẽ thấy lời ta nói là đúng.

Trong lúc chúng tôi nói chuyện với nhau, cha Dôraiđa làm thông ngôn vì ông ta biết cả tiếng Arập lẫn tiếng Tây Ban Nha; tuy Dôraiđa nói được thứ tiếng pha trộn thường dùng tại đây nhưng chỉ biết ít thôi, và nàng diễn đạt ý tứ của mình bằng điệu bộ nhiều hơn bằng ngôn từ. Giữa lúc đó, một gia nhân Môrô chạy tới kêu ầm lên rằng có bốn tên Thổ Nhĩ Kỳ vừa nhảy qua tường vào vườn hái quả tuy hãy còn xanh. Ông già Ahi Môratô và cả Dôraiđa đều tỏ vẻ hoảng hốt; xưa nay người Môrô thường vẫn khiếp sợ người Thổ Nhĩ Kỳ, đặc biệt là bọn lính; bọn này rất láo xược và hống hách đối với người Môrô là những người đã chịu thuần phục chúng, và chúng đối xử với họ còn tệ hơn đối với nô lệ của chúng. Ông Ahi Môratô vội bảo Dôraiđa:

- Con gái ta hãy lui vào nhà đóng chặt cửa lại để ta đi gặp bọn chó kia; còn anh chàng Kitô giáo này hãy đi mà kiếm rau. Cầu thánh Ala cho anh được bình an trở về nhà.

Tôi ngả người chào; ông ta đi gặp bọn Thổ Nhĩ Kỳ, còn lại có tôi với Dôraiđa. Cô gái đi mấy bước làm ra vẻ tuân theo lời cha, nhưng khi Ahi Môratô vừa khuất sau rặng cây, nàng quay trở lại chỗ tôi, mắt đẫm lệ; nàng bảo tôi:

- Tamxixi? Người Kitô giáo ơi! Tamxixi? (nghĩa là Anh đi ư? người Kitô giáo ơi! Anh đi ư?)

- Vâng, thưa tiểu thư, tôi đi, nhưng không khi nào tôi đi mà không có tiểu thư cùng đi. Hãy chờ tôi ngày thứ sáu đầu tháng, và xin chớ hoảng hốt khi thấy bọn tôi tới; chắc chắn chúng ta sẽ đi tới đất Kitô giáo.

Trong câu chuyện nói với nàng, tôi cố tìm những câu chữ để cho nàng hiểu được. Nàng quàng một cánh tay lên cổ tôi, lảo đảo bước về phía nhà. Đi với nhau như vậy thật là nguy hiểm, nhưng trời kia đã giúp cho chúng tôi. Số là trong lúc hai chúng tôi đang đi bên nhau như vậy, tay nàng quàng lên cổ tôi, bỗng đâu cha nàng quay trở về sau khi đã gặp bọn Thổ Nhĩ Kỳ; ông ta nhìn thấy cảnh tượng đó và chúng tôi cũng biết là ông ta đã nhìn thấy. Thế nhưng Dôraiđa đã tỏ ra nhanh trí và khôn khéo; nàng không những không rụt tay lại mà còn sát nữa vào tôi, đầu ngả vào ngực tôi, đầu gối hơi khuỵu xuống, trông rõ ra một người bất tỉnh nhân sự; tôi cũng làm ra vẻ bắt buộc phải đỡ nàng lên. Thấy con gái như vậy, cha nàng vội chạy lại hỏi han tình hình nhưng nàng không đáp, ông ta bèn nói:

- Chắc là con bé hoảng sợ lũ chó kia xông vào vườn nên mới ngất đi như vậy.

Nói rồi, ông đỡ lấy cô gái và ôm vào lòng. Mắt còn ngấn lệ, Dôraiđa buông một tiếng thở dài, cất tiếng nói:

- Amêxi, người Kitô giáo ơi! Amêxi! (tức là: Đi đi, người Kitô giáo ơi! Đi đi!)

Cha nàng nói:

- Người Kitô giáo đi hay ở, điều đó không can gì vì anh ta có làm gì hại con đâu; còn lũ Thổ Nhĩ Kỳ kia đã bước rồi. Không có chuyện gì làm con phải hoảng sợ, buồn phiền cả, vì như ta đã nói, bọn Thổ Nhĩ Kỳ đã kéo đi khỏi đây theo lời đề nghị của ta.

- Đúng như ngài nói, bọn chúng đã làm cho cô ta hoảng sợ, tôi nói với cha Dôraiđa; tuy nhiên, vì cô ta đã bảo tôi đi, tôi không muốn làm trái ý. Xin chúc ngài bình an; nếu được ngài cho phép, tôi sẽ trở lại khu vườn này khi nào cần tới rau ăn; ông chủ tôi bảo rằng không đâu có rau ngon bằng ở đây để làm món rau trộn.

- Anh muốn trở lại khi nào cũng được, ông Ahi Môratô nói. Con gái ta bảo anh đi khỏi đây không phải vì nó ghét bỏ gì anh hay những người Kitô giáo đâu; khi nó bảo anh đi tức là nó muốn bảo lũ Thổ Nhĩ Kỳ đi, hoặc nó có ý bảo anh hãy đi kiếm rau cho chủ vì đã muộn giờ.

Tới đây, tôi từ giã hai cha con ông Ahi Môratô; Dôraiđa trở vào nhà với cha, có vẻ buồn lắm. Với lý do kiếm rau ăn, tôi tự do đi khắp khu vườn; tôi quan sát kỹ những cửa ra vào, những điểm mạnh và yếu, những thuận lợi có thể giúp cho công việc của chúng tôi tiến hành được dễ dàng. Xong xuôi, tôi trở về kể lại tình hình cho Người chối Chúa và các bạn của tôi, trong lòng ngong ngóng chờ giờ phút được yên hưởng hạnh phúc cùng với nàng Dôraiđa xinh đẹp mà phận may đã mang lại cho tôi. Thời gian trôi qua và rồi cũng tới ngày mà cả bọn chúng tôi nóng lòng chờ đợi. Chúng tôi làm theo đúng kế hoạch đã được thảo luận nghiên cứu tỉ mỉ nhiều lần và đạt kết quả cũng đúng như điều mong muốn. Hôm sau ngày tôi gặp Dôraiđa tại khu vườn, tức là ngày thứ sáu, vào lúc trời tối, Người chối Chúa của chúng tôi đậu thuyền ngay gần trước cửa nhà của nàng Dôraiđa xinh đẹp. Những người Kitô giáo lo việc chèo thuyền, cũng đã tới ẩn nấp quanh quẩn trên bờ; họ chờ tôi tới, trong lòng vừa khấp khởi mừng thầm vừa sốt ruột chỉ muốn xông ra chiếm ngay chiếc thuyền đậu trước mặt; những người này không biết rằng Người chối Chúa hành động phối hợp với họ mà lại nghĩ là phải dùng vũ lực giết những người Môrô ở trên thuyền để trốn thoát. Khi thấy tôi và ba người bạn của tôi tới nơi, họ vội dời khỏi chỗ ẩn chạy lại. Giờ này, các cổng thành đã đóng chặt và xung quanh không còn một bóng người. Khi đã đủ mặt, chúng tôi phân vân không biết nên đi tìm Dôraiđa trước hay là bắt trói những tay chèo ở dưới thuyền trước; còn đang do dự thì Người chối Chúa tới hỏi lý do vì sao chưa hành động; anh ta còn cho biết thêm là đã tới giờ khởi sự và những người Môrô ở dưới thuyền không phòng bị gì, đa số trong bọn đã ngủ say. Nghe chúng tôi nói lý do vì sao còn do dự, anh ta bảo: "Điều quan trọng nhất là hãy chiếm lấy thuyền vì việc này rất dễ dàng và không nguy hiểm gì, sau đó ta sẽ đi tìm Dôraiđa". Thấy có lý, chúng tôi bắt tay vào việc ngay; Người chối Chúa dẫn chúng tôi đi lại chỗ thuyền đậu, anh ta nhảy xuống trước, rút gươm và nói bằng tiếng Arập:

- Muốn sống thì không một ai được nhúc nhích!

Lúc này tất cả những tay chèo Kitô giáo đã xuống thuyền. Bọn Môrô, vốn nhát gan, lại nghe thấy ông chủ thuyền ra lệnh như vậy, sợ cuống cuồng, không anh nào dám rút vũ khí ra (vả lại vũ khí của họ cũng chẳng có bao nhiêu), lặng yên chịu trói. Những tay chèo Kitô giáo hành động rất lẹ làng, vừa trói vừa dọa không được kêu, nếu không sẽ đâm chết. Xong đâu đấy, một nửa số người trong bọn tôi ở lại dưới thuyền để canh gác, số còn lại đi theo Người chối Chúa lên khu vườn của Ahi Môratô. May sao, khi mở cổng vào vườn, chúng tôi không gặp khó khăn gì, như thể cổng không đóng vậy; thế là chúng tôi cứ việc lặng lẽ đi tới tòa nhà, không bị lộ.

Nàng Dôraiđa xinh đẹp chờ chúng tôi ở cửa sổ; khi thấy chúng tôi tới, nàng khẽ hỏi chúng tôi có phải là nixarani không (nixarani có nghĩa là người Kitô giáo). Tôi đáp phải và bảo nàng xuống. Nhận ra tôi, nàng không chút chần chừ, cũng không hỏi gì thêm, vội xuống mở cửa ngay; trước mắt chúng tôi hiện ra một cô gái rất xinh đẹp trong một bộ y phục rất lộng lẫy, không sao tả xiết. Vừa nhìn thấy nàng, tôi vội cầm lấy tay hôn, rồi tới Người chối Chúa và hai anh bạn tôi; những người khác thấy thế cũng làm theo tuy không hiểu chuyện gì, như thể tất cả chúng tôi đều tỏ lòng biết ơn nàng và công nhận nàng là bà chúa tự do của chúng tôi. Người chối Chúa hỏi nàng bằng tiếng Arập: "Cha cô có đây không?", nàng đáp: " Có, cha tôi đang ngủ."

- Nếu vậy, Người chối Chúa nói, cần phải đánh thức ông dậy và đưa đi theo chúng ta cùng với tất cả của cải quý giá ở trong khu vườn đẹp đẽ này.

- Không, Dôraiđa đáp, tuyệt đối không được động tới cha tôi. Còn về của cải trong nhà này, không cần phải mang đi thêm ngoài những thứ tôi đã mang đây; những thứ đó đủ để làm cho tất cả các anh trở nên giàu có và hài lòng. Hãy chờ một chút rồi sẽ thấy.

Nói xong, nàng quay trở vào trong nhà, bảo chúng tôi chờ một chút, trong khi chờ phải hết sức giữ yên lặng. Tôi hỏi Người chối Chúa là có chuyện gì vậy. Sau khi nghe anh ta kể lại, tôi bảo anh không được làm gì ngoài ý muốn của Dôraiđa. Lúc này Dôraiđa đã quay trở ra, khệ nệ khiêng một cái hòm đầy ắp tiền vàng. Rủi thay, giữa lúc đó cha Dôraiđa tỉnh giấc và nghe thấy có tiếng lao xao ngoài vườn; ông ta lại gần cửa sổ nhìn ra thì thấy lố nhố có những người Kitô giáo, bèn cuống quýt kêu thất thanh: "Có bọn Kitô giáo, có bọn Kitô giáo! Có trộm, có trộm!" Tiếng kêu làm chúng tôi vô cùng bối rối lo sợ. Thấy tình hình nguy ngập và cần phải giải quyết xong công việc trước khi bị lộ, nhanh như cắt Người chối Chúa xông lên phòng của Ahi Môratô; mấy người khác cũng lên theo. Riêng tôi không dám dời Dôraiđa vì lúc này nàng đã ngất đi và ngã vào tay tôi. Người chối Chúa và mấy người đi theo anh ta hành động rất giỏi và chỉ một lát sau, họ đã trở xuống cùng với Ahi Môratô; họ trói hai tay ông ta, nhét giẻ vào mồm cho khỏi kêu, dọa nếu kêu sẽ giết. Nhìn thấy cha, Dôraiđa vội lấy tay che mắt; Ahi Môratô cũng rất kinh hoàng vì ông không biết rằng con gái ông đã tự nguyện tự giao phó cho chúng tôi. Lúc này, đôi chân là cần thiết hơn cả, cho nên chúng tôi vội rút xuống thuyền; số anh em chờ chúng tôi ở dưới thuyền đã bắt đầu lo ngại, e chúng tôi gặp chuyện gì không hay.

Trời mới tối được khoảng hai tiếng đồng hồ thì tất cả chúng tôi đã tề tựu đông đủ dưới thuyền. Một người cởi trói cho cha Dôraiđa và lấy giẻ ở trong mồm ông ra, nhưng Người chối Chúa vẫn cấm ông không được nói, hễ nói sẽ giết chết. Thoạt nhìn thấy con gái, ông ta thở dài não nuột, nhưng khi nhìn kỹ thấy tôi ôm chặt nàng trong lòng, còn nàng không hề chống cự, kêu ca, vùng vẫy, ông tỏ vẻ ngạc nhiên lắm. Tuy vậy, ông ta không dám hé răng, sợ những lời dọa của Người chối Chúa biến thành hành động. Thấy chúng tôi sắp sửa nhổ neo trong lúc cha mình và những người Môrô bị trói vẫn còn ở trên thuyền, Dôraiđa nhờ Người chối Chúa xin tôi ra ơn thả những người Môrô và trả lại tự do cho Ahi Môratô, nếu không, thà nàng đâm đầu xuống biển còn hơn phải nhìn cảnh cha bị đày ải vì mình, nhất là người cha đó lại rất yêu quý con gái.

Nghe Người chối Chúa nói lại, tôi trả lời đồng ý nhưng anh ta bảo không ổn, anh nói:

- Nếu ta thả họ ra, họ sẽ kêu cứu đất liền làm náo động cả tỉnh; người ta sẽ cho những chiếc thuyền nhẹ đuổi theo chúng ta, người ta sẽ vây bắt chúng ta cả trên mặt đất lẫn trên mặt biển và chúng ta sẽ không thoát nổi. Điều có thể làm được là khi tới một nước Kitô giáo đầu tiên, ta sẽ trả lại tự do cho họ.

Tất cả chúng tôi đều thấy phải; khi nói với Dôraiđa những lý do vì sao không thể thực hiện ngay được ý muốn của nàng, nàng cũng yên tâm. Lập tức, những tay chèo khỏe mạnh của chúng tôi cầm lấy bơi chèo, trong lòng tuy hớn hở nhưng vẫn giữ hết sức yên lặng; chúng tôi cầu Chúa phù hộ cho và bắt đầu bơi về phía đảo Maiorca là đất Kitô giáo gần nhất. Rủi thay, gió bắc thổi khá mạnh và biển động khiến chúng tôi không thể theo hướng Maiorca được mà phải men theo bờ đi về phía Ôran. Chúng tôi lo lắm, chỉ sợ những người ở Xarhêl phát hiện ra vì tỉnh này cách Arhêl có sáu mươi dặm theo đường biển; chúng tôi còn lo gặp phải một trong những chiếc tàu chở hàng hóa từ Têtuan tới; tuy thế, tất cả đều nghĩ rằng nếu gặp được một chiếc tàu buôn (không phải loại tàu vũ trang dùng để đi lùng bọn cướp biển) thì không những chúng tôi không bị giữ lại mà còn có thể đi nhờ một cách chắc chắn về tới nước nhà. Trong lúc đó, Dôraiđa úp mặt vào tay tôi để khỏi phải nhìn thấy cha, và tôi nghe thấy nàng kêu cầu Lêla Mariên phù hộ cho chúng tôi.

Đi được ba chục hải lý thì trời sáng và thuyền chúng tôi chỉ cách đất liền có ba tầm súng hỏa mai, trên bờ vắng vẻ, không sợ bị ai phát hiện. Lúc này biển đã lặng, chúng tôi cố bơi thuyền ra ngoài khơi; khi đã cách bờ được gần hai dặm, chúng tôi bảo các tay chèo thay phiên nhau nghỉ để ăn uống vì trong thuyền có mang theo đầy đủ lương thực, nhưng họ đáp là chưa phải lúc nghỉ tay, người nào không phải chèo cứ việc ăn trước, còn họ không muốn buông mái chèo; chúng tôi đồng ý. Bỗng có gió to nổi lên buộc chúng tôi phải hạ chèo để giương buồm đi về phía Ôran vì không thể bơi theo hướng nào khác được. Chúng tôi nhanh chóng kéo buồm lên và thuyền đi được trên tám hải lý một giờ. Lúc này chỉ còn một nỗi lo là gặp phải tàu vũ trang đi biển. Chúng tôi cho những người Môrô ăn; Người chối Chúa an ủi họ, bảo họ không phải là những người tù, khi nào có điều kiện sẽ thả ngay. Anh cũng nói như vậy với cha Dôraiđa nhưng ông này đáp:

- Hỡi những người Kitô giáo kia! Ta trông chờ gì vào sự độ lượng và thiện chí của các người! Chớ cho ta là một kẻ quá khờ dại nghĩ rằng các người sẽ trả lại tự do cho. Các người đã phải liều mạng bắt ta đi thì các người sẽ không thả ta ra một cách dễ dàng đâu, nhất là các người lại biết ta là ai và thấy rằng có thể kiếm được một món lời. Nếu các người định đặt giá, ta xin nộp tất cả những gì các người muốn để chuộc lại tự do cho ta và cho đứa con gái bất hạnh của ta hoặc nếu không được thì chỉ cần cho đứa con gái này thôi vì nó là phần to lớn và tốt đẹp nhất của linh hồn ta.

Nói rồi, ông khóc lóc thảm thiết khiến tất cả chúng tôi đều mủi lòng; Dôraiđa cũng phải ngửng mặt lên nhìn. Khi thấy cha khóc lóc như vậy, nàng cầm lòng không đậu, đứng lên và tới ôm Ahi Môratô, áp mặt mình vào mặt cha, rồi cả hai cha con cùng nức nở khóc khiến trong bọn chúng tôi có nhiều người cũng khóc theo. Khi nhìn thấy con gái mình ăn mặc sang trọng, nữ trang đầy người, ông ta hỏi:

- Sao lại thế này, con gái ta? Tối qua, trước khi xảy ra nỗi bất hạnh khủng khiếp cho cha con ta, ta thấy con vẫn áo quần bình thường, vậy mà lúc này, mặc dù con không có đủ thời giờ để trang điểm và ta cũng không mang lại cho con một tin gì đáng phải ăn mừng, cớ sao ta thấy con khoác trên người những áo quần đẹp nhất mà ta đã sắm cho con khi cha con ta còn sống những ngày tươi đẹp yên lành? Hãy trả lời ta đi vì việc này còn làm ta kinh ngạc, hãi hùng hơn cả tai họa mà ta đang gặp phải.

Người chối Chúa dịch lại cho tôi nghe tất cả những lời Ahi Môratô nói với con gái, trong khi đó Dôraiđa lặng yên không đáp. Khi nhìn thấy ở một góc chiếc hòm mà con gái mình vẫn dùng để cất đồ nữ trang, lại biết rằng chiếc hòm đó xưa nay vẫn để ở Arhêl chứ không mang đến khu vườn, ông ta càng sửng sốt vội hỏi Dôraiđa nguyên nhân vì sao chiếc hòm lại lọt vào tay chúng tôi và ở trong đó có gì. Không chờ Dôraiđa trả lời, Người chối Chúa đáp:

- Xin ngài chớ mất công hỏi con gái mình ngần ấy câu vì chỉ cần tôi trả lời một câu, ngài sẽ rõ hết chuyện. Xin thưa với ngài rằng cô ta đã là một người Ki-tô giáo và chính cô ta đã phá tung xiềng xích mang lại tự do cho cuộc đời tù đày của chúng tôi. Theo tôi hiểu, cô ta xuống thuyền này ra đi một cách tự nguyện, vui vẻ, cảm thấy mình như một người đang từ trong bóng tối ra ngoài ánh sáng, từ cõi chết trở về cuộc sống, từ tối tăm đến với vinh quang.

- Những điều người này nói có đúng không, hả con gái ta? Ahi Môratô hỏi.

- Đúng ạ, Dôraiđa đáp.

- Vậy ra con đã là một người Kitô giáo và chính con đã nộp ta cho kẻ thù ư?

- Vâng, con là một người Kitô giáo, nhưng con không phải là kẻ đẩy cha vào tình cảnh này vì lòng dạ con không bao giờ muốn rời bỏ cha hoặc làm hại cha cả; con chỉ muốn làm một điều tốt cho con thôi.

- Thế điều tốt đó của con là gì?

- Xin cha hãy hỏi Lêla Mariên, Người sẽ nói cho cha hiểu rõ hơn.

Vừa nghe thấy vậy, nhanh như chớp, Ahi Môratô lao đầu xuống biển; may sao bộ áo quần lụng thụng của ông làm cho người ông nổi lên mặt nước, nếu không, chắc ông đã chết đuối rồi. Dôraiđa kêu ầm yêu cầu vớt cha mình lên. Chúng tôi xô tới, túm lấy áo, kéo lên; Ahi Môratô bị sặc nước, bất tỉnh nhân sự. Xót xa trong lòng, Dôraiđa khóc lóc thảm thiết như thể cha mình đã chết rồi vậy. Chúng tôi dốc ngược ông ta xuống làm ông ta nôn ra rất nhiều nước và chừng hai tiếng sau thì tỉnh. Trong thời gian đó, gió quay chiều buộc chúng tôi phải men theo bờ, và chúng tôi phải ra sức chèo để thuyền khỏi giạt vào đất liền. May sao, thuyền tới một chỗ đậu kề sát một mỏm đất nhỏ mà người dân Môrô gọi là mũi Cava Rumia, có nghĩa là Người đàn bà Kitô giáo xấu xa. Dân Môrô kể lại rằng Cava, người đã gây ra sự suy sụp của nước Tây Ban Nha, được chôn tại đây và, theo tiếng Arập, cava có nghĩa là người đàn bà xấu xa, còn rumia nghĩa là Kitô giáo. Một khi bắt buộc phải đậu thuyền tại đây, họ coi đó là một điểm gở, và chỉ khi nào thật cần thiết họ mới chịu đỗ lại. Đối với chúng tôi, đây không phải là chỗ trú chân của người đàn bà xấu xa mà là một bến đậu thuyền rất chắc chắn trong lúc sóng to gió cả này. Chúng tôi cắt người canh gác trên bờ, và tay vẫn nắm mái chèo, chúng tôi lấy lương thực do Người chối Chúa mua, mang ra ăn. Rồi với tất cả tấm lòng thành kính, chúng tôi cầu Chúa và Đức Mẹ giúp đỡ phù hộ cho mọi người kết thúc thắng lợi chuyến đi đã được mở đầu một cách may mắn này. Theo lời cầu khẩn của Dôraiđa, chúng tôi chuẩn bị đưa cha nàng và những người Môrô bị trói lên bờ, vì nàng không đủ can đảm và bụng dạ nào nhìn thấy cha mình bị trói và những người đồng chủng bị bắt làm tù nhân. Chúng tôi hứa sẽ thi hành ngay trước khi thuyền rời bến vì thả họ ra ở một nơi vắng vẻ như thế này không có gì nguy hiểm nữa. Những lời cầu nguyện của chúng tôi không uổng và đã thấu tới trời. Mặt biển lại êm ả, như khuyến khích chúng tôi hãy vui vẻ tiếp tục cuộc hành trình. Chúng tôi cởi trói cho những người Môrô và thả từng người một lên bờ khiến họ rất ngạc nhiên; khi đến lượt cha Dôraiđa, lúc này đã hoàn toàn trở lại tỉnh táo, ông ta nói:

- Hỡi những người Kitô giáo, tại sao các người lại nghĩ rằng đứa con gái xấu xa này vui mừng vì các người trả lại tự do cho ta? Các người tưởng rằng nó hiếu thảo với ta ư? Không đâu, nó muốn thế chỉ vì sự có mặt của ta ngăn trở không cho nó thực hiện được những ý đồ xấu xa mà thôi. Các người đừng nghĩ rằng nó thay đổi tín ngưỡng vì cho rằng tôn giáo của các người hay ho hơn tôn giáo của chúng ta mà vì nó biết rằng trên đất nước của các người, những hành động bất nhân bạc ác được dung túng hơn ở nước ta.

Trong lúc Ahi Môratô nói, tôi và một người nữa phải giữ chặt hai cánh tay ông, sợ xảy ra chuyện chẳng lành. Ông ta quay về phía Dôraiđa nói tiếp:

- Hỡi đứa con gái xấu xa và dại dột kia! Mi mờ mắt và mất trí rồi sao mà đi theo lũ chó thù địch của chúng ta? Ta nguyền rủa ngày giờ ta đã sinh ra mi, ta nguyền rủa công lao chăm sóc nuôi nấng của ta đối với mi!

Thấy Ahi Môratô còn muốn nói nữa, chưa chịu thôi, tôi vội đưa ông lên bờ. Thuyền đi rồi nhưng ông vẫn tiếp tục nguyền rủa, than vãn, cầu Mahôma hãy kêu gọi thánh Ala hủy diệt chúng tôi và làm cho chúng tôi nhục nhã khốn khổ. Thuyền giương buồm lên và dần dần xa bờ; chúng tôi không nghe thấy lời nữa nhưng nhìn thấy ông ta bứt hết râu tóc và lăn lộn ra đất; có một lúc ông ta gào to đến nỗi chúng tôi nghe được rất rõ ông ta kêu:

- Hãy trở lại, con gái yêu của ta, hãy trở lại đây, ta sẽ tha thứ hết! Hãy trao cho những người đó tất cả của cải mà ta coi như đã thuộc về họ rồi. Hãy trở lại an ủi người cha đau khổ của con. Nếu con bỏ ta thì ta cũng sẽ bỏ mạng trên bãi cát hoang vắng này.

Nghe cha gọi, Dôraiđa buồn rầu khóc lóc, nàng chỉ biết nói với cha:

- Cha ơi, cầu thánh Ala phái Lêla Mariên đến an ủi cha trong phút giây đau buồn này. Chính Lêla Mariên đã bảo con theo đạo Ki-tô và chính Ala biết rằng con không thể nào làm khác được. Những người Ki-tô giáo trên thuyền này không hề ép buộc con. Dù con không chịu đi theo họ và cứ ở lại nhà thì điều đó cũng không thể xảy ra được vì lòng con đã quyết thực hiện điều mong ước chính đáng của con tuy cha thân yêu coi đó là xấu xa.

Dôraiđa nói nhưng cha nàng đâu có nghe được vì chúng tôi không nhìn thấy bóng ông đâu nữa. Trong lúc tôi an ủi vỗ về nàng, mọi người vẫn tiếp tục cuộc hành trình. Gió thổi xuôi và chúng tôi đều tin là sáng hôm sau sẽ nhìn thấy bến bờ nước Tây Ban Nha. Thế nhưng, xưa nay không bao giờ hoặc ít khi hạnh phúc đến với con người ta một cách trót lọt dễ dàng mà thường kèm theo một trắc trở, tai họa gì đó. Có lẽ số phận của chúng tôi muốn như vậy hoặc giả những lời nguyền rủa của Ahi Môratô đã có hiệu lực chăng, vì những lời nguyền của bất cứ một người cha nào đều đáng sợ cả. Vào khoảng ba giờ sáng, thuyền đang băng băng rẽ sóng, buồm căng phồng, mái chèo gác lên không cần hoạt động vì gió thuận, bỗng đâu dưới ánh trăng sáng tỏ hiện ra ở phía trước con thuyền của chúng tôi một chiếc tàu, buồm hình vuông giương thẳng, thân tàu hơi nghiêng về một bên. Tàu đi rất gần khiến chúng tôi phải vội cuốn buồm để khỏi va phải; con tàu cũng lái tránh ra để nhường đường cho chúng tôi. Trên tàu có tiếng người hỏi chúng tôi là ai, đi đâu và từ đâu tới; thấy hỏi bằng tiếng Pháp, Người chối Chúa bảo chúng tôi:

- Đừng ai trả lời, bọn này đúng là bọn cướp biển Pháp, chúng không tha ai đâu.

Theo lời của Người chối Chúa, không ai đáp cả. Thuyền chúng tôi tiến lên bỏ lại con tàu ở phía sau. Bỗng dưng hai phát đại bác nổ, có lẽ bắn liên tiếp thành thử một phát cắt ngang cột buồm thuyền chúng tôi, cả cột lẫn buồm văng xuống biển; phát thứ hai trúng vào giữa thân thuyền, phá toác ra, may không ai việc gì. Thấy thuyền sắp chìm, chúng tôi vội cầu cứu những người ở trên tàu vớt lên để khỏi chết đuối. Họ dừng tàu lại, vứt xuống biển một chiếc xuồng, rồi có mười hai người Pháp nhảy xuống mang theo cả súng hỏa mai và mồi lửa. Thấy chiếc thuyền chìm xuống nước và chúng tôi chỉ có ít người, họ cho chúng tôi lên xuồng, bảo rằng vì chúng tôi bất nhã không trả lời họ nên mới xảy ra chuyện thế này. Người chối Chúa lẳng lặng cầm chiếc hòm của cải của Dôraiđa quẳng xuống biển, không để cho ai nhìn thấy. Chúng tôi lên tàu. Bọn Pháp hỏi chúng tôi tất cả những điều chúng muốn biết, rồi như những kẻ tử thù, chúng lột hết quần áo tiền nong của chúng tôi, kể cả đôi vòng chân của Dôraiđa khiến nàng rất buồn phiền; riêng tôi không buồn vì chuyện đó mà chỉ lo sau khi chúng đã lột hết những đồ trang sức quý giá của nàng, chúng sẽ lột một vật quý nhất mà nàng vẫn nâng núi. Cũng may bọn này chỉ biết đến tiền mà thôi, nhưng lòng tham lam của chúng thì thật vô độ vì chúng có thể lột cả những bộ quần áo tù của chúng tôi nếu thấy có lợi. Một số trong bọn chúng có ý kiến là nên quấn cả bọn tôi vào một tấm buồm rồi vứt xuống biển cho mất tăm vì tàu của chúng đang trên đường tới một hải cảng Tây Ban Nha để buôn bán dưới danh nghĩa là một tàu buôn Pháp; nếu chúng để bọn tôi sống thì sẽ lộ và bị trừng trị. Nhưng tên thuyền trưởng - kẻ đã tước đoạt hết của cải của nàng Dôraiđa yêu dấu của tôi - cho rằng làm một mẻ như thế cũng đủ rồi, không cần tới một cảng nào ở Tây Ban Nha nữa mà có thể ngay trong đêm vượt eo biển Hibraltar trở về bến xuất phát là La Rôchêla; tất cả tán thành. Ngày hôm sau, chúng cấp cho bọn tôi một chiếc thuyền con có trang bị đủ để đi nốt quãng đường ngắn ngủi còn lại vì lúc này, đất Tây Ban Nha đã hiện ra phía xa. Nỗi mừng tìm thấy tự do làm chúng tôi quên hết mọi buồn phiền, như thể không có chuyện gì xảy ra vậy.

Vào khoảng giữa trưa, bọn Pháp thả chúng tôi xuống chiếc thuyền con, lại cấp cho hai thùng nước ngọt và một ít bánh khô; riêng tên thuyền trưởng - chẳng hiểu có phải vì nó ái ngại cho nàng Dôraiđa xinh đẹp hay không - đã tặng nàng tới bốn mươi đồng tiền vàng khi nàng rời tàu Pháp; y còn cấm không cho lâu la lột bộ y phục nàng đang mặc bây giờ. Chúng tôi cảm ơn lòng tốt của chúng, tỏ ra biết ơn hơn là oán trách, rồi chúng tôi xuống thuyền. Chiếc tàu Pháp xa dần đi về phía eo biển, còn bọn tôi cứ hướng theo phía đất liền trước mặt ra sức chèo. Lúc mặt trời sắp lặn thì thuyền của chúng tôi đã gần bờ lắm rồi và mọi người đều tin là có thể lên bờ trước đêm. Hôm đó không có trăng, trời lại tối mà chúng tôi thì chẳng biết thuyền mình đang bơi ở chỗ nào, cho nên nếu cập bến e bất lợi. Tuy nhiên đa số có ý kiến là cứ bơi vào dù trong bờ là vùng núi đá hay không có người cũng không sao. Theo ý họ, làm như vậy sẽ không lo chạm trán bọn cướp biển ở Têtuan, bọn này thường xuất phát từ Berbêria lúc đêm, tảng sáng tới bờ biển Tây Ban Nha, cướp bóc xong xuôi lại quay trở về nhà nghỉ ngơi. Qua những ý kiến trao đi đổi lại, chúng tôi quyết định cứ bơi vào từ từ, và nếu biển lặng, chúng tôi sẽ tùy tình hình mà lên bờ. Mọi người đồng ý. Vào lúc gần nửa đêm, thuyền của chúng tôi tới chân một quả núi cao chót vót, hình thù kỳ dị, ở cách mặt biển một chút khiến chúng tôi có thể đổ bộ dễ dàng. Thuyền giạt vào bãi cát, chúng tôi đặt chân lên bờ, quỳ xuống hôn mặt đất, mừng mừng tủi tủi cảm tạ Thượng đế đã ban cho một niềm hạnh phúc không gì so sánh nổi. Chúng tôi lấy số lương thực còn lại trong thuyền, kéo thuyền lên bờ rồi cả bọn rút lên núi; tới giờ phút này, chúng tôi vẫn chưa yên lòng, không hiểu khoảng đất dưới chân mình có thật là đất Ki-tô giáo hay không.

Tôi cảm thấy trời sáng chậm hơn mọi ngày. Chúng tôi leo lên tận đỉnh núi để tìm xem có làng xóm hay lều trú của những người chăn cừu không. Nhìn căng mắt vẫn chẳng thấy làng mạc, bóng người hay đường đi lối lại đâu. Chúng tôi quyết định đi sâu vào đất liền để có thể gặp người mà hỏi han tình hình. Điều làm tôi áy náy nhất là thấy Dôraiđa phải đi bộ trên quãng đường gồ ghề này; có lúc tôi cõng nàng, nhưng nhìn tôi vất vả, nàng cảm thấy còn mệt hơn đi bộ và vì thế nàng không chịu cõng, cứ cắn răng nắm tay tôi mà đi một cách vui vẻ. Mới đi được một đoạn đã nghe có tiếng chuông chứng tỏ đâu đấy có đàn cừu; chúng tôi chăm chú nhìn thì thấy dưới chân một cây sồi điển điển có một chàng chăn cừu đang mải mê dùng dao vót gậy. Chúng tôi gọi to; anh ta ngửng đầu và đứng dậy. Như về sau anh ta kể lại, thoạt nhìn thấy Người chối Chúa và Dôraiđa ăn mặc theo kiểu Môrô, anh ta ngỡ là bọn cướp ở Berbêria tới, vội chạy tuột vào khu rừng trước mặt hô hoán ầm lên:

- Bọn Môrô, bọn Môrô tới! Có bọn Môrô! Chiến đấu, chiến đấu!

Thấy anh ta kêu, chúng tôi lúng túng không biết xử trí ra sao. Biết rằng những tiếng kêu sẽ báo động mọi người và đội kỵ binh bờ biển sẽ kéo tới, chúng tôi bảo Người chối Chúa cởi bộ y phục Môrô và hãy mặc chiếc áo tù của một người trong bọn, để anh này mặc chiếc sơ-mi còn lại cũng được; rồi, vừa cầu Chúa phù hộ, chúng tôi lần theo con đường của anh chàng chăn cừu vừa đi, chờ đội kỵ binh tới. Chúng tôi đoán không sai. Đi được chừng hai tiếng đồng hồ, vừa ở trong rừng ra tới đồng bằng thì thấy có năm chục kỵ binh đang phi nhanh tới. Nhìn thấy họ, chúng tôi dừng lại chờ. Tới nơi, chẳng thấy bọn cướp Môrô đâu mà chỉ gặp một đám người Ki-tô giáo quần áo tả tơi, một người trong đội kỵ binh bèn hỏi có phải vì chúng tôi mà anh chăn cừu nọ đã kêu cứu ầm ĩ không. Tôi đáp: "Phải". Tôi chưa kịp lên tiếng kể lại sự tình và giới thiệu bọn tôi là ai, từ đâu tới, thì một người trong bọn tôi nhận ra người kỵ binh và nói:

- Cảm tạ Thượng đế đã dẫn chúng ta tới nơi đất lành này! Nếu tôi không nhầm, mảnh đất trên đó chúng ta đang đứng là miền Vêlêx Malaga, và nếu những năm tháng tù đày chưa làm cho tôi quên con người đang nói chuyện với chúng tôi thì ngài chính là Pêđrô đê Buxtamantê, chú ruột tôi.

Anh ta vừa dứt lời, người kỵ binh vội nhảy xuống ngựa chạy lại ôm hôn và nói:

- Cháu yêu quý của lòng ta và của cả đời ta, ta nhận ra cháu rồi; ta, chị ta tức là mẹ cháu, và tất cả những người thân của cháu đều buồn phiền vì tưởng cháu đã qua đời. Gia đình cháu còn cả và Chúa đã để cho họ làm người để ngày nay được hạnh phúc gặp lại cháu. Gia đình được tin cháu ở Arhêl, nay nhìn áo quần của cháu cũng như của tất cả mọi người ở đây, ta đoán rằng cả đoàn đã giành lại tự do một cách kỳ diệu.

- Đúng như vậy đấy ạ; chúng cháu sẽ có thời giờ kể đầu đuôi câu chuyện cho chú nghe.

Khi biết chúng tôi là tù nhân Ki-tô giáo trở về, tất cả đội kỵ binh nhảy xuống đất và mời chúng tôi lên ngựa để đưa về tỉnh Vêlêx Malaga ở cách đó một dặm rưỡi đường. Theo lời chúng tôi chỉ dẫn, một số kỵ binh đi ra bờ biển khiêng chiếc thuyền con về tỉnh, còn chúng tôi leo lên ngựa ngồi ghép đằng sau, riêng Dôraiđa được ngồi con ngựa của ông chú người tù. Dân chúng trong tỉnh đã được một người kỵ binh về trước báo tin, kéo ra đón chúng tôi. Họ không ngạc nhiên thấy có những người Kitô giáo trở về hoặc có những người từ Môrô tới vì đã thường gặp những cảnh tương tự ở vùng bờ biển này, nhưng họ rất ngạc nhiên trước nhan sắc của Dôraiđa. Quả thật trông nàng lúc này đẹp tuyệt vời; nỗi nhọc nhằn dọc đường cộng với niềm vui thấy mình đã chắc chắn đặt chân lên đất Kitô giáo làm cho khuôn mặt nàng rực lên những ánh sắc tươi đẹp, và nếu như không phải do tình yêu làm mù quáng, tôi dám nói là trên đời này không có ai đẹp hơn nàng, ít nhất tôi cũng chưa gặp một người nào đẹp như vậy.

Chúng tôi đi thẳng tới nhà thờ để tạ ơn Chúa. Vào trong nhà thờ, Dôraiđa nói là có nhiều hình ảnh giống như Lêla Mariên. Chúng tôi bảo nàng rằng đó chính là hình ảnh Lêla Mariên; Người chối Chúa cũng ra sức giải thích thêm để nàng hiểu rằng mỗi hình ảnh đó đều tượng trưng cho Lêla Mariên mà nàng vẫn tôn thờ. Vốn dĩ thông minh và nhận thức nhanh, Dôraiđa nghe ra ngay. Sau đó, chúng tôi được đưa về nghỉ tại các nhà dân; người tù có ông chú trong đội kỵ binh đưa Người chối Chúa, Dôraiđa và tôi về nhà bố mẹ anh ta là một gia đình khá giả, và chúng tôi được tiếp đãi ân cần như con cái trong nhà.

Chúng tôi nghỉ lại ở Vêlêx Malaga sáu ngày; Người chối Chúa, sau khi dò hỏi được tình hình, đi Granađa và trở lại Thánh hội sau khi đã chịu sự thẩm sát của tôn giáo pháp đình; những người khác cũng đi mỗi người mỗi phương tùy theo yêu cầu riêng từng người. Còn lại Dôraiđa và tôi với trong túi bốn chục đồng tiền vàng mà viên thuyền trưởng đã có nhã ý tặng cho Dôraiđa. Với số tiền đó, tôi mua con lừa mà nàng vừa cưỡi tới đây; cho tới giờ, tôi đã chăm sóc nàng như một người cha và một người giám mã, chưa dám nghĩ nàng đã là vợ tôi. Mục đích của tôi là đi tìm xem cha tôi có còn sống không, các em tôi có gặp may hơn tôi không, mặc dù trời kia đã đem lại cho tôi một người bạn đường như Dôraiđa khiến tôi không còn cầu mong một số phận nào khác dù tốt đẹp đến mấy chăng nữa. Trên đường, Dôraiđa đã nhẫn nại chịu đựng mọi gian lao thiếu thốn và tỏ vẻ tha thiết muốn sớm trở thành một người Ki-tô giáo khiến tôi phải khâm phục và sẵn sàng phụng sự nàng suốt đời. Tuy nhiên, trong lúc mừng vui thấy mình và Dôraiđa sẽ hưởng hạnh phúc bên nhau, có một ý nghĩ khiến tôi không khỏi băn khoăn: một khi về tới quê nhà, liệu tôi có tìm được một nơi cho Dôraiđa nương thân không? Liệu thời gian và sự chết chóc có mang lại những biến cố gì ghê gớm cho nhà cửa, gia đình tôi không? Và một khi cha tôi và các em tôi chết cả rồi, liệu có ai còn nhận ra tôi không?

Thưa các ngài, tôi không còn điều gì kể nữa. Câu chuyện có ly kỳ lý thú hay không, dám mong các ngài sáng suốt nhận xét cho; chỉ xin thưa rằng tôi còn muốn kể vắn tắt hơn mặc dù tôi đã lược bớt nhiều chi tiết để khỏi rườm tai các ngài.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes

Chương XLII

CHUYỆN MỚI TRONG QUÁN TRỌ CÙNG NHỮNG SỰ VIỆC KHÁC ĐÁNG ĐƯỢC KỂ LẠI


Người Tù vừa dứt lời, Đôn Phernanđô lên tiếng:

- Thưa ngài đại úy, quả thật lối kể chuyện của ngài rất hấp dẫn, cũng hấp dẫn như nội dung câu chuyện mới mẻ và kỳ lạ này. Toàn bộ câu chuyện thật ly kỳ, lạ lùng và đầy rẫy những sự bất ngờ khiến người nghe phải say mê, hồi hộp. Nghe ngài kể, chúng tôi đều rất thích thú, và giả thử ngày mai còn được nghe câu chuyện này, chúng tôi vẫn vui lòng nghe lại.

Bằng những lời lẽ rất chân tình, Carđêniô và mọi người nhận hết sức giúp đỡ viên đại úy khiến anh ta không khỏi cảm động trước tấm thịnh tình của họ. Đặc biệt Đôn Phernanđô mời anh về nhà mình, hứa sẽ nói với hầu tước anh trai đỡ đầu Dôraiđa khi nào làm phép thông công cho nàng; chàng còn nhận giúp đỡ anh trở về quê nhà bằng những phương tiện xứng đáng với cương vị của anh. Viên đại úy hết lời cảm ơn Đôn Phernanđô nhưng không dám nhận sự giúp đỡ tận tình đó.

Mặt trời xuống dần. Vào lúc chập tối, có một cỗ xe ngựa cùng mấy kỵ sĩ tới quán trọ xin ngủ đỗ. Vợ chồng chủ quán đáp là trong quán không còn một tấc đất thừa. Trong số những người kỵ sĩ đã bước vào quán, có tiếng nói:

- Dù sao cũng không thể thiếu chỗ nghỉ cho ngài bồi thẩm đây.

Nghe thấy vậy, vợ chủ quán cuống quýt đáp:

- Thưa ngài, quả thật trong nhà cháu không có giường. Chắc là ngài bồi thẩm mang giường đi theo; nếu như vậy, xin mời ngài vào nghỉ ngơi; cháu và nhà cháu xin nhường buồng riêng hầu ngài.

- Tốt lắm, kỵ sĩ đáp.

Trong lúc đó, từ trong xe ngựa có một người đàn ông bước ra. Nhìn bộ y phục - áo thụng dài, tay áo rộng và xẻ - người ta cũng đoán được chức vụ và nghề nghiệp của ông là bồi thẩm như kỵ sĩ theo hầu vừa giới thiệu; tay ông ta dắt một tiểu thư tuổi chừng đôi tám, mặc quần áo đi đường. Trông cô gái vừa xinh đẹp vừa duyên dáng khiến mọi người đều trầm trồ tấm tắc, ví thử họ chưa nhìn thấy Đôrôtêa, Luxinđa và Dôraiđa trong quán trọ, chắc chắn họ sẽ nghĩ rằng khó tìm đâu ra một cô gái nhan sắc như vậy. Khi ấy, Đôn Kihôtê đang đứng ngay ở cửa ra vào; nhìn thấy ông bồi thẩm và cô gái, chàng bèn cất giọng nói:

- Ngài có thể an tâm vào nghỉ trong lâu đài này; tuy nó chật chội và thiếu tiện nghi, nhưng ở đời không có sự chật chội và bất tiện nào có thể ngăn trở được các quân nhân và văn nhân, nhất là một khi họ được một người đẹp chỉ lối như ngài đang được tiểu thư xinh đẹp đây dẫn đường. Đối với nàng, không những các lâu đài phải mở toang cửa mà ngay đá tảng cũng phải tách đôi, núi cũng phải cúi đầu để nghênh tiếp. Xin mời ngài hãy bước vào trong thiên đàng này; ở đây có các vì tinh tú xứng đáng để kết bạn với ngôi sao đi bên cạnh ngài; ở đây ngài sẽ gặp những dũng sĩ cừ khôi và những giai nhân tuyệt thế.

Nghe Đôn Kihôtê nói, ông bồi thẩm rất đỗi ngạc nhiên; ông nhìn chàng hiệp sĩ từ đầu đến chân. Hình thù của Đôn Kihôtê cũng làm cho ông không kém phần ngạc nhiên. Ông chưa kịp đáp thì lại một phen sửng sốt khi nhìn thấy Luxinđa, Đôrôtêa và Dôraiđa: số là khi nghe tin có đám khách mới tới quán trọ, nhất là khi nghe vợ chủ quán ca tụng sắc đẹp của cô gái mới tới, ba cô vội chạy ra. Đôn Phernanđô, Carđêniô và Cha xứ nghênh đón ông bồi thẩm một cách giản dị và nhã nhặn hơn. Trước những lời chào mời và cảnh tượng đó, ông bồi thẩm không biết nói gì. Luxinđa, Đôrôtêa và Dôraiđa cũng ân cần mời cô gái vào nhà trọ, cuối cùng, ông bồi thẩm đã nhận ra những người trong quán trọ đều là người tử tế sang trọng, duy bộ dạng, mặt mũi và thái độ của Đôn Kihôtê làm ông khó hiểu. Sau khi đã thăm hỏi nhau và cân nhắc về những tiện nghi của quán trọ, mọi người đi tới một quyết định giống như lúc trước tức là dành cho các cô gái căn buồng đã nhiều lần được nhắc tới, còn đám đàn ông nghỉ ở mé ngoài để canh gác luôn thể. Ông bồi thẩm yên tâm thấy con gái mình - tức là tiểu thư đi cùng - nghỉ chung với các cô gái trong quán trọ, và riêng cô gái cũng hài lòng. Thế là với chiếc giường chật hẹp của chủ quán và chiếc giường của ông bồi thẩm mang theo, bốn cô thu xếp được một chỗ nghỉ cũng khá tươm tất, không ngờ được vậy.

Từ lúc nhìn thấy ông bồi thẩm, Người Tù đã ngờ ngợ trong bụng rằng đó là em trai mình; anh bèn hỏi một người đi theo hầu xem tên ông ta là gì, quê quán ở đâu; người hầu đáp:

- Đó là ông cử Huan Pêrêx đê Viếtma; nghe đâu quê ông ta ở miền núi Lêôn.

Những lời của người hầu cùng những điều trông thấy khiến Người Tù kết luận rằng ông bồi thẩm chính là đứa em trai đã đi theo nghề khoa cử theo ý kiến của cha mình. Phần cảm động, phần mừng rỡ, anh vội mời riêng Đôn Phernanđô, Carđêniô và Cha xứ ra một chỗ, nói rõ sự thể và khẳng định rằng ông bồi thẩm nọ là em ruột mình. Người hầu còn cho anh biết thêm rằng ông ta được cử đi nhậm chức bồi thẩm tại tòa án ở Mêhicô bên châu Mỹ, rằng tiểu thư đi theo là con gái ông ta, vừa ra đời thì mẹ chết, rằng ông ta rất giàu có vì vợ chết để lại cho ông của hồi môn và đứa con gái. Người Tù nhờ ba người góp ý nên làm thế nào để em trai nhận ra mình, trước hết là làm cách nào để biết được thái độ của em mình sẽ lạnh nhạt hay vồn vã một khi nhận ra ông anh trong tình trạng xác xơ như vậy.

- Để tôi làm việc đó, Cha xứ nói. Vả lại, thưa ngài đại úy, chúng ta có thể tin rằng em trai ngài sẽ ân cần thăm hỏi ngài vì đạo đức và sự chín chắn mà ông ta biểu lộ qua thái độ chững chạc của mình chứng tỏ ông ta không phải là một con người bạc ác bất nhân hoặc không biết xử sự đúng mức trước những tình huống bất ngờ.

- Dù sao tôi cũng muốn đi bằng con đường vòng, không để em tôi nhận ra tôi một cách quá đột ngột.

- Tôi đã thưa với ngài là tôi sẽ giải quyết việc này khiến cho mọi người đều đẹp lòng.

Lúc này, bữa ăn đã được dọn ra, mọi người ngồi vào bàn; Người Tù và các cô gái ăn riêng ở buồng trong. Giữa bữa ăn, Cha xứ cất tiếng nói:

- Thưa ngài bồi thẩm, trong thời gian mấy năm tôi bị cầm tù ở Cônxtantinôpla, tôi có một người bạn cùng tên với ngài. Đó là một quân nhân, một đại úy nổi tiếng dũng cảm trong các đơn vị bộ binh Tây Ban Nha. Thế nhưng, anh ta càng dũng cảm bao nhiêu lại càng bất hạnh bấy nhiêu.

- Thưa ngài, viên đại úy đó tên gì? ông bồi thẩm hỏi.

Cha xứ đáp:

- Tên anh ta là Rui Pêrêx đê Viếtma, quê tại một làng ở miền núi Lêôn. Anh ta có kể cho tôi nghe một câu chuyện về cha anh và các em trai của anh. Quả thật, nếu không do một người đứng đắn như anh ta kể, tôi sẽ nghĩ rằng đó là một câu chuyện hoang đường mà các bà lão thường kể trong đêm đông, bên cạnh ngọn lửa hồng. Anh ta kể với tôi rằng cha anh đã chia gia tài cho ba con trai và khuyên bảo họ những lời còn chí tình hơn cả Catôn. Nghe theo lời cha, anh chọn nghề võ, và tôi có thể nói được rằng nghề đó đã làm cho anh vinh hiển vì chỉ trong có mấy năm sau, nhờ sự dũng cảm và cố gắng bản thân, nhờ vào những đức tính của mình, anh đã lên tới chức đại úy bộ binh và cứ cái đà ấy thì chẳng bao lâu anh sẽ được thăng chức đại tá. Thế nhưng vận rủi đã đến với anh vì chính ở chỗ anh đặt hy vọng bao nhiêu thì lại gặp thất vọng bấy nhiêu: anh đã bị mất tự do trong cái ngày đầy hạnh phúc tự do đối với bao nhiêu người khác, đó là ngày xảy ra trận Lêpantô. Tôi bị bắt trong trận La Gôlêta. Trải qua nhiều biến cố, chúng tôi kết bạn với nhau ở Cônxtantinôpla. Sau đó, anh ta đi Arhêl và tôi được biết rằng tại đó anh đã gặp một trong những chuyện kỳ lạ nhất trên đời.

Tiếp tục câu chuyện, Cha xứ kể vắn tắt cuộc gặp gỡ giữa Người Tù với Dôraiđa. Ông bồi thẩm lắng tai nghe và, có thể nói rằng trong cuộc đời làm bồi thẩm của ông cho tới nay, chưa bao giờ ông chăm chú nghe như vậy. Cha xứ dừng lại ở đoạn bọn cướp biển Pháp lột hết của cải của những người Ki-tô giáo ở giữa biển khơi khiến cho bạn ông và cô gái Môrô xinh đẹp lâm vào cảnh nghèo khổ thiếu thốn; ông nói:

- Từ đấy, tôi không biết tình hình của họ ra sao, không hiểu có tới được đất Tây Ban Nha không hay đã bị bọn cướp đưa về Pháp rồi.

Ngồi nấp một chỗ gần đó, viên đại úy vừa chú ý nghe Cha xứ nói, vừa quan sát thái độ của em mình. Nghe Cha xứ kể xong, ông bồi thẩm thốt ra một tiếng thở dài não nuột, rưng rưng nước mắt nói:

- Ôi, thưa ngài, nếu ngài biết rằng những điều ngài vừa kể đã làm tôi xúc động chừng nào và đã khiến tôi không cầm được nước mắt mặc dù tôi cố giữ không để trào ra! Viên đại úy dũng cảm mà ngài vừa nhắc tới chính là anh trai tôi. Với một tinh thần và một ý chí cao cả hơn cả tôi và em tôi, anh đã chọn con đường vinh quang của chiến tranh, một trong ba con đường mà cha tôi đã vạch ra cho chúng tôi như anh tôi đã kể với ngài khiến ngài tưởng đó là chuyện hoang đường. Còn tôi theo nghề khoa cử và phần nhờ Chúa, phần nhờ vào sự cần cù của bản thân, tôi đã được như ngày nay. Em trai tôi hiện đang sống ở Pêru; nó rất giàu có và số tiền nó gửi về cho cha tôi và tôi không những ngang với số tiền cha tôi đã chia cho nó mà còn đủ để cha tôi thỏa mãn tính hoang toàng của người. Cũng với số tiền đó, tôi đã có thể theo học một cách ung dung đàng hoàng và đạt được một địa vị như ngài thấy. Cha tôi còn sống và mong mỏi được biết tin về đứa con cả của mình; hàng ngày người vẫn cầu nguyện Chúa đừng để cho cái chết bắt người phải nhắm mắt trước khi người nhìn thấy đôi mắt đầy sức sống của con trai mình. Tôi cũng lấy làm lạ vì xưa nay anh tôi là một người khôn ngoan, vậy mà qua bao khó khăn trắc trở cũng như thành đạt, anh tôi không hề báo tin về cho cha tôi vì rằng nếu cha tôi hoặc anh em chúng tôi biết chuyện này, anh tôi sẽ không cần phải trông cậy vào cây sào màu nhiệm để tự chuộc mình. Giờ đây, điều làm tôi lo lắng là không biết bọn Pháp có thả anh tôi ra không hay đã giết chết để che lấp hành động ăn cướp của chúng. Ý nghĩ đó khiến tôi không còn bụng dạ nào tiếp tục cuộc hành trình này một cách vui vẻ như khi mới ra đi; trái lại nó làm cho tôi trở nên buồn phiền trên quãng đường sắp tới. Ôi, anh trai yêu quý của em! Ai có thể chỉ cho em biết giờ đây anh đang ở nơi nao để em tới tìm và giải thoát cho anh khỏi cảnh khổ ải dù em có phải chịu đựng mọi khó khăn! Ôi, ai sẽ đi báo tin cho người cha già của chúng ta rằng anh vẫn còn sống! Dù anh đang bị giam cầm trong những hầm ngục sâu nhất ở xứ Berbêria; hai em trai của anh cũng sẽ dùng của cải của mình để đưa anh ra khỏi nơi đó. Ôi, cô gái Dôraiđa xinh đẹp và hào hiệp! Ai có thể báo đền được ân sâu nghĩa nặng của cô đối với anh trai tôi! Ai có thể được dự ngày phục sinh của linh hồn cô và ngày hôn lễ của cô, những ngày hạnh phúc đối với chúng tôi!

Nghe tin về anh mình, ông bồi thẩm đã thốt ra những lời xót xa như vậy khiến mọi người có mặt đều tỏ vẻ ái ngại trước nỗi đau buồn của ông. Thấy ý đồ của mình và điều mong muốn của viên đại úy đã có kết quả tốt, Cha xứ không muốn kéo dài những phút giây nặng nề cho mọi người; ông đứng lên đi vào buồng của Dôraiđa cầm tay nàng dắt ra, theo sau có Luxinđa, Đôrôtêa và con gái ông bồi thẩm. Viên đại úy còn đang chờ xem Cha xứ làm gì tiếp thì thấy ông ta cầm luôn tay mình và dẫn cả hai người đến trước mặt ông bồi thẩm và những kỵ sĩ theo hầu; ông nói:

- Xin ngài bồi thẩm hãy ngừng nước mắt lại; điều mong ước của ngài đã được toại nguyện vì trước mặt ngài là anh trai và chị dâu yêu quý của ngài. Đây là đại úy Viếtma, còn đây là cô gái Môrô xinh đẹp đã hết lòng giúp đỡ chàng. Bọn cướp biển Pháp đã làm cho hai người trở nên nghèo khổ để giờ đây ngài có dịp tỏ rõ tấm lòng hào hiệp của mình.

Viên đại úy chạy lại ôm lấy em; thoạt tiên, ông bồi thẩm giơ hai tay ra cản để nhìn cho rõ; đến lúc đã nhận ra anh mình, ông ôm hôn thắm thiết, mừng quá phát khóc khiến đa số những người có mặt cũng không cầm được nước mắt. Không ai có thể tưởng tượng được - và càng không thể mô tả được - hai anh em đã nói với nhau những lời lẽ như thế nào và đã bộc lộ tình cảm đến mức nào. Họ kể cho nhau nghe những đoạn đường đã trải qua, biểu lộ những tình cảm ruột thịt mặn mà. Ông bồi thẩm ôm hôn Dôraiđa, hứa sẽ nhường gia tài cho, rồi ông bảo con gái ôm hôn nàng. Nhìn cô gái Tây Ban Nha xinh đẹp và cô gái Môrô tuyệt thế ôm nhau, mọi người lại một phen nữa xúc động rơi nước mắt. Đôn Kihôtê lặng yên quan sát, trong bụng lấy làm sửng sốt lắm, cảm thấy những chuyện đó đều là những hư ảo của nghề hiệp sĩ giang hồ. Mọi người quyết định để viên đại úy và Dôraiđa cùng đi với ông bồi thẩm về Xêviia báo tin cho cha biết việc hai anh em đã tìm thấy nhau sau khi viên đại úy thoát khỏi cảnh tù đày để, nếu có thể, ông ta sẽ tới dự đám cưới và lễ làm phép thông công của Dôraiđa. Sở dĩ phải giải quyết gấp như vậy để ông bồi thẩm kịp đi nhậm chức vì có tin là trong vòng một tháng sẽ có một đoàn tàu rời bến Xêviia đi Tân Tây Ban Nha 1, nếu bỏ lỡ dịp đó thì rất phiền. Tóm lại, mọi người đều vui vẻ hả hê thấy Người Tù đã gặp may mắn. Lúc này đã quá nửa đêm, mọi người bảo nhau đi nghỉ. Đôn Kihôtê nhận nhiệm vụ canh gác lâu đài e có tên khổng lồ hoặc một kẻ xấu xa nào thấy trong đó có những giai nhân tuyệt thế mà đem lòng thèm muốn liều lĩnh tấn công chăng. Đã biết tính Đôn Kihôtê, mọi người chỉ cảm ơn; khi nghe giới thiệu về bệnh điên rồ kỳ lạ của chàng hiệp sĩ, ông bồi thẩm lấy làm thú vị lắm. Riêng Xantrô Panxa rất khổ vì phải ngủ muộn; bác thu xếp được một chỗ ngủ tươm tất hơn cả với bộ yên lừa của mình, bộ yên sẽ mang họa lớn đến cho bác như sẽ kể dưới đây.

Sau khi các cô gái lui vào buồng và đám đàn ông cũng đã tạm xếp được chỗ nghỉ, Đôn Kihôtê bước ra ngoài lâu đài làm nhiệm vụ canh gác như chàng đã nhận.

Vào lúc tảng sáng, bỗng đâu các cô gái thấy vọng lên một tiếng hát rất êm ái du dương khiến họ phải lắng tai nghe, đặc biệt là Đôrôtêa vì nàng vẫn thức; nằm bên cạnh Đôrôtêa là Đônha Clara đê Viếtma - tên con gái ông bồi thẩm. Không thể đoán được người có giọng hát hay như vậy là ai, chỉ biết người đó hát không có nhạc đệm, tiếng hát vọng lên khi ở trong sân, lúc ở gần tàu ngựa. Trong khi các cô gái còn vừa chăm chú nghe vừa băn khoăn tự hỏi, Carđêniô tới trước cửa buồng nói vọng vào:

- Ai còn tỉnh hãy lắng nghe tiếng hát của một chàng chăn la, tiếng hát thật mê hồn.

- Chúng tôi đã nghe thấy rồi, Đôrôtêa đáp.

Carđêniô đi khỏi, Đôrôtêa lắng tai chăm chú thì nghe thấy tiếng ca rằng:



--------------------------------
1Tức là châu Mỹ.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes

Chương XLIII

CÂU CHUYỆN LÝ THÚ VỀ CHÀNG CHĂN LA CÙNG NHỮNG SỰ VIỆC LẠ LÙNG KHÁC XẲY RA TRONG QUÁN TRỌ


"Ta là người lính thủy si tình.
trên biển tình mông mênh
ta bơi mỏi không hy vọng
tìm đâu thấy bến bờ,
Ta hướng theo ngôi sao
hiện ra ở chân trời xa,
ngôi sao sáng và đẹp
hơn những ngôi sao hiện ra trước mắt Palinurô 1
Ta không biết ngôi sao dẫn ta tới đâu,
ta cứ bơi, mù quáng,
lòng đầy tin tưởng hướng theo,
không chút hoài nghi lo ngại.
Một sự dè dặt đáng trách,
một sự đứng đắn quá đỗi,
là những đám mây phủ kín
mỗi khi ta căng mắt nhìn theo.
Hỡi ngôi sao sáng tỏ
khiến ta nhọc lòng đeo đuổi!
Khi ánh sáng của mi bị che lấp
là lúc ta lìa bỏ cõi đời".

Nghe tới đó, Đôrôtêa nghĩ là không thể để Clara lỡ dịp thưởng thức một giọng hát hay như vậy, nàng bèn lay cô gái dậy và nói:

- Em tha lỗi cho chị đã đánh thức em; chỉ vì chị muốn em được thưởng thức một giọng hát hay tuyệt trần, có lẽ em chưa từng nghe thấy bao giờ.

Còn đang ngái ngủ, thoạt đầu Clara không hiểu Đôrôtêa nói gì, phải hỏi lại; đến khi Đôrôtêa nói rõ, cô vội chăm chú nghe. Mới nghe người hát được mấy câu, toàn thân cô run bần bật như đột nhiên lên cơn sốt rét nặng; cô ôm chặt Đôrôtêa và nói:

- Ôi, chị yêu dấu của linh hồn và cuộc đời em! Chị gọi em dậy làm chi? Điều hạnh phúc nhất mà số mệnh mang đến cho em lúc này là hãy bưng tai bưng mắt em lại để em khỏi phải nghe và nhìn thấy ca sĩ bất hạnh đó.

- Em nói gì vậy? Nghe đâu người đang hát là một chàng chăn la kia mà.

- Không phải đâu, Clara đáp; chàng làm chủ nhiều vùng đất đai và còn làm chủ linh hồn em nữa, và nếu chàng không chịu buông tha em ra, chắc chắn em sẽ phải gắn bó với chàng suốt đời.

ĐôRôtêa lấy làm ngạc nhiên trước những lời lẽ già giặn của cô gái và cảm thấy cô khôn ngoan trước tuổi; nàng nói:

- Clara, những điều em vừa nói khiến chị không sao hiểu nổi. Hãy nói rõ hơn cho chị biết thế nào là linh hồn, đất đai, và ca sĩ có giọng hát làm em phải bối rối đó là ai. Nhưng khoan đã, chị không muốn vì phải để tâm tới nỗi kinh hoàng của em mà bỏ lỡ một dịp thưởng thức tiếng hát lúc này đang chuyển sang một bài khác.

- Xin chiều ý chị, Clara nói.

Để khỏi phải nghe, cô ta lấy tay bịt chặt hai tai khiến Đôrôtêa càng ngạc nhiên. Ca sĩ tiếp tục hát lên rằng:

"Hỡi niềm hy vọng êm dịu của ta, vượt qua mọi gian lao vất vả, mi vẫn bền gan dấn bước vào con đường mà mi đã tự vạch ra; chớ nản chí khi thấy mỗi bước của mi tiến gần tới cõi chết.
Những kẻ biếng nhác không giành được những chiến công huy hoàng, và những kẻ không dám đương đầu với số phận, chỉ muốn ăn không ngồi rồi, cũng không thể có hạnh phúc.
Nếu phải trả giá đắt để chiếm được tình yêu, điều đó cũng rất công bằng hợp lý vì có vật quý nào quý hơn tình yêu, và hiển nhiên không ai ca tụng một việc tốn ít công sức bao giờ.
Sự nhẫn nại trong tình yêu có khi làm được những việc tưởng không vượt nổi; vì tình yêu, ta một lòng theo đuổi mục đích khó khăn nhất, và ta vẫn hy vọng một ngày kia đạt tới đỉnh cao của hạnh phúc".

Tiếng ca vừa dứt thì lại nổi lên những tiếng thổn thức của Clara khiến Đôrôtêa càng muốn biết nguyên nhân vì sao có những lời ca êm dịu cùng những tiếng nức nở não nuột như vậy. Nàng trở lại vấn đề đã hỏi Clara lúc trước. Sợ Luxinđa nghe thấy, Clara ôm chặt Đôrôtêa, ghé sát vào tai nàng nói để không ai nghe được:

- Thưa chị, người vừa hát xong là con trai một nhà quý tộc ở vương quốc Aragôn, chủ nhân hai lãnh địa. Chàng ở trước cửa nhà cha em tại kinh kỳ và đang đi học. Tuy cha em đã che kín các cửa sổ bằng những tấm màn về mùa đông và những bức mành về mùa hạ, em không hiểu chàng đã nhìn thấy em ở đâu, ở nhà thờ hay một chỗ nào khác, và cuối cùng chàng đã nặng lòng yêu em; từ cửa sổ nhà chàng, chàng đã tỏ tình bằng những cử chỉ và những giọt nước mắt khiến em phải tin, rồi từ tin đến yêu, tuy em không biết rõ ý tứ của chàng ra sao. Một trong những cử chỉ của chàng là nắm hai tay vào nhau, ý muốn bảo em là chàng sẽ cưới em. Thấy vậy, lòng em dạt dào niềm vui sướng nhưng vì có một thân một mình, mẹ chết sớm, nên em không biết tâm sự với ai; để làm vừa lòng chàng, mỗi khi cha em và cha chàng vắng nhà, em chỉ có thể kéo tấm màn hay bức mành lên một chút để chàng nhìn thấy em. Những lúc đó, chàng vui mừng hớn hở, tưởng chừng hóa điên. Vào quãng thời gian ấy, cha em phải đổi đi xa; chàng biết tin nhưng không do em báo vì bản thân em không làm được việc đó. Theo chỗ em biết, chàng đã phát ốm vì buồn phiền; hôm cha con em ra đi, em không sao gặp được chàng để từ biệt dù chỉ qua khóe mắt. Thế rồi, sau hai ngày đi, một hôm trong khi vào nghỉ tại một quán trọ ở một làng cách đây một ngày đường, em trông thấy chàng đứng trước cửa quán, cải trang làm một người chăn la, nom giống hệt, và nếu như hình ảnh của chàng không khắc sâu vào tâm khảm em, chắc chắn em không nhận ra nổi. Em vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Chàng liếc nhìn em, không để cha em biết; từ hôm đó, mỗi khi đi qua mặt em trên đường hoặc trong các quán trọ, chàng cố tránh gặp cha em. Vì em đã nhận ra chàng và hiểu rằng chàng đã phải long đong vất vả vì yêu em, em buồn muốn chết và mắt em không ngừng dõi theo những dấu chân của chàng. Em không biết chàng đi theo để làm gì và đã trốn khỏi nhà như thế nào; cha chàng rất yêu quý chàng vì chàng là người thừa kế duy nhất và chàng cũng rất xứng đáng được cha yêu quý như chị sẽ thấy khi gặp chàng. Em xin thưa thêm là tất cả những bài chàng hát đều do chàng soạn ra vì em nghe nói chàng học giỏi và làm thơ hay. Mỗi lần gặp chàng hoặc nghe chàng hát, em run lên vì hoảng sợ, chỉ lo cha em nhận ra chàng và biết được ý đồ của hai chúng em. Em chưa hề nói với chàng một lời nhưng em đã yêu chàng tới mức không thể sống được nếu vắng chàng. Thưa chị, em đã kể hết những điều có thể kể được về ca sĩ có giọng hát khiến chị phải hài lòng; qua giọng hát đó thôi, chị sẽ biết được rằng chàng không phải là người chăn la như chị đã tưởng mà là chủ nhân của linh hồn và lãnh địa như em đã thưa với chị.

- Clara, em đừng kể nữa, Đôrôtêa vừa nói vừa ôm Clara hôn lấy hôn để; đừng tiếp tục nữa; hãy chờ cho đêm qua ngày tới; chị hy vọng rằng Chúa sẽ thu xếp cho và cuối cùng cuộc tình duyên của hai em sẽ kết thúc tốt đẹp như lúc mở đầu.

- Chị ơi, làm sao có thể hy vọng được một sự kết thúc tốt đẹp được vì cha chàng rất danh giá và giàu có, em làm đầy tớ cho chàng không xong nói chi làm vợ! Còn như bảo em cứ lấy chàng không để cha em biết, em sẽ không bao giờ làm dù được tất cả của cải trên đời này. Em chỉ mong sao chàng trai đó quay gót trở về nhà và buông tha em; một khi không nhìn thấy chàng và sống xa chàng, có lẽ nỗi phiền muộn hiện tại của em sẽ vợi dần mặc dù em có thể nói rằng phương thuốc đó đối với em cũng ít có hiệu quả. Em chẳng biết ma quỷ nào đã xui ra chuyện này và tình yêu đã đến với em bằng con đường nào vì thật tình em còn non trẻ quá và chàng cũng non trẻ quá; chúng em cùng lứa tuổi và riêng em chưa đầy mười sáu. Cha em bảo là đến ngày lễ thánh Mighel tới, em mới tròn mười sáu tuổi.

Nghe những lời lẽ ngây thơ của Clara, Đôrôtêa không sao nín được cười, nàng bảo cô gái:

- Sắp hết đêm rồi, hãy ngủ đi thôi; Chúa sẽ làm trời sáng và rồi mọi việc sẽ tốt đẹp hơn nếu không chị cứ xin đi bằng đầu.

Hai chị em đi ngủ. Trong quán trọ im phăng phắc, chỉ còn con gái chủ quán và cô hầu Maritornêx vẫn thức. Đã biết tính nết gàn dở của Đôn Kihôtê, lại thấy chàng khoác vũ khí cưỡi ngựa canh gác ở ngoài sân, hai cô định bụng trêu một mẻ, ít nhất cũng khích chàng nói ra những câu ngớ ngẩn để giết thời giờ.

Trong quán trọ không có một cái cửa sổ nào trông ra ngoài đồng mà chỉ có một lỗ hổng nhỏ ở kho chứa rơm để quăng rơm từ bên ngoài vào. Hai cô leo lên lỗ hổng nhìn ra sân thì thấy Đôn Kihôtê cưỡi ngựa, tay tựa vào ngọn giáo, chốc chốc lại thốt ra những tiếng thở dài não nuột, mỗi lần như vậy tưởng đâu hồn chàng sắp lìa khỏi xác; rồi lại nghe thấy chàng cất lên những lời lẽ dịu dàng, âu yếm, tình tứ như sau:

- Hỡi nàng Đulxinêa làng Tôbôxô của ta, nhan sắc tuyệt vời, trí tuệ vô biên, đỉnh cao của duyên dáng, kho vô tận của lòng chung thủy và, cuối cùng, hình ảnh của tất cả những gì tốt tươi, cao đẹp và đáng yêu trên đời! Nàng đang làm gì vậy? Chẳng hay nàng có đoái hoài tới hiệp sĩ nô lệ của nàng đã vui lòng hứng bao gian nguy để phụng sự nàng chăng? Hỡi nguyệt cầu ba mặt 2, hãy cho ta biết tin về nàng! Có lẽ mi ghen tức với khuôn mặt xinh đẹp của nàng và đang mải ngắm nàng dạo chơi trong hành lang của những cung điện tráng lệ hoặc tựa mình vào lan can suy nghĩ tìm cách nào để dẹp được cơn bão táp giày vò con tim ta mà không tổn thương tới tấm lòng trinh bạch và thanh danh của nàng, để mang lại vinh quang cho những gian khổ của ta, sự nghỉ ngơi cho những nhọc nhằn của ta và, cuối cùng, mang lại cuộc sống cho cái chết của ta và phần thưởng cho công lao của ta. Hỡi vầng thái dương đang vội vã thắng yên cương cho những con tuấn mã để sớm được ló mặt ra nhìn tình nương của ta! Khi gặp nàng, hãy chuyển hộ những lời thăm hỏi của ta; trong lúc chúc nàng bằng an, chớ hôn lên mặt nàng, ta có máu ghen đấy, còn ghen hơn cả khi ngươi say mê nữ thần bạc bẽo đã bắt ngươi chạy vã mồ hôi qua đồng bằng Têxalia hay dọc theo bờ con sông Pênêô gì đó, vì quả thật ta không nhớ rõ ngươi chạy qua những nơi nào 3.

Đôn Kihôtê đang than vãn tới đoạn này thì con gái chủ quán đằng hắng và nói:

- Xin ngài hãy quá bộ lại đây.

Thấy có tiếng gọi, Đôn Kihôtê quay đầu lại; dưới ánh trăng vằng vặc, chàng nghe có tiếng nói từ trên lỗ hổng vọng xuống (đối với chàng, đó là một khung cửa sổ với những chấn song thếp vàng thường thấy trong những lâu đài nguy nga đồ sộ vì chàng vẫn đinh ninh quán trọ là lâu đài). Cũng giống như lần trước nghỉ tại quán trọ này, với một trí tưởng tượng điên rồ, chàng nghĩ ngay rằng cô con gái xinh đẹp của chủ nhân lâu đài lại lên tiếng tỏ tình vì quá say mê chàng. Để tỏ ra là một người lịch thiệp và biết ơn, chàng giật cương bắt con Rôxinantê quay lại và đi về phía lỗ hổng; tới nơi, thấy có hai cô gái, chàng nói:

- Tiểu thư xinh đẹp, tôi lấy làm ái ngại hộ nàng vì nàng đã gửi gắm tâm tình cho một người không có khả năng đáp ứng được mặc dù tài sắc của nàng xứng đáng được hưởng. Nàng cũng chớ nên kết tội hiệp sĩ giang hồ khốn nạn này; tình yêu khiến tôi không thể trao duyên cho một ai khác ngoài con người mà tôi đã tôn thờ là chủ nhân độc nhất của linh hồn mình ngay từ buổi gặp gỡ đầu tiên. Nàng hãy tha thứ cho kẻ này và hãy lui về phòng riêng. Xin đừng tỏ tình nữa và đừng buộc tôi trở thành kẻ vô ơn. Với những tình cảm của nàng đối với tôi, nếu nàng thấy tôi có thể thỏa mãn nàng ở một lĩnh vực nào khác ngoài tình yêu, xin cho tôi được biết. Có kẻ thù dịu hiền của tôi làm chứng mặc dù nàng không có mặt tại đây, tôi thề sẽ giúp đỡ nàng ngay tức thì, dù nàng yêu cầu tôi lấy cho nàng mớ tóc toàn bằng rắn độc của con quỷ Mêđuxa hoặc ngay cả những tia mặt trời cất trong bình nhỏ.

- Bà chủ tôi không cần tới những thứ đó, cô hầu Maritornêx đáp.

- Vậy bà chủ cô cần gì, hỡi cô hầu khôn ngoan?

- Bà chủ tôi chỉ muốn được cầm một trong hai bàn tay đẹp đẽ của ngài để thỏa mãn nỗi ước ao đã khiến nàng phải leo lên tận đây, một việc làm phương hại tới danh dự của nàng vì nếu cha nàng biết, ít nhất người cũng xẻo tai nàng.

- Ta chỉ mong được thấy việc đó! Đôn Kihôtê đáp. Nhưng ông ta sẽ không dám làm nếu không muốn trở thành người cha xấu xa nhất trên đời vì đã xúc phạm tới những bộ phận mảnh dẻ nhất của người con gái si tình.

Maritornêx đoán chắc là Đôn Kihôtê sẽ đưa tay ra theo yêu cầu. Sau khi tính toán công việc phải làm, cô ta đi xuống chuồng ngựa lấy cái dây tròng cổ lừa của Xantrô Panxa rồi vội vã quay trở về chỗ cũ vừa lúc Đôn Kihôtê đứng lên yên con Rôxinantê để với tay tới cái cửa sổ song sắt trên đó - theo trí tưởng tượng của chàng - có cô gái đau khổ; chàng chìa tay ra và nói:

- Xin nàng hãy cầm bàn tay này, búa rìu đối với những kẻ bất lương trên đời. Xin cầm lấy bàn tay mà cho tới giờ chưa một người đàn bà nào động tới, kể cả con người đã hoàn toàn làm chủ thể xác của tôi. Tôi đưa tay ra đây không phải để cho nàng hôn mà để nàng nhìn thấy những đường gân thớ thịt đã được cấu tạo như thế nào, những mạch máu to lớn nhường nào, từ đó nàng sẽ nhận thấy rằng một cánh tay có bàn tay như vậy phải dũng mãnh tới mức nào.

- Được, rồi sẽ thấy, vừa nói Maritornêx vừa dùng sợi dây tròng lừa tết một cái thòng lọng luồn qua cổ tay Đôn Kihôtê, rồi cô ả xuống nhà dưới buộc chặt đầu dây kia vào quả đấm cửa kho rơm.

Cảm thấy sợi dây thít chặt cổ tay, Đôn Kihôtê bèn bảo:

- Hình như nàng mài vào bàn tay tôi chứ không vuốt ve nó thì phải; xin chớ hành hạ bàn tay vì nó không có tội tình gì; chính tôi mới là kẻ gây ra nỗi đau khổ cho nàng; vả chăng, trút hết nỗi tức giận vào một bộ phận nhỏ bé như vậy cũng chẳng hay ho gì. Xin nhớ là đã yêu nhau lắm thì không nên cắn nhau đau.

Đôn Kihôtê nói nhưng có ai nghe đâu vì sau khi Maritornêx buộc tay chàng, cô ả cùng con gái chủ quán cười rũ, chuồn thẳng, mặc chàng với sợi dây siết chặt cổ tay, không sao gỡ được.

Thế là Đôn Kihôtê cứ phải đứng trên lưng con Rôxinantê, một cánh tay luồn qua lỗ hổng, cổ tay bị buộc chặt vào quả đấm cửa, trong bụng phấp phỏng chỉ e con ngựa tiến hoặc thoái một bước là chàng sẽ bị treo tay, lơ lửng trên không. Và tuy Rôxinantê là một con vật nhẫn nại nhu mì có thể đứng lì suốt một thế kỷ không hề nhúc nhích, chàng cũng không dám cử động. Cuối cùng, nhìn cảnh mình bị trói, các tiểu thư đã bỏ đi, Đôn Kihôtê nghĩ là lại có chuyện yêu ma pháp thuật gì đây, giống như lần trước chàng bị tên Môrô - tức là anh chàng lái la - đánh cho nhừ tử cũng ngay ở trong lâu đài này. Chàng tự trách mình thiếu thận trọng và suy nghĩ, lần trước đã không gặp may, lần này còn quay trở lại, một việc không nên làm vì đối với người hiệp sĩ giang hồ, một khi đã thất bại trong một cuộc phiêu lưu mạo hiểm thì đó là điềm báo hiệu rằng cuộc phiêu lưu đó không dành cho mình mà cho người khác, không cần phải thử lần thứ hai nữa. Suy nghĩ xong, chàng giật giật cánh tay bị trói xem có thể gỡ ra được chăng, nhưng vì cổ tay bị buộc quá chặt nên mọi cố gắng của chàng đều vô hiệu. Quả thật chàng chỉ dám giật rất nhẹ để con Rôxinantê khỏi lồng lên; chàng muốn ngồi xuống yên mà không được, nếu không muốn đứng thì chỉ có cách chặt cánh tay đi thôi.

Chàng ước mong có trong tay thanh gươm của Amađix, một thanh gươm có sức mạnh trừ được mọi phép yêu ma; chàng nguyền rủa số phận; chàng lo rằng trong lúc bị yêu thuật giam chân tại đây (quả là chàng tin như vậy), chàng sẽ vắng mặt trên cõi đời; chàng nhớ tới người yêu là nàng Đulxinêa làng Tôbôxô; chàng gọi Xantrô Panxa, giám mã trung thành lúc này đang ngủ như chết trên bộ yên lừa, không nhớ tới người mẹ đã sinh ra mình; chàng kêu gọi các pháp sư Lirganđêô và Alkiphê giúp đỡ; chàng cầu cứu bà bạn Urganđa tốt bụng. Lúc này, trời bắt đầu sáng. Trong lòng thất vọng, lo âu, Đôn Kihôtê rống lên như bò mộng. Chàng không tin rằng trời sáng sẽ giải thoát cho chàng khỏi nỗi khổ cực này mà chàng coi là vĩnh cửu vì do yêu thuật gây nên. Chàng đinh ninh là thế vì thấy con Rôxinantê cứ đứng ì ra. Chàng nghĩ rằng chàng và con ngựa sẽ phải chịu chung một số phận, không ăn uống, không ngủ nghê, cho tới khi ảnh hưởng xấu của những ngôi sao chiếu mệnh qua đi, hoặc cho tới khi có một pháp sư nào giải trừ phép yêu ma cho.

Nhưng chàng đã nghĩ nhầm. Trời vừa sáng thì có bốn kỵ sĩ tới quán trọ, người nào người nấy áo quần chỉnh tề, ngay ngắn, súng đeo yên ngựa. Thấy cửa đóng, họ đập thình thình. Đôn Kihôtê đã nhìn thấy họ vì chàng vẫn không bỏ nhiệm vụ canh gác; chàng hiên ngang thét to:

- Dù là hiệp sĩ, giám mã hay là ai chăng nữa, các ngươi cũng không được gọi cửa lâu đài này. Rõ ràng là vào giờ này đây, những người ở trong lâu đài còn đang ngủ hoặc là, theo lệ, người ta không mở cổng thành chừng nào mặt trời chưa tỏa ánh sáng lên khắp mặt đất. Hãy lui ra chờ cho tới khi sáng trời, lúc đó chúng tôi sẽ xét xem có nên mở hay không.

Một kỵ sĩ nói:

- Có thành quách lâu đài quỷ quái gì đâu mà bắt chúng tôi tuân theo những lễ nghi đó? Nếu ông là chủ quán, hãy gọi người ra mở cửa; chúng tôi là khách qua đường, chỉ tạt vào đây mua ít lúa đại mạch cho ngựa rồi lại đi ngay vì chúng tôi đang vội.

- Các ngài trông tôi giống một ông chủ quán lắm sao? Đôn Kihôtê hỏi.

- Tôi chẳng biết ông giống ai, chỉ biết là ông nói năng lung tung vì đã gọi cái quán trọ này là lâu đài.

- Không những là lâu đài mà còn là một trong những lâu đài to đẹp nhất trong tỉnh này; và ở trong đó có người tay cầm vương trượng, đầu đội vương miện nữa kia.

- Ngược lại thì đúng hơn: vương trượng đội đầu và vương miện cầm tay. Chắc là trong đó có đám con hát thường hay dùng tới những vương miện và vương trượng mà ông vừa nói, vì tôi không tin rằng một quán trọ nhỏ bé và im ắng như thế này lại có những người có vương miện và vương trượng trú ngụ.

- Ông ít hiểu chuyện đời, chứng cớ là ông không biết những trường hợp thường xảy ra trong nghề hiệp sĩ giang hồ.

Ba kỵ sĩ kia phát ngán về cuộc đối thoại giữa người bạn của họ với Đôn Kihôtê; họ lại gọi ầm ĩ khiến chủ quán và mọi người trong quán trọ đều tỉnh dậy; chủ quán vội lên tiếng hỏi. Giữa lúc đó, một trong bốn con ngựa của đám khách mới tới chạy lại ngửi ngửi hít hít con Rôxinantê lúc này đang đứng ủ rũ, buồn rầu, tai cụp, toàn thân không nhúc nhích, trên lưng mang thân hình cao lêu đêu của ông chủ. Vì cũng là xương là thịt cả (tuy trông nó có vẻ khô như củi) Rôxinantê không thể không động lòng, và nó cũng ngửi hít con vật đang vuốt ve nó. Trong lúc thân nó động đậy, hai bàn chân của Đôn Kihôtê trượt ra khỏi yên, nếu cổ tay không bị trói ắt chàng đã ngã nhào xuống đất. Người chàng lơ lửng, đầu ngón chân vừa là là mặt đất khiến chàng đau đớn vô cùng, tưởng cổ tay bị cứa đứt hoặc cánh tay rời ra. Đã thế, vì thấy chỉ còn một ly nữa là đặt được cả hai bàn chân xuống đất, chàng càng ra sức giãy giụa, chẳng khác gì những người bị tội treo tay 4 tưởng lầm là cứ nhoài được người ra thì chân sẽ chạm đất, càng cố càng thêm đau đớn.


--------------------------------
1Một nhân vật trong thần thoại Hy Lạp, chỉ huy hạm đội Ênêax.
2Ý nói ba giai đoạn của tuần trăng: thượng tuần, mãn nguyệt và hạ tuần.
3Vầng thái dương, tức là thần Ánh sáng Apôlô, đuổi theo nữ thần Đaphênê, khi sắp bắt được Đaphênê hóa thành cây nguyệt quế.
4Phạm nhân bị treo hai cổ tay, chân đeo sắt nặng, toàn thân lơ lửng sát mặt đất.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes

Chương XLIV

TIẾP TỤC NHỮNG CHUYỆN KỲ LẠ TRONG QUÁN TRỌ



Nghe tiếng kêu thất thanh của Đôn Kihôtê, chủ quán lật đật mở cửa hốt hoảng chạy ra xem ai kêu la như vậy. Maritornêx cũng đã tỉnh dậy vì những tiếng kêu của chàng hiệp sĩ, và ả đã đoán ra chuyện gì; ả lẳng lặng đến kho rơm tháo đầu dây buộc vào quả đấm cửa khiến Đôn Kihôtê ngã vật ra đất. Thấy vậy, chủ quán và những người khách mới tới vội chạy lại hỏi chàng vì sao kêu la như vậy. Chẳng nói chẳng rằng, Đôn Kihôtê tháo cái thòng lọng ở cổ tay, đứng dậy leo lên con Rôxinantê, tay ôm khiên, tay cầm lăm lăm ngọn giáo, phi một vòng ra cánh đồng rồi từ từ quay trở lại và nói:

- Nếu có kẻ nào bảo rằng ta đã bị phù phép, ta sẽ cải chính và thách đọ sức tay đôi với ta nếu như công chúa Micômicôna cho phép ta làm việc đó.

Trước những lời lẽ của Đôn Kihôtê, đám khách mới tới lấy làm sửng sốt; họ chỉ hết ngạc nhiên sau khi chủ quán giới thiệu tính nết của chàng hiệp sĩ và khuyên họ không nên quan tâm vì chàng là một kẻ mất trí.

Bốn kỵ sĩ hỏi chủ quán có thấy một người con trai nào đến quán trọ không; theo họ tả, người con trai đó trạc mười lăm tuổi, mặc quần áo chăn la, hình dạng giống như người yêu của cô gái Clara. Chủ quán đáp là trong quán trọ có rất nhiều khách thành thử bác không biết có người con trai đó hay không. Một kỵ sĩ nhìn thấy cỗ xe ngựa của ông bồi thẩm, bèn nói:

- Chắc chắn là cậu chủ ở đây vì, như lời đồn, đây chính là cỗ xe mà cậu theo đuổi. Một người trong bọn ta hãy đứng canh ở cửa còn những người khác vào trong quán tìm; tốt hơn nữa là nên có thêm một người đi tuần quanh quán trọ để cậu ta không vượt tường đi khỏi đây được.

- Xin chấp hành, một kỵ sĩ đáp.

Thế là hai kỵ sĩ đi vào trong quán, một người đứng cửa, còn một người đi vòng quanh quán trọ. Trước cảnh tượng đó, chủ quán không hiểu họ làm thế để làm gì tuy bác cũng đoán ra rằng họ đi tìm người con trai mà họ vừa tả.
Những tiếng kêu la của Đôn Kihôtê cùng với mặt trời lên đã đánh thức mọi người dậy, đặc biệt là cô gái Clara và Đôrôtêa cả đêm chỉ ngủ chập chờn, một người thì hồi hộp vì người yêu ở ngay bên cạnh, một người vì tò mò muốn nhìn mặt chàng trai nọ. Thấy bốn kỵ sĩ không để ý tới mình và cũng không thèm trả lời mình, Đôn Kihôtê tức điên người; ví thử luật lệ của hiệp sĩ đạo cho phép một hiệp sĩ được can thiệp vào một chuyện khác mặc dù chàng ta đã hứa không nhúng tay vào bất cứ một việc gì chừng nào chưa giải quyết xong điều đã hứa, chàng sẽ tức khắc xông vào quần nhau với cả bốn kỵ sĩ kia và bắt họ phải trả lời. Nhưng cảm thấy mình làm việc đó không ổn chừng nào chưa trao lại ngôi báu cho công chúa Micômicôna, Đôn Kihôtê đành khoanh tay ngậm miệng, chờ xem kết quả công việc của đám khách mới tới. Lúc này, một kỵ sĩ trông thấy người con trai đang ngủ bên cạnh một người giữ la; anh ta ngủ rất thoải mái vì cho rằng không ai đi tìm mình và cũng không ai tìm thấy mình. Kỵ sĩ bèn lay cánh tay anh ta và gọi:

- Cậu Đôn Luix ơi! Bộ quần áo cậu đang mặc thật quả là hợp với con người cậu và cái giường cậu đang nằm cũng thật là xứng đáng với công nuôi dưỡng của bà mẹ cậu đấy nhỉ?

Người con trai giụi đôi mắt ngái ngủ nhìn kỹ người đang nắm cánh tay mình; nhận ra là gia nhân của cha mình, chàng giật thót người, mãi không nói lên lời; người kỵ sĩ nói tiếp:

- Cậu Đôn Luix, bây giờ không còn việc gì khác là cậu hãy chịu khó trở về nhà nếu cậu không muốn cha cậu, tức là chủ tôi, phải sang bên kia thế giới. Sự vắng mặt của cậu làm cho ngài buồn phiền khiến ta không thể hy vọng khác được.

- Nhưng sao cha ta biết ta đi đường này và mặc bộ quần áo này? Đôn Luix hỏi.

- Cậu đã bộc lộ ý định của mình cho một anh học trò; vì ái ngại cha cậu quá thương nhớ cậu nên anh này đã nói lộ ra. Thế là cha cậu phái bốn chúng tôi đi tìm và giờ đây chúng tôi sẵn sàng hầu hạ cậu. Nỗi vui sướng của chúng tôi vượt quá mức tưởng tượng khi nghĩ rằng sẽ đưa được cậu về trước mặt người cha vẫn yêu quý cậu.

- Ta sẽ theo ý ta hoặc theo lệnh trời, Đôn Luix đáp.

- Dù ý cậu hay lệnh trời cũng chỉ là quay trở về nhà mà thôi vì không thể có cách nào khác được.

Anh chàng coi la nằm cạnh Đôn Luix đã nghe được đầu đuôi câu chuyện giữa hai người, bèn chạy đi kể cho Đôn Phernanđô, Carđêniô và tất cả mọi người khác lúc này đã ăn mặc chỉnh tề. Anh ta kể lại rằng kỵ sĩ đã gọi người con trai nọ là Đôn 1, rồi anh nhắc lại những lời hai bên đã nói với nhau, kỵ sĩ thì bảo người con trai trở về nhà bố mẹ, anh này thì không nghe. Vì đã được thưởng thức giọng hát tuyệt vời mà trời ban cho người con trai nọ, nay lại nghe thêm chuyện này, mọi người ao ước muốn biết người con trai đó là ai và, trong trường hợp cần thiết, sẽ giúp đỡ một tay nếu anh bị cưỡng bức đưa về nhà. Họ bèn đi lại thì thấy anh ta vẫn đang tranh luận với người đầy tớ, khăng khăng không chịu về. Lúc này Đôrôtêa ở trong buồng bước ra, theo sau là Đônha Clara với nét mặt bối rối. Đôrôtêa gọi riêng Carđêniô ra một chỗ rồi kể lại vắn tắt câu chuyện của ca sĩ nọ với Đônha Clara. Carđêniô cũng thuật lại cho Đôrôtêa biết việc bốn người hầu của cha người ca sĩ nọ tới quán trọ tìm. Chàng nói khá to cho Clara nghe thấy. Nghe xong, Clara xiết bao kinh hoàng, nếu Đôrôtêa không đỡ kịp ắt nàng đã ngã ra đất. Carđêniô bảo Đôrôtêa đưa Clara về buồng nghỉ, để chàng liệu cách giải quyết.

Bốn kỵ sĩ đi tìm Đôn Luix đã vào cả trong quán trọ; họ xúm quanh chàng và thuyết phục chàng trở về nhà ngay để cha chàng khỏi buồn phiền. Người con trai trả lời dứt khoát là không thể làm việc đó chừng nào chưa giải quyết xong một việc phương hại tới tính mệnh, danh dự và cả linh hồn của mình. Bốn người hầu càng ra sức thúc ép chàng, nói rằng sẽ không khi nào trở về tay không, rằng họ sẽ đưa chàng về dù chàng muốn hay không muốn.

- Các anh sẽ không làm được việc đó, Đôn Luix nói, trừ phi các anh đưa về nhà một cái xác. Dù bằng cách nào chăng nữa, các anh cũng chỉ đưa được tôi về sau khi tôi đã chết.

Cuộc tranh luận khiến mọi người trong quán đổ xô tới, trong số đó có Carđêniô, Đôn Phernanđô cùng các bạn của chàng, ông bồi thẩm, Cha xứ, bác phó cạo Nicôlax; cả Đôn Kihôtê cũng tới vì chàng cảm thấy không cần thiết phải canh gác lâu đài nữa. Đã được biết chuyện riêng của Đôn Luix, Carđêniô hỏi bốn kỵ sĩ nguyên nhân gì khiến họ thúc bách chàng như vậy; một người đáp:

- Vì chúng tôi muốn cứu sống cha cậu. Sự vắng mặt của cậu đang đe dọa tính mạng của ông cụ.

Đôn Luix ngắt lời:

- Không được đem chuyện riêng của ta ra kể ở đây. Ta có toàn quyền hành động và ta sẽ trở về nhà nếu ta muốn, bằng không thì không một người nào trong bọn anh bắt ta về được.

- Lẽ phải sẽ bắt cậu về, một kỵ sĩ đáp; và nếu như cậu không có đủ lẽ phải thì chúng tôi sẽ có đủ để đưa cậu về vì chúng tôi tới đây với nhiệm vụ đó.

- Chúng ta cần phải biết gốc rễ câu chuyện này, ông bồi thẩm lên tiếng.

Kỵ sĩ nhận ra ông bồi thẩm là hàng xóm, bèn nói:

- Thưa ngài bồi thẩm, ngài không nhận ra cậu ấy sao? Cậu đây là con trai người láng giềng của ngài, đã bỏ nhà ra đi. Như ngài thấy đấy, cậu ta ăn mặc thật lố lăng, không hợp với tư cách của mình chút nào.

Ông bồi thẩm nhìn kỹ người con trai và đã nhận ra; ông ôm lấy chàng và hỏi:

- Cậu Đôn Luix, sao lại làm trò trẻ con thế này? Hay là có những nguyên nhân ghê gớm nào thúc đẩy cậu tới đây, trong bộ y phục hoàn toàn không tương xứng với tư cách của cậu như vậy?

Người con trai rơm rớm nước mắt, nghẹn ngào không nói nên lời. Thấy vậy, ông bồi thẩm bảo bốn kỵ sĩ hãy bình tĩnh, rồi mọi việc sẽ ổn thỏa. Ông cầm tay Đôn Luix dắt ra một chỗ riêng rồi hỏi lý do vì sao bỏ nhà ra đi. Vừa hay lúc đó có tiếng la hét ầm ĩ ở cửa quán trọ. Số là có hai ông khách ngủ đêm, nhân lúc mọi người còn đang mải xem bốn kỵ sĩ đi tìm gì, định chuồn thẳng quỵt tiền trọ; nhưng chủ quán vốn chăm lo việc của mình hơn việc người, đã kịp giữ lại vừa lúc họ ra tới cửa và lên tiếng đòi tiền; vì bác quá nặng lời xỉ vả ý đồ xấu xa của họ nên họ đã giở quả đấm ra để đối đáp. Bị đánh túi bụi, bác chủ quán khốn nạn đành phải kêu la cầu cứu. Vợ và con gái chủ quán chỉ thấy Đôn Kihôtê là người rảnh tay có thể ra cứu nguy cho chủ quán được; cô con gái bèn nói với chàng:

- Ngài hiệp sĩ ơi, tôi cầu cứu tới lòng dũng cảm mà Chúa đã ban cho ngài; xin ngài hãy giải nguy cho người cha khốn khổ của tôi đang bị hai kẻ xấu xa đánh đập túi bụi.

Đôn Kihôtê thủng thẳng đáp một cách rất thản nhiên:

- Tiểu thư xinh đẹp, ta không thể đáp ứng lời thỉnh cầu của nàng trong lúc này vì ta không được phép can thiệp vào bất kỳ chuyện phiêu lưu gì khác chừng nào ta chưa giải quyết xong một việc mà ta đã hứa thực hiện. Nhưng điều ta có thể làm được để phụng sự nàng là ta khuyên nàng chạy lại thưa với cha nàng hãy chiến đấu hết sức mình, cố gắng cầm cự trong lúc ta xin phép công chúa Micômicôna cho ta tới cứu nguy; nếu công chúa ưng thuận, nàng có thể chắc chắn là ta sẽ giải thoát cho cha nàng.

Cô hầu Maritornêx cũng có mặt tại đây; nghe Đôn Kihôtê nói vậy, cô kêu lên:

- Lạy Chúa, con là kẻ có tội! Trước khi ngài xin được cái phép mà ngài hỏi, ông chủ tôi đã sang bên kia thế giới rồi.

- Tiểu thư hãy giúp tôi xin được phép đó, Đôn Kihôtê đáp lại. Một khi đã được phép thì dù ông ta có sang bên kia thế giới rồi cũng chẳng hề chi. Tôi sẽ kéo ông ta ra khỏi thế giới bên kia dù cho thế giới bên này phản đối, hoặc ít nhất tôi sẽ trừng trị đích đáng những kẻ đã đưa ông ta sang thế giới bên kia khiến cho nàng phải hài lòng hả hê.

Nói rồi, Đôn Kihôtê tới quỳ trước mặt Đôrôtêa; bằng những lời lẽ của các hiệp sĩ giang hồ, chàng xin công chúa cho phép chàng ra cứu chủ nhân lâu đài đang gặp bước gian nguy. Công chúa vui vẻ nhận lời và thế là chàng hiệp sĩ, tay ôm khiên, tay nắm gươm, xông ngay ra phía cửa sổ ở đó hai người khách trọ vẫn đang đánh đập chủ quán. Vừa tới nơi, Đôn Kihôtê bỗng đứng ngây người, mặc cho Maritornêx và vợ chủ quán rối rít hỏi lý do và thúc giục chàng hãy ra tay cứu chủ quán; chàng đáp:

- Sở dĩ tôi dừng lại vì không được phép cầm gươm đánh nhau với những kẻ hạ lưu. Hãy gọi giám mã Xantrô của tôi lại đây; trận đánh trả thù này chính là công việc của hắn.

Chuyện này xảy ra ngay ở cửa quán trọ, những quả thụi, quả tống cứ nhè vào người chủ quán mà giáng xuống khiến Maritornêx, vợ và con gái chủ quán tức điên người; họ vừa thất vọng về sự hèn nhát của Đôn Kihôtê, vừa thương cho chủ, chồng và cha mình bị đòn đau.

Nhưng ta hãy để chủ quán đấy vì sẽ có người tới cứu bác ta, và dù không thế chăng nữa thì kẻ nào liều lĩnh làm một việc quá sức mình, kẻ đó phải chịu đựng không được kêu ca gì hết. Bây giờ, chúng ta hãy lùi trở lại năm chục bước để xem Đôn Luix trả lời ông bồi thẩm ra sao (trước đó ông bồi thẩm gọi riêng Đôn Luix ra một chỗ và có hỏi nguyên nhân vì sao chàng bỏ nhà ra đi, ăn mặc tồi tàn như vậy). Người con trai nắm chặt hai tay ông bồi thẩm như thể có một nỗi đau đớn ghê gớm đang thắt chặt tim chàng lại, vừa khóc nức nở vừa nói:

- Thưa ngài, con không biết nói gì khác, chỉ xin thưa rằng từ ngày trời kia muốn như vậy và cũng do sự lân cận giữa hai nhà khiến con nhìn thấy Đônha Clara của con - lệnh ái của ngài và tình nương của con -, từ giờ phút đó con đã coi nàng là chủ nhân của lòng con. Thưa chủ nhân và phụ thân của con, nếu ngài không phản đối, ngay trong ngày hôm nay nàng sẽ là vợ con. Vì nàng con đã bỏ nhà ra đi, vì nàng con đã khoác bộ áo quần này để theo nàng khắp chốn khắp nơi, như mũi tên đuổi theo mục tiêu, như người thủy thủ hướng theo phương bắc. Nàng mới chỉ biết tấm lòng của con qua tiếng khóc và những giọt lệ mà nàng nghe thấy và nhìn thấy từ xa. Ngài đã biết cha mẹ con giàu có và danh giá, còn con là người kế thừa duy nhất. Nếu ngài nghĩ rằng những điều đó làm ngài hài lòng khiến ngài có thể quyết định mang lại hạnh phúc cho con, xin hãy nhận ngay con là con ngài. Nếu như cha con có những dự định khác và không hài lòng về niềm hạnh phúc mà con đã tự tìm ra, thời gian cũng sẽ có đủ sức mạnh để làm thay đổi những ý muốn của con người như làm thay đổi mọi vật trên đời.

Nghe chàng trai nói, ông bồi thẩm vừa bối rối, vừa khâm phục, khâm phục vì thấy Đôn Luix đã giãi bày tâm tình một cách khéo léo ý nhị, bối rối vì không biết xử trí ra sao trước một sự việc quá bất ngờ. Ông chỉ khuyên Đôn Luix hãy bình tâm, về phần ông, sẽ bảo đám gia nhân không đưa chàng về nhà vội để có thời gian nghĩ ra một giải pháp tốt đẹp cho cả mọi người. Đôn Luix hôn lấy hôn để đôi bàn tay của ông bồi thẩm; những giọt nước mắt của chàng làm ướt đẫm tay ông khiến cho một trái tim bằng đá cũng phải xúc động. Vốn là một con người khôn ngoan, ông bồi thẩm hiểu biết rằng một cuộc hôn nhân như vậy sẽ rất có lợi cho con gái mình; tuy nhiên ông muốn rằng, nếu có thể, phải làm việc đó với sự đồng tình của cha Đôn Luix vì ông biết là ông này có ý định gây dựng cho con trai trở thành một người có chức quyền.

Lúc này hai người khách trọ đã làm lành với chủ quán, Đôn Kihôtê chẳng phải dọa dẫm thách thức gì cả mà chỉ dùng lời hay lẽ thiệt thuyết phục khiến hai người khách phải trả đủ số tiền cho chủ quán; đám gia nhân của Đôn Luix cũng đang chờ cuộc trao đổi giữa cậu chủ và ông bồi thẩm kết thúc để xem chủ mình quyết định ra sao, bỗng đâu ma dẫn lối quỷ đưa đường, giữa lúc đó có một người bước vào trong quán: đó là ông thợ cạo đã bị Đôn Kihôtê tước đoạt chiếc mũ sắt của Mambrinô và bị Xantrô Panxa đổi bộ yên lừa cũ lấy bộ yên mới. Đang khi dắt lừa vào chuồng, ông chợt nhìn thấy Xantrô Panxa lúi húi sửa sang bộ yên lừa; nhận ra bộ yên của mình, ông túm lấy Xantrô và nói:

- Ông kẻ cắp ơi, ta tóm được ông rồi! Phải trả lại cho ta cái chậu cạo râu, bộ yên lừa cùng tất cả phụ tùng mà ông đã lấy cắp của ta!

Bất thình lình bị tấn công và nghe chửi, Xantrô một tay nắm bộ yên, tay kia thoi luôn một quả vào mặt ông thợ cạo khiến hai hàm răng ông tóe máu ra. Tuy vậy ông thợ cạo vẫn không buông Xantrô và bộ yên mà còn kêu ầm lên khiến mọi người trong quán trọ đổ xô tới; ông hét:

- Ôi đức vua ơi! Ôi công lý ơi! Chỉ vì tôi lấy lại của cải của tôi mà tên kẻ cắp, tên cướp đường này muốn giết tôi đây!

- Đồ nói láo, Xantrô đáp; ta không phải là quân cướp đường; ông chủ Đôn Kihôtê của ta đã chiếm được những chiến lợi phẩm này trong một cuộc chiến đấu hợp lệ đấy chứ!

Đôn Kihôtê đã tới; nhìn giám mã của mình lúc thủ lúc công một cách rất tài tình, chàng lấy làm hài lòng lắm. Bây giờ chàng mới nhận thấy Xantrô là một người hữu ích, và chàng định bụng hễ có dịp sẽ phong tước hiệp sĩ cho bác, nghĩ rằng việc đó chỉ có lợi cho hiệp sĩ đạo. Trong lúc hai bên xô xát, ông thợ cạo có nói một câu như sau:

- Thưa các ngài, bộ yên này thuộc về tôi cũng như tôi sống hay chết là tùy thuộc vào Chúa; bởi vậy tôi nhận ra nó ngay như thể chính tôi đã đẻ ra nó vậy. Con lừa của tôi còn ở trong chuồng kia, nó không để yên cho tôi nói dối đâu. Xin hãy ướm thử bộ yên lên lưng nó, nếu không vừa khít thì tôi xin chịu tiếng xấu xa. Ngoài ra, hôm họ lấy bộ yên này, họ còn lấy cả của tôi một cái chậu cạo râu mới tinh, chưa dùng mở hàng, đáng giá một đồng tiền vàng.

Đến đây thì Đôn Kihôtê không thể không trả lời được; chàng xen vào giữa hai người, can họ ra, đặt bộ yên xuống đất rành mạch rõ ràng cho mọi người thấy sự thật, chàng nói:

- Các ngài sẽ nhận thấy một cách rõ rệt và hiển nhiên sự nhầm lẫn của anh giám mã này vì anh ta gọi là chậu cạo râu một vật đã, đang và sẽ là chiếc mũ sắt của Mambrinô mà tôi đã chiếm được trong một trận giao tranh hợp lệ và đã làm chủ một cách chính đáng hợp pháp. Về bộ yên, tôi không có ý kiến; chỉ xin nói rằng giám mã Xantrô của tôi có xin phép tôi tước bộ yên ngựa của anh chàng thất trận hèn nhát này để sửa sang cho con ngựa của hắn; tôi đã đồng ý cho hắn lấy, còn về phần chuyện yên ngựa hóa thành yên lừa, tôi chỉ có thể giải thích theo cách thông thường tức là những sự biến hóa như vậy thường hay xảy ra trong nghề hiệp sĩ. Để chứng minh cho lời tôi nói, Xantrô con ta hãy mang lại đây chiếc mũ sắt mà anh chàng này gọi là chậu cạo râu.

- Chết thôi, Xantrô nói, nếu thầy trò ta không còn bằng chứng gì khác để thanh minh cho việc làm của mình thì nguy to rồi vì chiếc mũ sắt của lão Malinô chính là chậu cạo râu cũng như bộ yên ngựa của anh chàng này là yên lừa vậy!

- Ta bảo sao thì cứ thế mà làm, Đôn Kihôtê nói; không phải tất cả mọi sự ở trong lâu đài này đều bị phù phép cả đâu.

Xantrô chạy đi lấy chậu cạo râu mang lại; Đôn Kihôtê đỡ lấy bằng hai tay và nói:

- Xin các ngài hãy nhìn xem; tên giám mã này quả là trâng tráo khi nó bảo cái này là chậu cạo râu chứ không phải là mũ sắt; tôi xin viện cả dòng hiệp sĩ trong đó có tôi để thề rằng đây chính là chiếc mũ sắt mà tôi đã chiếm được và nó vẫn nguyên vẹn như cũ, không mảy may suy suyển.

- Đúng như vậy, Xantrô nói chen vào, vì từ ngày ông chủ tôi chiếm được chiếc mũ sắt tới giờ, ngài chỉ đánh nhau có một trận khi ngài giải thoát cho đám phạm nhân vô phúc bị gông xiềng. Nếu cái của này không phải là chậu - mũ sắt thì ông chủ tôi đã khốn khổ rồi, vì lúc đó đá ném vào ngài như mưa.


--------------------------------
1Đàn ông thuộc dòng dõi quý phái mới được gọi là Đôn, đàn bà thì gọi là Đônha.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes

Chương XLV

CÂU CHUYỆN RẮC RỐI VỀ CHIẾC MŨ SẮT CỦA MAMBRINÔ VÀ BỘ YÊN LỪA ĐÃ ĐƯỢC GIẲI ĐÁP VÀ NHỮNG SỰ VIỆC KHÁC CÙNG SÁNG TỎ


Ông thợ cạo bèn hỏi mọi người:

- Các ngài nghĩ sao về những ý kiến của hai vị này? Họ vẫn khăng khăng rằng đây không phải là chậu cạo râu mà là mũ sắt cơ.

- Nếu có kẻ nào nói ngược lại, Đôn Kihôtê đáp, ta sẽ tỏ cho biết là hắn nói láo nếu hắn là hiệp sĩ, còn nếu hắn là giám mã, ta sẽ chứng minh là hắn nói láo một ngàn lần.

Bác phó cạo Nicôlax chứng kiến cuộc cãi lộn từ đầu tới giờ. Đã biết tính nết điên rồ của Đôn Kihôtê, bác muốn kích chàng lên và trêu chàng một mẻ để mua vui cho mọi người, bác bèn bảo ông thợ cạo nọ:

- Ông thợ cạo ơi, tôi xin thưa với ông là tôi cũng làm nghề như ông; tôi đã có bằng cắt tóc trên hai chục năm nay và tôi biết rất rõ những đồ nghề cắt tóc không sót một cái nào; hơn nữa hồi còn trẻ, đã có thời kỳ tôi đi lính và tôi cũng biết phân biệt các loại mũ sắt cùng tất cả những vật liên quan tới nghề võ tức là các loại vũ khí của binh lính. Trừ phi ai có cao kiến hơn, tôi cứ theo lẽ phải mà nói rằng vật ở trước mắt chúng ta mà ngài hiệp sĩ đang cầm trong tay không những không phải là chậu cạo râu mà còn khác xa như màu trắng khác màu đen, như sự thật khác sự dối trá. Tôi xin nói thêm: tuy nó là mũ sắt nhưng không phải là một mũ sắt hoàn chỉnh.

- Quả có thế, Đôn Kihôtê nói, vì nó còn thiếu một phần nữa tức là phần che cằm.

Cha xứ nắm được ý đồ của ông bạn phó cạo, bèn nói:

- Đúng vậy.

Carđêniô, Đôn Phernanđô và các bạn của chàng cũng công nhận điều đó. Nếu như ông bồi thẩm không mải suy nghĩ về chuyện Đôn Luix, chắc ngài cũng sẽ góp phần vào cho thêm vui, nhưng vì ông còn đang bận óc về những chuyện quan trọng hơn nên ông ít để ý tới trò đùa của mọi người.

Ông thợ cạo bị trêu kêu lên:

- Lạy Chúa, làm sao những con người lương thiện như vậy lại có thể nói rằng cái này không phải là chậu cạo râu mà là mũ sắt! Các nhà thông thái ở đại học viện chắc cũng phải sửng sốt. Thôi đủ rồi: nếu cái chậu cạo râu là mũ sắt như ông này vừa nói thì bộ yên lừa cũng là yên ngựa mất thôi.

- Theo tôi, nó giống bộ yên lừa, Đôn Kihôtê đáp; nhưng tôi đã nói là tôi không can thiệp vào chuyện này.

- Dù là yên lừa hay yên ngựa, Cha xứ nói, ngài Đôn Kihôtê cho ý kiến cũng không thừa vì trong những vấn đề về hiệp sĩ đạo, tất cả chúng tôi đều bái phục ngài.

- Lạy Chúa! Đôn Kihôtê nói, quả thật, thưa các ngài, ở trong lâu đài này có rất nhiều chuyện lạ lùng hết sức. Hai lần tôi nghỉ tại đây đều có chuyện, thành thử có ai hỏi tôi về tình hình ở đây, tôi cũng không dám khẳng định một điều gì vì tôi cho rằng mọi việc xảy ra trong nhà này đều có bàn tay phù phép của pháp sư. Lần trước tôi đã bị một pháp sư Môrô ở đây quấy nhiễu và Xantrô cũng bị tay chân của hắn ta làm cho điêu đứng; đêm qua, cánh tay này của tôi lại bị treo lên gần hai tiếng đồng hồ mà cũng chẳng hiểu nguyên nhân vì đâu tôi phải chịu một tai họa như vậy. Bởi thế, nếu tôi phát biểu ý kiến trong một tình huống rối ren như bây giờ tức là phát biểu liều. Về chiếc mũ sắt mà người ta bảo là chậu cạo râu, tôi đã trả lời rồi; còn về việc tuyên bố rằng cái này là yên lừa hay yên ngựa, tôi không dám quyết định dứt khoát, xin để các ngài sáng suốt cho ý kiến; có thể vì các ngài không được phong tước hiệp sĩ như tôi nên các ngài không bị ảnh hưởng của yêu thuật và được tự do suy nghĩ, do đó có thể nhận xét những sự việc xảy ra trong lâu đài này trên thực tế có thật chứ không qua màn khói yêu thuật như tôi.

- Đúng như vậy, Đôn Phernanđô đáp; ngài Đôn Kihôtê nói chí phải. Việc này để chúng tôi giải quyết; để cho việc làm có cơ sở, tôi xin từng người kín đáo cho tôi biết ý kiến, sau đó tôi sẽ báo cáo kết quả thật đầy đủ rõ ràng.

Đối với những ai biết tính nết của Đôn Kihôtê, đây là một dịp để cười thỏa thích; nhưng những người khác lại nghĩ rằng chuyện này ấm ớ nhất trên đời, đặc biệt là bốn người hầu của Đôn Luix, bản thân Đôn Luix và ba người khách ngẫu nhiên vừa tới quán trọ, nom giống những người lính cảnh sát của đội Xanta Ermanđát (mà cũng đúng họ là cảnh sát thật). Có một người đau khổ nhất, đó là ông thợ cạo. Nhìn cái chậu cạo râu của mình lúc này hóa thành chiếc mũ sắt của Mambrinô, ông ta nghĩ rằng bộ yên lừa chắc chắn cũng sẽ biến hóa thành một bộ yên ngựa đắt tiền. Trong khi đó, mọi người cười vang nhìn Đôn Phernanđô đi hỏi ý kiến khắp lượt; chàng ghé vào tai từng người để hỏi và xem người đó trả lời ra sao: cái vật quý giá kia đã gây ra một cuộc tranh giành xô xát dữ dội là yên lừa hay yên ngựa? Sau khi đi lấy xong ý kiến của những người đã biết tính nết của Đôn Kihôtê, Đôn Phernanđô cất cao giọng nói:

- Ông bạn thợ cạo ơi, tôi mệt cả người vì phải đi lấy bao nhiêu ý kiến. Tất cả những người mà tôi đã hỏi để làm sáng tỏ điều tôi muốn biết đều trả lời như sau: nói rằng đây là bộ yên lừa là xằng bậy, đây chính là yên ngựa, không những vậy mà còn là yên ngựa giống nữa kia. Ông nên chịu đi thì hơn; dù cho ông và cả con lừa của ông phiền lòng, đây vẫn là yên ngựa chứ không phải yên lừa; những lý lẽ chứng minh của ông không vững chút nào đâu.

Ông thợ cạo đáng thương nói:

- Tôi xin chịu mất chỗ ở trên thiên đàng nếu tất cả các ngài không nhầm, và mong rằng trước Thượng đế, linh hồn tôi cũng được minh bạch rõ ràng như bộ yên lừa mà các ngài cãi là yên ngựa. Nhưng thôi, luật lệ là như vậy... tôi không tranh cãi nữa. Quả thật tôi không say: họa chăng tôi chỉ có tội là từ sáng chưa ăn uống gì.

Những câu nói ngây thơ của ông thợ cạo cũng lại làm cho mọi người buồn cười như những hành động ngông cuồng của Đôn Kihôtê. Đáp lời ông ta, chàng hiệp sĩ giang hồ nói:

- Tốt hơn hết là của ai người ấy cầm; Chúa đã ban cho ai cái gì thì thánh Pêđrô cũng phải ưng thuận.

Một trong bốn người hầu của Đôn Luix lên tiếng:

- Nếu đây không phải là chuyện đùa, cố tình bày ra, tôi không thể nào tin được rằng những con người thông minh sáng láng như các ngài lại dám nói và khẳng định rằng những vật này không phải là chậu cạo râu và yên lừa. Nhưng vì thấy các ngài vẫn cả quyết như vậy nên tôi đoán chừng có điều uẩn khúc chi đây khiến các ngài cứ khăng khăng giữ một ý kiến quá trái ngược với một sự thật đã được thể nghiệm. Tôi xin thề là (anh ta nói toạc ra) tất cả những người đang sống trên đời này cũng không làm cho tôi hiểu ngược rằng những vật này không phải là chậu cạo râu và yên lừa.

- Có thể đây là yên lừa cái, Cha xứ nói.

- Vấn đề không phải ở chỗ đó, người hầu đáp, mà cần phân biệt xem có phải là yên lừa hay không như các ngài nói.

Một trong những người lính cảnh sát mới tới quán trọ đã được chứng kiến cuộc đấu khẩu, nổi khùng nói:

- Đúng là yên lừa rồi, cũng như bố tôi là bố tôi vậy! Ai đã hoặc sẽ nói ngược lại hẳn phải say rượu!

- Tên súc sinh kia! Mi nói láo! Đôn Kihôtê quát.

Nói đoạn, chàng vung ngọn giáo đang cầm trong tay giáng một đòn khủng khiếp xuống đầu người lính cảnh sát; cũng may anh này tránh được, nếu không ắt ngã lăn ra đất; ngọn giáo quật xuống đất gãy tan. Thấy đồng đội bị hành hung, những người cảnh sát kia lên tiếng cầu cứu vị tiên sư của đội Xanta Ermanđát.

Chủ quán, vốn cũng là cảnh sát viên 1, chạy đi kiếm gậy và gươm rồi đứng về phe những đồng nghiệp của mình; bốn người hầu của Đôn Luix vây quanh chủ, sợ chàng nhân lúc rối ren tẩu mất; thấy tình hình lung tung, ông thợ cạo định cầm luôn bộ yên lừa nhưng Xantrô cũng không chịu thua; Đôn Kihôtê rút gươm xông vào đám cảnh sát; Đôn Luix quát gia nhân buông mình ra để tới cứu nguy cho Đôn Kihôtê lúc này đang được Carđêniô và Đôn Phernanđô hỗ trợ; Cha xứ hò hét; vợ chủ quán kêu gào; con gái chủ quán buồn phiền; Maritornêx khóc lóc; Đôrôtêa hoang mang; Luxinđa hồi hộp; còn Đônha Clara thì bất tỉnh nhân sự. Ông thợ cạo đánh Xantrô; Xantrô choảng ông thợ cạo; Đôn Luix bị một người hầu của mình giữ cánh tay cho khỏi chạy, tức quá chàng tống ngay một quả làm anh hầu tóe máu răng; ông bồi thẩm xông vào bênh Đôn Luix; Đôn Phernanđô vật ngã một người lính cảnh sát xuống đất, cứ hai chân thúc mãi vào người hắn; chủ quán lại ra sức cầu cứu vị tiên sư của đội Xanta Ermanđát. Một cảnh đại náo diễn ra trong quán trọ với những tiếng khóc, tiếng kêu, tiếng thét, những nỗi lo âu, sợ hãi, bất hạnh, những nhát gươm, những quả thụi vào mặt, gậy gộc phang vào người, những miếng đá hậu và những cảnh đổ máu. Giữa lúc hỗn loạn rối mù, bỗng đâu Đôn Kihôtê tưởng như mình đang chứng kiến sự bất hòa trong quân ngũ của vua Agramantê thời xưa; chàng thét như sấm vang:

- Muốn sống mọi người hãy dừng tay lại, tra gươm vào vỏ, bớt giận và nghe tôi nói.

Tiếng chàng hiệp sĩ oang oang khiến mọi người đều ngừng cả lại; Đôn Kihôtê nói tiếp:

- Thưa các ngài, tôi đã bảo mà, lâu đài này bị yêu ma phù phép và có cả một bầy quỷ sống ở trong đó. Để chứng minh, tôi muốn các ngài tận mắt thấy rằng cuộc xung đột hiện nay cũng giống như sự bất hòa xưa kia trong nội bộ của Agramantê. Này nhé, chỗ này người ta đánh nhau vì thanh gươm, chỗ kia vì con ngựa, chỗ nọ vì con đại bàng hay chiếc mũ sắt, tất cả đều đánh nhau, không ai chịu ai. Nào, mời ngài bồi thẩm và Cha xứ lại đây; một người hãy làm vua Agramantê và một người làm vua Xôbrinô để hòa giải cho chúng tôi. Có Đấng Tối cao chứng giám, thật là một điều vô cùng xấu xa một khi những con người danh giá như chúng ta đây chém giết nhau vì những lý do quá nhỏ nhặt như vậy.

Những người lính cảnh sát chẳng hiểu Đôn Kihôtê nói gì, lại vừa bị Carđêniô, Đôn Phernanđô và các bạn của chàng đánh đau, hầm hè không chịu; ông thợ cạo tán thành vì trong cuộc ẩu đả, bộ râu của ông bị vặt trụi và bộ yên lừa cũng tan tành; Xantrô vốn là nô bộc trung thành nên thoạt nghe chủ nói đã tuân theo ngay; bốn người hầu của Đôn Luix đứng yên vì thấy đánh nhau cũng chẳng lợi lộc gì cho họ; riêng chủ quán khăng khăng muốn đánh nữa để trừng trị thái độ láo xược của tên điên rồ đi đến đâu gây rối đến đó. Cuối cùng, cảnh huyên náo tạm dịu đi, và trong đầu óc của Đôn Kihôtê, bộ yên lừa vẫn là bộ yên ngựa cho tới ngày phán xét, chậu cạo râu là mũ sắt và quán trọ là lâu đài.

Thế là tình hình trở lại yên ổn và nhờ có ông bồi thẩm và Cha xứ khuyên giải, mọi người đã làm lành với nhau. Lúc này đám gia nhân của Đôn Luix lại thúc giục chàng quay trở về nhà cùng với họ; trong lúc hai bên còn đang giằng co, ông bồi thẩm kể lại cho Đôn Phernanđô, Carđêniô và Cha xứ những lời lẽ mà Đôn Luix đã nói với mình, rồi ông hỏi họ nên xử trí ra sao. Sau khi bàn bạc, Đôn Phernanđô gặp đám gia nhân của Đôn Luix; chàng cho họ biết mình là ai và nói ý định của mình là đưa cậu chủ của họ về nhà hầu tước anh trai mình ở Anđaluxia, tại đó cậu sẽ được tiếp đãi một cách xứng đáng với cương vị của cậu, vì rõ ràng Đôn Luix không muốn trở về nhà gặp cha ngay dù cho họ phanh thây xé xác chàng. Sau khi đã biết chức tước của Đôn Phernanđô và quyết tâm của Đôn Luix, đám gia nhân quyết định để ba người trong bọn họ trở về thuật lại tình hình với cha Đôn Luix, còn một người ở lại theo hầu đồng thời theo dõi chàng cho tới khi ba người kia quay lại hoặc tới khi có lệnh mới của cha chàng. Thế là cuộc loạn đả đã được dẹp yên nhờ vào uy quyền của Agramantê và sự khôn ngoan của vua Xôbrinô. Nhưng con quỷ kia - kẻ thù của sự hòa hợp - cay cú và tẽn tò vì thấy đã cố bày ra một chuyện rắc rối như vậy mà không thu được kết quả bao nhiêu, lại muốn gây ra một vụ ẩu đả lộn xộn khác.

Sau khi được biết những người vừa đánh nhau với mình là con nhà quyền quý, những người lính cảnh sát rút khỏi vòng chiến vì thấy rằng dù có thắng hay bại cũng vẫn phải chịu phần thiệt. Rủi sao viên cảnh sát vừa bị Đôn Phernanđô đấm đá túi bụi sực nhớ ra rằng trong số những trát bắt người y mang theo có một tờ trát của đội Xanta Ermanđát ra lệnh bắt Đôn Kihôtê vì chàng đã giải thoát cho đám phạm nhân trước đây (quả thật, điều lo sợ của Xantrô khi trước là rất đúng). Để xem nhận dạng tả trong tờ trát có khớp với con người Đôn Kihôtê không, anh ta rút ở trong ngực một cuốn giấy và lấy tờ trát bắt chàng hiệp sĩ giở ra đọc. Vì chưa thạo, anh ta phải đọc rất chậm, xong mỗi chữ lại đưa mắt nhìn Đôn Kihôtê để so với bộ mặt của chàng, cuối cùng phát hiện ra chàng đúng là người phải bắt như ghi trong tờ trát. Sau khi đã chắc chắn rồi, anh ta cuộn cả tập lại, tay trái cầm tờ trát, tay phải túm chặt cổ áo Đôn Kihôtê làm chàng nghẹt thở, mồm hét to:

- Hãy giúp đội Xanta Ermanđát một tay! Để mọi người thấy rằng điều yêu cầu của tôi là đúng, xin xem tờ trát đây trong đó có ghi là phải bắt tên cướp đường này.

Cha xứ đỡ lấy tờ trát đọc thì thấy người lính cảnh sát nói đúng và nhận dạng ghi trong đó khớp với mặt mũi của Đôn Kihôtê. Thấy mình bị một kẻ súc sinh đối xử không ra gì, chàng hiệp sĩ nổi giận đùng đùng, tất cả các khớp xương trong người chàng kêu răng rắc, hai tay chàng ra sức thít chặt cổ viên cảnh sát; cũng may đồng đội của anh ta tới cứu, nếu không chắc anh đã toi mạng một khi Đôn Kihôtê không nhả tay ra. Chủ quán cũng vội tới giải vây vì tất nhiên bác phải bênh những người đồng nghiệp. Vợ chủ quán thấy chồng lại tham chiến, vội kêu ầm lên; Maritornêx và con gái chủ quán cũng cất giọng hòa theo, cầu cứu Thượng đế và những người có mặt trong quán trọ. Trước cảnh tượng đó, Xantrô nói:

- Chúa bất diệt! Ông chủ tôi nói rất đúng là lâu đài này có yêu ma vì quả thật không thể sống yên ổn một giờ nào ở đây được.

Đôn Phernanđô can hai người và gỡ tay họ ra khiến cả hai đều thở phào vì hai bên đều ghì nhau rất chặt, bên này túm cổ áo bên kia, bên kia chịt họng bên này. Tuy thế, những người lính cảnh sát vẫn đòi bắt Đôn Kihôtê bằng được; họ yêu cầu mọi người hãy làm tròn bổn phận với đức vua và vị tiên sư của đội Xanta Ermanđát, cùng hợp lực trói chàng lại và trao cho họ. Họ cầu cứu đức vua và vị tiên sư của họ hãy tiếp tay cho họ bắt được tên đạo tặc, tên cướp đường. Nghe họ nói, Đôn Kihôtê chỉ cười rồi, rất ung dung, chàng đáp:

- Lại đây, hỡi những kẻ thô bạo và xấu xa kia! Mang lại tự do cho kẻ bị gông xiềng, giải thoát cho người tù tội, cứu vớt kẻ khốn nạn, nâng đỡ người bị ngã, cưu mang người hoạn nạn mà bảo là cướp đường ư? Quân ti tiện kia, vì đầu óc của các người nhỏ nhen hèn hạ cho nên trời kia không để cho các người hiểu được giá trị của hiệp sĩ đạo hoặc thấy được tội lỗi và sự dốt nát của mình vì đã dám coi thường không những sự tồn tại mà cả cái bóng của người hiệp sĩ giang hồ. Nào lại đây, lũ kẻ cắp có tổ chức kia! Các người không phải là cảnh sát gì hết mà là một bọn cướp đường được Xanta Ermanđát cho phép. Hãy nghe ta hỏi: tên ngu xuẩn nào đã ký trát bắt một hiệp sĩ trứ danh như ta? Kẻ nào không biết rằng các hiệp sĩ giang hồ không phải tuân thủ một luật pháp nào cả? Kẻ nào không biết rằng luật lệ của họ là thanh gươm, quy tắc của họ là lòng dũng cảm, phương châm của họ là ý chí? Ta nhắc lại: tên ngu xuẩn nào không biết rằng không một nhà quý tộc nào được hưởng nhiều quyền ưu tiên và miễn trừ như một hiệp sĩ giang hồ một khi chàng đã được phong tước và bước chân vào nghề hiệp sĩ gian khổ? Có hiệp sĩ giang hồ nào phải nộp thuế tài sản, thuế hàng hóa, thuế cưới vua, thuế lãnh địa, thuế đường, thuế đò không? Có người thợ may nào đòi chàng tiền công may không? Có chủ nhân lâu đài nào đón chàng vào nghỉ tại lâu đài của mình rồi sau đó hỏi tiền trọ không? Có nhà vua nào không mời chàng ngồi dự yến tiệc cùng bàn không? Có tiểu thư nào không say mê chàng và không trao xương gửi thịt cho chàng không? Và cuối cùng, có hiệp sĩ giang hồ nào ở trên đời này đã, đang hoặc sẽ không có đủ can đảm để một mình phang bốn trăm gậy cho bốn trăm tên lính cảnh sát dám đương đầu với chàng không?



--------------------------------

1Thời ấy, các chủ quán trọ thường kiêm nghề cảnh sát.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes

Chương XLVI

CÂU CHUYỆN LY KỲ CỦA NHỮNG NGƯỜI LÍNH CẲNH SÁT VÀ TÍNH NẾT CỰC KỲ DỮ TỢN CỦA CHÀNG HIỆP SĨ ĐÔN KIHÔTÊ


Trong lúc Đôn Kihôtê nói, Cha xứ giảng giải cho những người lính cảnh sát hiểu rằng chàng là một người mất trí như những hành động và lời nói của chàng đã chứng minh; ông khuyên họ nên kết thúc sự việc tại đây vì dù có bắt được chàng đưa đi, sau đó họ cũng sẽ phải thả ngay vì chàng điên. Người lính cảnh sát cầm trát đáp rằng anh ta không có nhiệm vụ xét xem Đôn Kihôtê có điên hay không mà chỉ thi hành lệnh cấp trên, và một khi bắt xong rồi thì ai muốn thả tới ba trăm lần cũng mặc. Cha xứ nói:

- Dù vậy, lần này anh không nên bắt chàng; vả chăng theo tôi hiểu, chàng cũng chẳng để cho ai bắt đâu.

Trước những lời nói chí phải của Cha xứ và trước những hành động quá điên rồ của Đôn Kihôtê (quả thật, nếu những người lính cảnh sát không biết rằng Đôn Kihôtê mất trí, chắc là họ cũng sẽ phát điên phát rồ), những người lính cảnh sát đành phải nhượng bộ; không những thế, họ còn đứng ra dàn xếp cho ông thợ cạo và Xantrô lúc này vẫn đang hầm hè nhau. Với cương vị là những người của công lý, họ đứng ra làm trọng tài xét xử và cuối cùng, đôi bên cũng tạm thỏa mãn, tuy không thật hoàn toàn; theo quyết định, hai bên phải đổi cho nhau bộ yên lừa nhưng giữ lại dây tròng. Về chiếc mũ sắt của Mambrinô, Cha xứ lẳng lặng đền cho ông thợ cạo tám đồng rêal, không cho Đôn Kihôtê biết, và ông này trao lại một tờ biên lai, hứa từ nay về sau mãi mãi không bao giờ nhắc tới chuyện đó nữa. Thế là hai chuyện xích mích lớn nhất và quan trọng nhất đã được giải quyết; vấn đề tồn tại là làm thế nào cho đám gia nhân của Đôn Luix đồng ý cử ba người trong bọn họ quay trở về còn một người đi theo chủ đến nơi mà Đôn Phernanđô sẽ dẫn tới 1. Tới đây, vận rủi đã qua, vận may đã đến giải ách cho đôi tình nhân và những con người dũng cảm ở trong quán trọ khiến mọi việc đều kết thúc tốt đẹp đối với tất cả mọi người: đám gia nhân nhất nhất làm theo ý của Đôn Luix. Đônha Clara vô cùng mừng rỡ, và cứ nhìn nét mặt nàng lúc đó cũng đoán được trong lòng nàng đang tưng bừng hớn hở. Dôraiđa không hiểu hết tình hình xảy ra, nhưng qua thái độ của từng người, đặc biệt là của người yêu mà nàng vẫn luôn luôn theo dõi bằng đôi mắt và cả tấm lòng, nàng cũng từng lúc tỏ ra âu sầu hoặc mừng rỡ. Nhìn thấy Cha xứ trao tiền cho ông thợ cạo, chủ quán bèn đòi tiền trọ của Đôn Kihôtê cùng tiền bồi thường những bao rượu bị chọc thủng và rượu bị đổ, thề rằng Rôxinantê và con lừa của Xantrô sẽ không ra khỏi quán trọ nếu trước đó không được trả đủ số tiền, không thiếu một xu. Cha xứ lại phải lấy lời giảng giải, còn Đôn Phernanđô thì xuất tiền túi ra mặc dù ông bồi thẩm cũng sẵn lòng nhận trả hộ. Thế là mọi người đều hòa thuận với nhau; quang cảnh quán trọ không còn giống cảnh bất hòa trong nội bộ của vua Agramantê như Đôn Kihôtê đã tả mà trái lại, đượm một không khí thái bình êm ả như ở dưới thời hoàng đế La Mã Ốctaviô xưa. Mọi người đều nghĩ rằng sở dĩ được như vậy là nhờ có sự thiện chí và tài hùng biện của Cha xứ cũng như tính tình hào phóng vô song của Đôn Phernanđô.

Thấy mình và giám mã đều đã thoát ra khỏi những chuyện rắc rối, Đôn Kihôtê nghĩ rằng đã đến lúc phải tiếp tục cuộc hành trình để kết thúc cuộc phiêu lưu vĩ đại dành riêng cho chàng. Thế là, với cả một sự quyết tâm, chàng đến quỳ trước mặt Đôrôtêa. Thấy vậy, Đôrôtêa vội ngăn lại, không cho phép chàng nói chừng nào chàng chưa đứng dậy. Tuân theo lời công chúa Micômicôna, Đôn Kihôtê đứng lên nói:

- Thưa công chúa xinh đẹp, tục ngữ có câu rằng: cần mẫn là mẹ của hạnh phúc, và trong rất nhiều chuyện quan trọng, kinh nghiệm cho thấy rằng sự sốt sắng của người điều đình khiến cho một việc tưởng đâu khó thành cũng đi tới kết quả mỹ mãn. Trong chiến tranh, chân lý đó biểu hiện rõ ràng hơn ở đâu hết vì một hành động chớp nhoáng chặn đứng được ý đồ của kẻ địch và mang lại thắng lợi trước khi đối phương kịp trở tay. Tôi nói vậy, thưa công chúa cao quý, vì tôi trộm nghĩ rằng sự có mặt của chúng ta ở trong tòa lâu đài này không mang lại lợi ích gì và còn có thể hại lớn khiến có một ngày chúng ta sẽ phải ân hận. Ai biết đâu rằng nhờ có những tên do thám hoạt động khôn khéo và kín đáo, tên khổng lồ thù địch của nàng biết được là tôi sẽ tới tiêu diệt hắn, và hắn đã lợi dụng thời gian này để cố thủ trong một lâu đài hay một thành trì kiên cố nào khiến cho sự cần mẫn và sức mạnh của cánh tay không mệt mỏi của tôi trở nên kém hiệu quả. Bởi vậy, thưa công chúa, ta hãy nhanh tay ngăn chặn những âm mưu của hắn và mau mau lên đường nắm lấy thời cơ tốt đẹp; nàng mong mỏi đạt được nguyện vọng bao nhiêu thì tôi cũng mong mỏi được chạm trán với kẻ thù của nàng bấy nhiêu.

Nói tới đó, Đôn Kihôtê ngừng lại, bình tĩnh chờ nàng công chúa xinh đẹp trả lời. Bằng một dáng vẻ đài các rất phù hợp với kiểu cách của Đôn Kihôtê, công chúa đáp:

- Thưa hiệp sĩ, thiếp xin cảm ơn chàng đã tỏ lòng muốn giúp đỡ thiếp trong cơn đại hoạn nạn này; chàng quả xứng đáng là một trang hiệp sĩ vì người hiệp sĩ luôn luôn quan tâm bênh vực trẻ mồ côi và những kẻ khốn cùng. Cầu trời cho điều mong ước của chàng cũng như của thiếp được toại nguyện để chàng thấy rằng trên đời này có những người đàn bà không vô ơn. Nào, ta hãy khởi hành ngay tức khắc vì ý muốn của thiếp không ngoài ý muốn của chàng; thiếp xin để tùy chàng định liệu cho thiếp. Một khi thiếp đã nhờ vả chàng che chở tính mạng và trông cậy vào hai cánh tay của chàng để khôi phục lại giang sơn cho thì thiếp không thể đi ngược lại những mệnh lệnh sáng suốt của chàng.

- Nếu vậy thì phải hành động ngay, Đôn Kihôtê nói; khi một nàng công chúa đã tự hạ mình như vậy, ta không muốn bỏ lỡ cơ hội nâng nàng lên và đặt nàng vào chiếc ngai mà nàng được quyền thừa kế. Hãy khởi hành tức khắc vì lòng mong muốn ra đi đang thôi thúc ta. Như người ta thường nói, chậm trễ là nguy hiểm. Dù có kẻ nào ở trên trời hay dưới địa ngục cũng không làm cho ta nhụt lòng nản chí. Xantrô đâu, hãy đóng yên cương cho con Rôxinantê của ta, con lừa của mi và con ngựa của công chúa. Chúng ta hãy từ biệt chủ nhân lâu đài cùng các vị có mặt ở đây và hãy lên đường ngay tức khắc.

Vì đã được chứng kiến mọi chuyện xảy ra, Xantrô lắc đầu quầy quậy, nói:

- Ngài ơi, nói xin lỗi các bà có mặt tại đây, việc này còn tai hại nhiều hơn ta tưởng cơ!

- Tên súc sinh kia, liệu có tai hại nào ở trên đời này xúc phạm đến thanh danh của ta được không?

- Nếu ngài nổi nóng, Xantrô đáp, tôi sẽ ngậm miệng không nói những điều mà một giám mã và một người đầy tớ trung thành có nhiệm vụ phải nói với chủ mình.

- Muốn nói gì cứ nói, Đôn Kihôtê bảo Xantrô, miễn là những lời nói của mi không nhằm mục đích làm cho ta sợ hãi. Nếu mi sợ thì mi cứ làm theo bản tính của mi, còn nếu ta không sợ thì ta cứ làm theo bản tính của ta.

- Lạy Chúa, con là kẻ có tội! Xantrô nói. Thưa ngài, vấn đề không phải như vậy; số là tôi biết một cách chắc chắn và có chứng cớ rằng cái bà tự xưng là hoàng hậu đại vương quốc Micômicôn kia cũng không hơn gì mẹ tôi cả. Nếu quả như lời bà ấy nói thì hà tất bà ấy cứ phải hôn vụng hôn trộm một anh chàng cùng bọn ở trong các xó xỉnh, sau lưng người khác làm gì.

Những lời nói của Xantrô làm Đôrôtêa đỏ mặt vì quả thật đôi lúc Đôn Phernanđô chồng nàng đã vụng trộm sử dụng đôi môi để hưởng một chút món phần thưởng mà chàng xứng đáng được nhận (Xantrô bắt gặp và bác cảm thấy hành động của Đôrôtêa là hành động của một con người lẳng lơ chứ không phải của bà hoàng một vương quốc lớn). Đôrôtêa không biết trả lời ra sao, đành phải để cho Xantrô nói tiếp; bác giám mã nói:

- Thưa ngài, tôi nói vậy vì nếu thầy trò ta phải mỏi gối chồn chân, sống những đêm vất vả và những ngày còn khổ cực hơn để cho con người nhởn nhơ kia phỗng tay trên công lao của mình thì hà tất tôi phải vội vàng đi đóng yên cương cho con Rôxinantê, con lừa của tôi và con ngựa của bà hoàng làm gì, thà rằng ta cứ ngồi yên một chỗ mà chén còn hơn, việc ai người ấy lo.

Ôi lạy Chúa! Nỗi tức giận của Đôn Kihôtê mới ghê gớm làm sao khi chàng nghe giám mã của mình thốt ra những lời hỗn hào như vậy! Ghê gớm đến nỗi giọng chàng trở nên dồn dập, lưỡi ríu lại, hai mắt nảy lửa; chàng thét lớn:

- Tên đê tiện, súc sinh, xấu xa, hỗn xược, ngu xuẩn, xằng bậy, càn rỡ, ngạo mạn, độc mồm độc miệng kia! Mi dám nói những lời như vậy trước mặt ta và trước những phu nhân quyền quý này ư? Đầu óc tối mù của mi dám nghĩ ra những chuyện xấu xa liều lĩnh như vậy ư? Hãy bước đi cho khuất mắt ta, hỡi con quái vật của tạo hóa, kho chứa chấp những điều dối giả, giảo quyệt, gian ngoan, kẻ bày đặt những chuyện xấu xa, vụng dại, kẻ thù của sự đúng mực cần phải có đối với các vị vua chúa! Bước ngay đi, chớ đứng trước mặt ta nếu không mi sẽ phải chịu đựng tất cả nỗi tức giận của ta.

Trong lúc nói, Đôn Kihôtê cau mày, phồng má, mắt đảo ngược đảo xuôi, chân phải giậm mạnh xuống đất, chứng tỏ rằng nỗi tức giận đang sôi sục trong lòng chàng. Trước những lời nói và thái độ giận dữ của chủ, Xantrô sợ run, chỉ mong sao đất ở dưới chân nẻ ra kéo bác xuống; bác chỉ còn một cách là rút lui để né tránh sự tức giận của chủ. Đã biết tính tình của Đôn Kihôtê, nàng Đôrôtêa khôn ngoan vội lên tiếng để làm nguôi cơn giận của chàng, nàng nói:

- Thưa hiệp sĩ Mặt Buồn, xin chàng chớ nổi giận vì những lời lẽ vụng dại của người giám mã trung thành của chàng. Chắc anh ta không dám nói bâng quơ đâu, vả chăng ta không thể nghi ngờ một con người có suy xét và có đạo như anh ta lại nói sai cho ai. Bởi vậy, ta có thể nghĩ một cách chắc chắn được rằng mọi chuyện xảy ra trong lâu đài này đều do yêu ma phù phép như chàng đã nói, và có thể là Xantrô đã nhìn sự việc qua con đường yêu thuật đó nên mới có những lời xúc phạm tới thanh danh của thiếp.

- Có Thượng đế chứng giám, Đôn Kihôtê nói, tôi xin thề là công chúa đã giải đáp đúng. Đúng là có một sự việc đã bị yêu thuật xuyên tạc và đã hiện ra trước mắt tên Xantrô tội lỗi này khiến cho y không thể nào nhìn khác được. Tôi rất hiểu là tên khốn khổ đó xưa nay có thiện tâm và hiền lành, không biết nói sai cho ai.

- Đúng như vậy và sẽ mãi mãi đúng như vậy, Đôn Phernanđô nói. Vì thế, thưa ngài Đôn Kihôtê, xin hãy tha lỗi cho anh ta và cho anh ta được trở về hầu hạ ngài kẻo lại có những sự việc khác làm anh ta mất trí một lần nữa.
Sau khi Đôn Kihôtê tuyên bố tha tội cho Xantrô, Cha xứ đi gọi bác về; Xantrô khúm núm tới quỳ trước mặt chủ và xin chủ đưa tay ra. Đôn Kihôtê chìa tay cho Xantrô hôn rồi chúc phúc cho giám mã, chàng nói:

- Xantrô con ta, bây giờ chắc con đã thấy là đúng những điều ta đã nhiều lần nói với con rằng mọi chuyện trong lâu đài này đều xảy ra qua con đường yêu thuật.

- Con tin rồi, Xantrô đáp, trừ câu chuyện về cái khăn trải giường mà con nghĩ là đã xảy ra qua con đường thông thường.

- Chớ nghĩ thế, Đôn Kihôtê nói, vì nếu chuyện đó có thật thì ta đã trả thù cho con lúc ấy và ngay cả lúc này; nhưng ta không làm được việc đó lúc ấy cũng như lúc này vì ta không biết trừng trị ai để rửa nhục cho con.

Thấy mọi người muốn biết chuyện chiếc khăn trải giường ra sao, chủ quán bèn kể lại đầu đuôi việc Xantrô Panxa bị tung bổng lên trời 2 khiến họ được một mẻ cười và Xantrô càng thêm bực bội. Đôn Kihôtê lại phải cam đoan với giám mã của mình rằng đó là chuyện yêu thuật; tuy nhiên, Xantrô không đến nỗi quá ngây thơ và bác vẫn tin rằng việc bác bị tung lên trời là sự thật đã được chứng minh, do những người bằng xương bằng thịt gây ra chứ không có yêu thuật và ma quái tưởng tượng nào cả như chủ bác đã nghĩ và khẳng định.

Đám khách thượng lưu đã nghỉ tại quán trọ được hai ngày và thấy đã đến lúc phải ra đi. Họ bàn cách để Cha xứ và bác phó cạo đưa Đôn Kihôtê về quê chữa chạy bệnh điên cho chàng theo ý muốn của hai người, không phải phiền tới Đôrôtêa và Đôn Phernanđô, và cũng không phải bày trò giải thoát cho công chúa Micômicôna nữa. Nhân có một chiếc xe bò đi qua, họ thương lượng nhờ người đánh xe chở Đôn Kihôtê theo cách sau đây: họ lấy những thanh gỗ đóng một chiếc cũi đủ rộng rãi cho Đôn Kihôtê ngồi trong đó một cách thoải mái, rồi theo lệnh và ý đồ của Cha xứ, Đôn Phernanđô, các bạn chàng, đám gia nhân của Đôn Luix và những người lính cảnh sát cùng chủ quán bịt kín mặt, cải trang mỗi người một kiểu để Đôn Kihôtê tưởng rằng họ không phải là những nhân vật mà chàng đã gặp ở trong lâu đài: xong đâu đấy, họ rón rén bước vào phòng Đôn Kihôtê lúc này đang ngủ lấy lại sức sau những chuyện rắc rối vừa qua.

Đôn Kihôtê ngủ rất thoải mái, không hề ngờ tới chuyện sẽ xảy ra. Bọn người tiến tới giữ chặt lấy chàng rồi trói ghì chân tay lại; giật mình tỉnh dậy, Đôn Kihôtê không sao cựa quậy được, chỉ còn biết kinh ngạc sửng sốt trước những bộ mặt vô cùng kỳ quái. Với một trí tưởng tượng ngông cuồng sẵn có, chàng nghĩ rằng tất cả những kẻ ở trước mặt mình là loài yêu quái của tòa lâu đài đã bị ma ám này và không còn nghi ngờ gì nữa, chàng cũng đã bị phù phép vì không sao nhúc nhích và chống cự được. Sự việc xảy ra đúng như dự tính của Cha xứ, tác giả của mưu kế này. Trong số những người có mặt, riêng Xantrô vẫn tỉnh táo và vẫn ăn mặc bình thường; tuy cũng mắc bệnh na ná như chủ, bác vẫn nhận được mặt những người cải trang, nhưng bác không nói năng gì, chờ xem câu chuyện tấn công và bắt bớ ông chủ mình kết thúc ra sao. Đôn Kihôtê cũng lặng yên chờ coi số phận của mình xoay vần đến đâu. Người ta mang chiếc cũi tới, nhốt chàng vào rồi đóng chặt then, không sao phá ra được. Xong xuôi, họ vác cũi lên vai khiêng đi. Vừa ra khỏi buồng, bỗng đâu vang lên một tiếng nói mà bác phó cạo cố làm ra vẻ rùng rợn (đây là bác phó Nicôlax chứ không phải ông thợ cạo có bộ yên lừa):

- Hỡi hiệp sĩ Mặt Buồn! Ngươi chớ nên buồn phiền về sự giam cầm này vì có như vậy ngươi mới sớm hoàn thành cuộc phiêu lưu mạo hiểm mà lòng dũng cảm của ngươi đã dành cho ngươi. Rồi đây, cuộc phiêu lưu sẽ kết thúc một khi con sư tử hung dữ xứ Mantra sum vầy với con bồ câu trắng làng Tôbôxô sau khi cả hai đã kính cẩn cúi đôi vầng trán hiên ngang dưới cái ách êm ái của một cuộc hôn nhân. Và cuộc sum họp có một không hai đó sẽ làm nảy nở dưới vòm trời này những sư tử con dũng mãnh có những móng vuốt sắc nhọn cũng giống như cha dũng cảm của chúng. Việc đó sẽ xảy ra trước khi Apôlô - vị thần đuổi bắt nữ thần trốn chạy 3 -, trong cuộc vận hành tự nhiên và thần tốc của mình, đi hết hai vòng quanh mười hai cung chói lọi. Còn ngươi, hỡi giám mã cao quý và ngoan ngoãn, có gươm đeo thắt lưng, có bộ râu đáng kính và đôi lỗ mũi nhạy cảm! Chớ nên phiền lòng nản chí vì thấy người ta nhốt một trang hào kiệt của giới hiệp sĩ giang hồ vào trong cũi và khiêng đi ngay trước mắt ngươi. Với sự sắp đặt của hóa công kia, chẳng bao lâu ngươi sẽ được quyền cao chức trọng khiến ngươi sẽ không nhận ra mình nữa, và những lời hứa hẹn của chủ ngươi sẽ không phải là những lời nói suông. Nhân danh nữ pháp sư Mentirôniana, ta cam đoan với ngươi rằng công sá của ngươi sẽ được trả đầy đủ như rồi ngươi sẽ thấy. Hãy theo gót chàng hiệp sĩ dũng cảm đang bị yêu thuật phù phép vì ngươi cần đi tới chỗ nghỉ đã định cho cả hai thầy trò. Ta không được phép nói thêm, Chúa sẽ phù hộ các người. Thôi, ta trở về nơi mà chỉ riêng ta biết.

Tới đoạn kết thúc lời tiên tri, tiếng bác phó cạo khi lên bổng lúc xuống trầm khiến ngay những người trong cuộc tưởng đâu cũng phải tin vào những điều nghe thấy.

Nghe xong lời phán, Đôn Kihôtê cũng thấy xuôi xuôi. Chàng suy luận về từng điểm và hiểu được hết ý. Theo lời hứa hẹn của nhà tiên tri, chàng sẽ sum vầy với nàng Đulxinêa làng Tôbôxô yêu quý bằng một cuộc thiên duyên xứng đáng, và từ trong bụng người đàn bà mắn đẻ ấy sẽ nảy sinh ra những sư tử con, tức là những đứa con trai của chàng, làm cho xứ Mantra đời đời rạng rỡ. Đinh ninh là thế, chàng buông một tiếng thở dài, cất cao giọng nói:

- Dù người là ai chăng nữa, người cũng đã nói về ta những điều thật tốt lành. Ta nhờ người nhân danh ta cầu vị pháp sư hãy quan tâm đến ta, đừng bắt ta phải chết mòn trong chốn lao tù này, để ta còn nhìn thấy những lời hứa hẹn quá ư tốt đẹp trên đây trở thành sự thật. Nếu được như vậy, những nỗi khổ cực của lao tù đối với ta sẽ là niềm vinh quang, những dây xích quấn quanh mình ta là điều an ủi, tấm ván mà họ đặt ta nằm lên chẳng phải là một chiến trường gian khổ, trái lại nó là một chiếc giường cưới mềm mại và êm ái. Còn về việc giám mã Xantrô Panxa của ta có đi theo chăm sóc ta hay không, ta tin vào lòng tốt và nết ăn ở của y, nghĩ rằng y không bỏ rơi ta dù ta gặp vận may hay rủi. Nếu số phận của y hoặc số phận của ta không ra gì khiến ta không thể ban cho y một hòn đảo hoặc một bổng lộc gì tương đương như ta đã hứa, ít ra y cũng không mất khoản công sá vì ta đã làm di chúc trong đó ta có ghi rõ những thứ dành riêng cho y, căn cứ vào khả năng của ta chứ không căn cứ vào công lao to lớn của y.

Xantrô Panxa cúi rạp người vái một cách rất cung kính rồi hôn luôn cả hai tay của chủ - số là hôn một tay không được vì cả hai tay của Đôn Kihôtê bị trói chập vào nhau.

Bầy yêu quái khiêng chiếc cũi lên vai và đặt lên xe bò.


--------------------------------
1Xervantêx quên rằng trước đó đám gia nhân đã "quyết định ba người trong bọn họ trở về thuật lại tình hình với cha Đôn Luix, còn một người ở lại theo hầu" chàng.
2Ở chương XVII.
3Thần Ánh sáng Apôlô đuổi theo nữ thần Đaphnê quanh mười hai cung trên hoàng đạo, mỗi vòng là một năm.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes

Chương XLVII

CÂU CHUYỆN LẠ LÙNG VỀ CHÀNG HIỆP SĨ ĐÔN KIHÔTÊ XỨ MANTRA BỊ PHÙ PHÉP, CÙNG NHỮNG CHUYỆN LY KỲ KHÁC


Thấy mình bị nhốt vào cũi và đặt lên xe bò, Đôn Kihôtê nói:

- Ta đã đọc nhiều sách viết rất nghiêm túc về các hiệp sĩ giang hồ, nhưng ta chưa hề đọc, nhìn hoặc nghe thấy nói có hiệp sĩ nào bị phù phép và bị những con vật lười biếng và lề mề đưa đi một cách chậm chạp như thế này. Thông thường, người ta đưa các hiệp sĩ đi một cách nhẹ nhàng trên không trung, có một đám mây đen hoặc một chiếc xe phóng hỏa bao phủ khắp người, hay là cho họ cưỡi quái ưng mã hoặc một con vật gì tương tự. Thế mà giờ đây người ta đưa ta đi bằng một chiếc xe bò! Trời ơi! Thật là nhục nhã! Nhưng có thể nghề hiệp sĩ và những chuyện yêu thuật đời nay đi theo một con đường khác xưa rồi. Cũng có thể vì ta là hiệp sĩ mới trên đời này và là người đầu tiên phục hồi nghề hiệp sĩ giang hồ đã bị lãng quên cho nên pháp luật bây giờ cũng khác và cách thức đưa những người bị phù phép đi bây giờ cũng khác, Xantrô con ta thấy thế nào?

- Tôi chẳng thấy thế nào cả, Xantrô đáp, tôi có đọc nhiều kinh giang hồ như ngài đâu. Tuy nhiên, tôi dám cam đoan và thề rằng những bóng ma ở chung quanh ta không được lương thiện lắm.

- Lương thiện ư? Đôn Kihôtê kêu lên. Mẹ ơi! Làm sao có thể lương thiện được một khi chúng là loài yêu ma hiện thành những hình thù quỷ quái tới đây làm chuyện này và đưa ta vào cảnh ngộ này! Nếu ngươi muốn biết sự thật, hãy lấy tay sờ nắn vào người chúng; ngươi sẽ thấy rằng thân hình của chúng toàn là không khí cả, chỉ có cái vỏ bề ngoài thôi.

- Lạy Chúa, tôi sờ rồi. Có một con yêu nhanh như con thoi, da dẻ đỏ hồng; nó còn một đặc tính khác hẳn các con yêu quái khác. Người ta bảo rằng loài yêu quái sặc mùi diêm sinh, trái lại con yêu này có mùi long diên, cách xa nửa dặm vẫn ngửi thấy.

Xantrô đang nói về Đôn Phernanđô; quả thật một con người sang trọng như chàng ắt phải tỏa ra mùi thơm như Xantrô vừa tả.

- Anh bạn Xantrô chớ lấy thế làm lạ, Đôn Kihôtê bảo. Ta nói cho mà biết rằng lũ yêu ma tinh ranh lắm đấy. Dù người chúng có mùi cũng không ai ngửi thấy gì đâu vì chúng là loài yêu ma và dù có ngửi được thì cũng không thấy ở người chúng mùi gì thơm tho đâu mà chỉ toàn những mùi thối tha xú uế. Nguyên nhân là vì đi tới đâu chúng cũng chỉ gieo rắc những cảnh địa ngục và mang lại đau khổ, bởi thế cho nên chúng không thể có mùi thơm được vì hương thơm làm con người ta khoan khoái dễ chịu. Nếu như ngươi cảm thấy con yêu có mùi long diên, đó là vì ngươi nhầm hoặc là con yêu nọ đánh lừa để ngươi không nhận ra nó là con yêu.

Nghe chủ và tớ bàn bạc với nhau như vậy, Đôn Phernanđô và Carđêniô sợ Xantrô phát hiện ra mưu kế của họ vì thấy bác đã đi sát vào vấn đề rồi, bèn quyết định lên đường sớm. Họ gọi riêng chủ quán ra một chỗ, bảo đóng ngay yên cho con Rôxinantê và con lừa của Xantrô; chủ quán thi hành tức khắc. Trong lúc đó, Cha xứ đã nhờ được những người lính cảnh sát hộ tống Đôn Kihôtê về quê nhà, hứa sẽ trả công cho họ tính theo số ngày đi đường. Carđêniô treo khiên và mũ sắt của Đôn Kihôtê vào cốt yên ngựa, mỗi bên một chiếc; chàng ra hiệu cho Xantrô leo lên lừa cầm cương con Rôxinantê dắt đi theo, rồi bố trí mỗi người lính cảnh sát cầm súng hỏa mai đi một bên xe. Trước khi xe chuyển bánh, vợ chủ quán, con gái và cô hầu Maritornêx chạy ra tiễn chân Đôn Kihôtê, vờ khóc lóc xót thương cho nỗi bất hạnh của chàng; Đôn Kihôtê bảo họ:

- Xin các quý phu nhân chớ khóc lóc làm chi, tất cả những bất hạnh này đều là tất nhiên đối với những người làm nghề nghiệp như tôi. Và nếu những tai họa đó không đến với tôi thì tôi cũng không thể tự coi mình là một hiệp sĩ giang hồ trứ danh được. Những hiệp sĩ vô danh tiểu tốt không bao giờ gặp những trường hợp tương tự như thế này bởi chưng thiên hạ có để ý tới họ đâu. Chỉ có những hiệp sĩ dũng cảm mới được nhắc nhở tới; họ bị nhiều ông hoàng bà chúa và các hiệp sĩ khác ghen đức ghen tài vẫn tìm cách hãm hại những người ngay thẳng bằng những mưu ma chước quỷ. Tuy nhiên, đạo đức là một sức mạnh vô địch cho nên dù có các phép yêu thuật của kẻ phát minh đầu tiên là Dôrôaxtêx, bản thân sức mạnh của đạo đức vẫn thắng được tất cả và tỏa ánh sáng lên khắp mặt đất như mặt trời tỏa ánh sáng trong vũ trụ. Xin chư vị phu nhân tha lỗi cho tôi nếu vì sơ suất tôi đã có điều gì xúc phạm; quả thật tôi không bao giờ cố tình làm điều đó đối với bất cứ ai; chư vị hãy cầu Chúa giải thoát cho tôi khỏi cảnh lao tù này mà một tên pháp sư độc bụng nào đó đã gây ra cho tôi. Một khi được trở lại tự do, tôi sẽ không quên những công ơn mà các vị đã dành cho tôi trong thời gian tôi nghỉ tại lâu đài này; tôi sẽ đền ơn, phụng sự và hậu tạ các vị một cách xứng đáng.

Trong lúc các nữ chủ nhân lâu đài trò chuyện với Đôn Kihôtê, Cha xứ và bác phó cạo chia tay với Đôn Phernanđô và các bạn của chàng, với viên đại úy và ông bồi thẩm, với tất cả các cô gái lúc này đều vui vẻ, đặc biệt với Đôrôtêa và Luxinđa. Mọi người ôm nhau thắm thiết, hứa sẽ báo tin tức cho nhau. Đôn Phernanđô đưa địa chỉ cho Cha xứ, dặn phải viết thư báo cho biết tình hình của Đôn Kihôtê vì không có gì làm cho chàng vui thích hơn là được biết tin đó; chàng cũng hứa sẽ báo cho Cha xứ biết những điều mà chàng nghĩ là có thể làm cho Cha xứ vui thích, những tin tức về hôn lễ của chàng và lễ làm phép thông công của Dôraiđa, về chuyện riêng của Đôn Luix và về việc Luxinđa trở về nhà cha mẹ. Cha xứ hứa sẽ làm đúng yêu cầu của Đôn Phernanđô, không sai một ly. Họ lại ôm nhau hôn hít và một lần nữa lại hứa hẹn sẽ thực hiện những yêu cầu của nhau. Chủ quán tới đưa cho Cha xứ một tập truyện; bác nói là đã tìm thấy trong lần lót chiếc hòm đựng tập Truyện anh chàng hiếu kỳ khờ dại, và vì chủ nhân của nó không trở lại đòi nên bác cho tất, bác không biết đọc nên chẳng giữ làm chi. Cha xứ cám ơn chủ quán rồi mở ra xem thì thấy trên đầu tập truyện có ghi: Truyện Rincônêtê và Cortađiiô; ông đoán là tiểu thuyết. Vì đã được thưởng thức Truyện anh chàng hiếu kỳ khờ dại, ông đoán rằng tập này cũng phải lý thú vì có thể cả hai tập truyện đều do một tác giả viết; ông bèn cất đi, định bụng khi nào có dịp sẽ đọc.

Cha xứ và ông bạn là bác phó cạo leo lên lưng lừa (hai người vẫn đeo mặt nạ để Đôn Kihôtê không nhận ra ngay được) rồi ra đi theo chiếc xe bò. Cả đoàn theo thứ tự sau đây: đi đầu là chiếc xe bò do chủ xe điều khiển, hai bên có hai người lính cảnh sát mang súng như tả ở trên, tiếp đến Xantrô Panxa ngồi trên mình lừa tay cầm cương dắt con Rôxinantê, cuối cùng là Cha xứ và bác phó cạo cưỡi trên những con lừa lực lưỡng, mặt bịt kín như đã kể, đi một cách nghiêm trang và ung dung theo bước chân chậm chạp của những con bò kéo. Đôn Kihôtê ngồi trong cũi, hai tay bị trói chặt vào nhau, chân duỗi thẳng, lưng tựa vào chấn song; chàng ngồi yên lặng và nhẫn nại, tưởng đâu một pho tượng đá chứ không phải một người bằng xương bằng thịt. Thủng thẳng và lặng lẽ, cả đoàn đi được hai dặm đường thì tới một thung lũng. Thấy có chỗ thuận tiện cho bò nghỉ ăn cỏ, người đánh xe nói với Cha xứ cho dừng lại, nhưng bác phó cạo lại có ý kiến là nên đi thêm quãng nữa vì bác biết ở bên kia dốc trước mặt còn một thung lũng khác có nhiều cỏ, nghỉ ngơi tốt hơn chỗ họ đang muốn nghỉ. Ý kiến của bác phó được tán thành và mọi người tiếp tục đi.

Lúc này Cha xứ quay đầu lại thì thấy phía sau lưng có sáu, bảy người áo quần chỉnh tề bảnh bao, đang phi tới. Họ sắp đuổi kịp vì lừa của họ là lừa của thầy tu, không nhẩn nha thủng thẳng như bò kéo xe, vả chăng họ muốn sớm tới quán trọ cách đó chưa đầy một dặm để còn nghỉ trưa. Thế là đám người nhanh nhẹn đã đuổi kịp đám người lề mề; khi đi ngang, hai bên chào hỏi nhau rất lễ phép. Một người trong đám mới tới - đó là một thầy tu ở Tôlêđô phụ trách đám này - nhìn thấy chiếc xe bò, những người lính cảnh sát, Xantrô, Rôxinantê, Cha xứ, bác phó cạo và nhất là thấy Đôn Kihôtê bị nhốt trong cũi, ông ta không thể không lên tiếng hỏi vì sao đưa một người đi như vậy, mặc dù ông đã trông thấy phù hiệu của những người lính cảnh sát và đoán ra rằng đó là một tên kẻ cướp xấu xa hoặc một kẻ tội phạm để trao cho đội Xanta Ermanđát trừng trị. Một người lính cảnh sát thấy ông thầy tu hỏi, bèn đáp:

- Thưa ngài, chúng tôi xin để ông hiệp sĩ ấy nói lý do vì sao bị đưa đi như thế này bởi vì chúng tôi không biết gì cả.

Nghe thấy vậy, Đôn Kihôtê lên tiếng:

- Thưa các ngài hiệp sĩ, chẳng hay các ngài có am hiểu những chuyện về nghề hiệp sĩ giang hồ không? Nếu có, tôi xin thổ lộ những nỗi bất hạnh của tôi, bằng không thì tôi không hơi đâu mất công nói ra làm gì.

Thấy đám người mới tới bắt chuyện với hiệp sĩ Đôn Kihôtê xứ Mantra, Cha xứ và bác phó cạo vội tiến đến để liệu lời đối đáp cho khỏi lộ mưu kế.

Nghe Đôn Kihôtê hỏi, ông thầy tu đáp:

- Người anh em, quả thật tôi còn biết nhiều về những sách kiếm hiệp hơn cả những sách lý luận của giáo sư Viiapanđô. Bởi vậy, nếu chỉ là vấn đề đó thì chắc chắn ngài có thể thổ lộ với tôi những điều ngài muốn nói.

- Nếu vậy thì được, Đôn Kihôtê đáp. Thưa hiệp sĩ, tôi xin thưa để ngài rõ rằng tôi bị những tên pháp sư xấu bụng xấu dạ dùng yêu thuật lừa nhốt tôi vào trong chiếc cũi này. Xưa nay tài đức thường bị những kẻ xấu xa ghét bỏ hơn là được những người tử tế ái mộ. Tôi là một hiệp sĩ giang hồ, tôi không thuộc loại người bị thần Thanh danh lãng quên không làm cho rạng rỡ muôn đời; trái lại tôi đứng trong hàng ngũ những hiệp sĩ được vị thần đó ghi tên tuổi vào trong ngôi đền của sự bất diệt, dù cho có sự ghen ghét, dù cho có sự chống đối của bao nhiêu đạo sĩ xứ Perxia, của bao nhiêu kẻ theo đạo Bà-la-môn ở Ấn Độ và bao nhiêu kẻ theo triết lý Lõa thần tiên ở Êtiôpia 1; và những tên tuổi đó sẽ là khuôn vàng thước ngọc để cho các hiệp sĩ giang hồ của các thế kỷ sau đây nhìn thấy bước đường phải noi theo nếu họ muốn đạt tới đỉnh cao vinh quang của nghề võ.

Cha xứ vội nói chen vào:

- Ngài Đôn Kihôtê xứ Mantra nói đúng đấy. Ông ta bị phù phép đưa đi trên chiếc xe này không phải vì mắc lỗi lầm gì mà do ý đồ xấu xa của những kẻ ghen đức, ghét tài. Thưa ngài, nếu đã có lúc nào ngài được nghe danh, đây chính là hiệp sĩ Mặt Buồn mà những chiến công hiển hách và những hành động dũng cảm sẽ được ghi vào bảng đồng bia đá dù cho lòng ghen ghét và những mưu ma chước quỷ tìm cách bôi nhọ xóa nhòa.

Nghe người bị nhốt trong cũi và kẻ đứng bên ngoài nói năng theo kiểu cách như vậy, ông thầy tu vội làm dấu vì quá sửng sốt, chẳng hiểu đầu đuôi câu chuyện ra sao; những người đi theo ông cũng đều lấy làm ngạc nhiên.

Xantrô từ nãy tới giờ cũng có mặt tại đấy, bèn đặt lại vấn đề cho đúng chỗ, bác nói:

- Thưa các ngài, dù các ngài yêu hay ghét tôi vì những điều tôi nói ra đây, việc ông chủ Đôn Kihôtê của tôi bị phù phép cũng giống như mẹ tôi bị phù phép mà thôi. Ông ta vẫn có đủ sự suy xét, ông ta vẫn ăn, vẫn uống, vẫn làm mọi việc cần thiết cho bản thân như mọi người, như ông ta đã làm ngày hôm qua trước khi bị nhốt cũi. Sự việc là như vậy. Làm sao người ta lại muốn tôi phải tin rằng ông ta bị phù phép? Tôi có nghe rất nhiều người nói rằng những kẻ bị phù phép không ăn, không ngủ, không nói; đằng này, nếu không có ai ngăn cản, ông chủ tôi còn có thể nói nhiều hơn ba mươi quan biện lý.

Bác quay về phía Cha xứ và nói tiếp:

- Cha xứ ơi! Ngài tưởng tôi không nhận ra ngài ư? Ngài tưởng tôi không nhìn thấu và không đoán được rằng những phép yêu thuật mới lạ này nhằm mục đích gì ư? Tôi nói cho ngài biết rằng tôi đã nhận ra ngài dù ngài bịt kín mặt, và tôi cũng đã hiểu ngài rồi mặc dù ngài cố che giấu những mưu mô của ngài. Tóm lại, ở đâu có sự ghen ghét thì ở đó tài đức không sống nổi, và ở đâu có sự hẹp hòi thì cũng không thể có sự rộng lượng. Dù cho ma quỷ có làm gì chăng nữa, nếu ngài không dính vào chuyện này thì giờ đây ông chủ tôi đã cưới công chúa Micômicôna rồi và xoàng ra tôi cũng đã là bá tước vì rằng với tấm lòng tốt của ông chủ tôi là ngài Mặt Buồn và với công lao to lớn của tôi, không thể nào có chuyện khác được! Nhưng đúng như thiên hạ thường nói, bánh xe của thần May Rủi quay nhanh hơn bánh xe của cối xay và những kẻ hôm qua vừa lên voi, hôm nay đã xuống chó. Tôi thương hại cho vợ và các con tôi; đáng lẽ phải được thấy cha chúng trở về nhà với chức thống đốc hoặc phó vương một hòn đảo hay một vương quốc nào đó thì trái lại các con tôi thấy tôi vẫn chỉ là một anh coi ngựa mà thôi. Thưa Cha xứ, ngài là bậc cha chú và những điều tôi vừa nói chỉ nhằm mục đích kêu gọi ngài lưu tâm tới ông chủ tôi đang phải chịu cực khổ. Ngài hãy liệu đấy kẻo một khi sang bên kia thế giới, Chúa sẽ chất vấn ngài về việc ông chủ tôi bị giam giữ và sẽ kết tội ngài vì trong suốt thời gian bị cầm tù, ông chủ Đôn Kihôtê của tôi không ra tay cứu khốn phò nguy được cho ai.

Nghe thấy vậy, bác phó cạo bèn nói:

- Thật là chuyện ấm ớ! Xantrô, vậy ra anh cũng một giuộc với chủ anh ư? Lạy Chúa, anh quả là đáng bị nhốt chung một cũi với chủ và đáng bị phù phép như ông ta vì anh cũng giống tính hiệp sĩ giang hồ của ông ta. Anh đã phổng mũi vì những lời hứa hẹn của ông ta và hòn đảo mà anh ao ước đã ăn sâu vào đầu óc anh một cách tai hại.

- Tôi chẳng phổng mũi vì ai cả, Xantrô đáp; tôi là một người không chịu để ai làm cho phổng mũi, dù là đức vua. Tôi tuy nghèo nhưng có đạo gốc và tôi không nhờ vả gì ai cả. Tôi chỉ ao ước một hòn đảo trong lúc khối kẻ mong muốn những điều tồi tệ hơn thế cơ. Ở đời muốn biết kẻ hay người dở thì cứ nhìn hành động của họ sẽ rõ. Tôi đã làm người thì cũng có thể làm giáo hoàng được, và lại càng làm được thống đốc một hòn đảo, nhất là ông chủ tôi có thể chiếm được nhiều đến nỗi không có đủ người để trao cho. Ông phó cạo ơi, hãy liệu giữ mồm vì biết cạo râu chưa đủ để bàn chuyện này đâu; hai vấn đề khác nhau lắm đấy. Tôi nói vậy bởi vì chúng ta đã biết nhau cả, đừng bịp tôi làm gì. Về chuyện ông chủ tôi bị phù phép, chỉ có Chúa biết sự thật; thôi, hãy xếp nó lại kẻo bới ra chỉ thêm dở.

Bác phó cạo không muốn trả lời Xantrô sợ anh giám mã này cứ dây cà ra dây muống làm lộ hết mưu kế mà bác và Cha xứ đang cố tìm cách che giấu. Cũng vì lý do đó, Cha xứ kéo thầy tu đi vượt lên phía trước, hứa sẽ nói rõ những điều bí mật về con người bị nhốt cũi cùng các chuyện lý thú khác. Ông thầy tu và đám người theo hầu bèn đi lên trước, chăm chú nghe tất cả những điều Cha xứ kể về tính tình, cuộc đời, bệnh điên rồ và những tập quán của Đôn Kihôtê. Bằng những lời ngắn gọn, ông kể lai lịch bệnh điên của chàng, những việc chàng đã làm cho tới khi bị nhốt cũi, mưu kế của ông và bác phó cạo để đưa chàng về quê tìm cách chữa bệnh điên cho chàng. Câu chuyện ly kỳ của Đôn Kihôtê làm ông thầy tu và những người hầu của ông ngạc nhiên lắm; nghe xong, thầy tu nói:

- Thưa Cha xứ, quả thật tôi nhận thấy rằng những cuốn sách mà người ta gọi là kiếm hiệp có hại cho nước nhà. Trong những lúc nhàn rỗi và bị một ham thích sai lầm lôi cuốn, tôi cũng có đọc hầu hết những cuốn sách kiếm hiệp đã được xuất bản, nhưng tôi không sao đọc được từ đầu đến cuối bởi vì tôi cho rằng dù nhiều hay ít, các sách đó cũng giống nhau, không cuốn nào hơn cuốn nào. Theo ý tôi, thứ văn chương đó thuộc loại hoang đường và vô lý, chỉ để giải trí chứ không có tính chất giáo dục, trái với loại ngụ ngôn vừa giải trí vừa giáo dục. Những cuốn sách đó nhằm mục đích chính là giải trí nhưng lại đầy rẫy những chuyện nhảm nhí thì làm sao đạt được mục đích đề ra. Tâm hồn trở nên sảng khoái trước cái đẹp, cái hài hòa mà con người ta nhìn hoặc cảm thấy qua những sự vật hiện ra trước mắt hoặc qua những ý nghĩ nảy ra trong tư tưởng; tất cả những cái gì xấu xí đồi bại đều không làm cho ta hài lòng. Thử hỏi có gì hay ho và làm gì có sự liên quan giữa một đoạn này hay một đoạn nọ với toàn bộ câu chuyện khi một cuốn sách hay một truyện hoang đường kể rằng một chàng trai mười sáu tuổi đầu chém một nhát đứt đôi một tên khổng lồ to như cái tháp, như thể chém bùn vậy; lại nữa, người ta tả một trận giao chiến giữa một bên là một triệu người và một bên chỉ có một hiệp sĩ, nhân vật chính của câu chuyện, và dù muốn hay không, ta cũng bắt buộc phải hiểu là anh chàng hiệp sĩ đó giành được thắng lợi với sự dũng mãnh của cánh tay mình. Ta nghĩ gì khi thấy một bà hoàng dễ dàng cho một hiệp sĩ giang hồ không quen biết ôm vào lòng? Liệu có bộ óc nào, nếu không u mê dốt nát, thấy thích thú khi sách kể rằng có một tòa tháp đồ sộ chở đầy hiệp sĩ, bơi vun vút trên mặt biển như một con thuyền thuận gió, buổi tối hôm trước còn ở Lômbarđia, sáng sớm hôm sau đã tới đất của Prextê Huan ở châu Mỹ hoặc một nơi nào khác mà ngay Tôlômêô và Marcô Pôlô cũng chưa tìm ra hoặc nhìn thấy không? Nếu người ta trả lời tôi rằng tác giả những cuốn sách đó viết truyện hoang đường nên không cần phải chú ý tới những chi tiết về sự thật, tôi sẽ đối đáp lại rằng một truyện hoang đường sẽ càng lý thú một khi nó giống như một câu chuyện thật và nó lại càng lý thú một khi người đọc cảm thấy những sự việc nêu trong sách có vẻ có thật và có thể xảy ra được. Phải viết làm sao cho những truyện hoang đường ăn khớp với sự suy xét của độc giả, biến những cái không thể có thành những cái có thể có, gọt giũa những chuyện quái gở để người đọc cảm thấy hồi hộp, thích thú, thán phục và thỏa mãn. Người viết không thể đạt tới những điểm nêu trên đây nếu không tìm tòi những câu chuyện có lý, giống như thật, những yếu tố mang lại sự hoàn thiện hoàn mỹ cho tác phẩm của mình. Tôi chưa nhìn thấy một quyển kiếm hiệp nào hợp thành một thể hoàn chỉnh với đầy đủ các phần, phần giữa khớp với phần đầu, phần cuối khớp với phần đầu và phần giữa, trái lại chỉ thấy những đoạn văn lủng củng không ăn ý với nhau, như thể tác giả muốn đẻ ra một quái thai chứ không phải một hình thể cân đối. Đã vậy, bút pháp lại thô thiển, những chiến công thì khó tin, những truyện tình ái thì dâm ô, những phép xã giao lố lăng, những trận giao chiến dài dằng dặc, những lời lẽ ngớ ngẩn, những cuộc du hành phi lý, tóm lại những cuốn sách đó viết thiếu kỹ xảo, thiếu tế nhị và đáng phải trục xuất khỏi một nước Kitô giáo như những vật vô dụng.

Cha xứ chăm chú nghe ông thầy tu lý luận, cảm thấy ông ta là một người hiểu biết và những điều ông ta nói đều đúng. Cha tỏ ý tán thành những ý kiến của ông, nói rằng mình cũng căm thù những cuốn sách kiếm hiệp nên đã đốt nhiều cuốn của Đôn Kihôtê; ông kể việc lục soát kho sách của chàng hiệp sĩ, những cuốn bị kết tội hỏa thiêu và những cuốn được lưu lại; thầy tu nghe xong cười mãi rồi nói:

- Tuy tôi phê phán những cuốn sách đó hết lời nhưng tôi thấy chúng cũng có mặt tốt vì đó là một đề tài cho những bộ óc giỏi giang có thể tung hoành, một lĩnh vực bao la cho nhà văn múa bút, tả những cảnh đắm tàu, những cơn bão táp, những cuộc gặp gỡ và đọ sức, tả một viên đại úy dũng cảm với tất cả những đức tính cần có, khôn ngoan đoán trước được mưu mô của kẻ địch, có tài hùng biện thuyết phục binh lính, chín chắn trong lời nói, nhanh nhẹn trong hành động, kiên nhẫn khi chờ đợi, dũng cảm khi tấn công; lại cũng có thể tả một sự việc bi thảm, một chuyện vui bất ngờ, một phu nhân tuyệt đẹp, chung thủy, ý tứ và khôn ngoan, một hiệp sĩ Ki-tô giáo dũng cảm và mưu trí, một kẻ ngu xuẩn nói khoác một tấc đến trời, một ông hoàng phong nhã, anh dũng và đáng yêu, lòng trung thành của những thần dân lương thiện, sự cao sang và tính hào phóng của các vị lãnh chúa. Nhà văn đồng thời phải là nhà chiêm tinh học, nhà vũ trụ học, nhạc sĩ, một người am hiểu những vấn đề của quốc gia, và nếu cần, có khi còn là pháp sư nữa. Có khi phải tả những mưu mẹo của Ulixê, lòng hiếu thảo của Ênêax, sự dũng cảm của Akilêx, những bất hạnh của Êchtor, sự phản trắc của Xinôn, tình bằng hữu của Ơrialô, tính hào phóng của Alêhanđrô, lòng can đảm của Xêdar, lòng nhân thứ và trung thực của Trahanô, lòng trung thành của Dôpirô, tính thận trọng của Catôn, tập trung những điểm đó vào một người hoặc gán cho nhiều người khác nhau để tạo ra những nhân vật nổi danh. Một khi đẻ ra được một tác phẩm với một bút pháp điêu luyện và một trí sáng tạo tài tình khiến người đọc tưởng như chuyện thật, vậy là tác giả đã dệt ra một tấm vải bằng nhiều sợi chỉ bền đẹp, và tác phẩm hoàn chỉnh đó đã đạt tới đỉnh cao của văn học tức là vừa giáo dục vừa giải trí như tôi nói ở trên. Quả thật, phạm vi rộng rãi của loại sách kiếm hiệp cho phép tác giả sử dụng nhiều thể văn như anh hùng ca, trữ tình, bi ai, hài hước, vận dụng tất cả những nét duyên dáng đáng yêu của văn vần và văn xuôi vì trong thể anh hùng ca dùng được cả loại văn xuôi lẫn văn vần.


--------------------------------
1Triết lý Lõa thần tiên ở Ấn Độ, không phải ở Êtiôpia.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes

Chương XLVIII

THẦY TU TIẾP TỤC LUẬN VỀ SÁCH KIẾM HIỆP VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁC VỚI MỘT HIỂU BIẾT UYÊN THÂM


- Thật đúng như ngài nói, Cha xứ đáp; và chính vì thế mà những kẻ cho tới nay đã soạn ra những cuốn sách như vậy càng đáng khiển trách. Họ bất chấp lẽ phải, nghệ thuật và luật lệ là những điều có thể hướng dẫn họ sáng tác và làm cho họ trở thành nổi danh trong lĩnh vực văn xuôi như hai ông hoàng của thơ ca Hy Lạp và La tinh đã nổi danh trong lĩnh vực văn vần.

- Tuy nhiên, ông thầy tu nói, tôi cũng có ý định viết một cuốn sách kiếm hiệp trong đó có tất cả những điểm tôi vừa nêu trên đây, và nếu phải nói thật, tôi đã viết được hơn một trăm tờ. Và để xem sự đánh giá của tôi có chính xác hay không, tôi đã đưa cho những người thông thái giỏi giang ham đọc loại sách đó, rồi lại đưa cho cả những kẻ dốt nát xưa nay chỉ thích nghe những chuyện vô lý; kết quả là tất cả đều tán thưởng. Mặc dù vậy, tôi cũng không viết nốt, nghĩ rằng mình làm một việc xa lạ với nghề nghiệp của mình; vả lại trên đời này người ngu nhiều hơn người khôn nên tôi không muốn chịu sự nhận xét vụng về của những kẻ phàm phu xưa nay thường đọc loại sách này, mặc dù những lời khen của số ít người khôn còn giá trị hơn những lời chê của số đông người dại. Nhưng có một điều chủ yếu đã khiến đôi tay và cả bộ óc của tôi không muốn hoàn thành cuốn sách, đó là một suy nghĩ mà bản thân tôi đã rút ra từ những vở kịch đương thời; suy nghĩ đó như sau: tất cả hoặc hầu hết những vở kịch đang được trình diễn - kể cả những vở hư cấu và những vở dựa theo lịch sử - được những kẻ tầm thường thích thú hâm mộ mặc dù những vở đó chỉ nêu lên những chuyện vô lý, không đầu không đuôi, không đáng được ca ngợi; mặt khác các tác giả và diễn viên của những vở kịch đó nói rằng cần phải đưa ra như vậy mới hợp khẩu vị của đa số công chúng vì rằng những vở kịch soạn theo đúng quy tắc và yêu cầu của nghệ thuật chỉ được dăm ba người sành sỏi tán thưởng còn số đông không hiểu nổi cái hay của nó; rồi họ nói rằng cần dựa vào số đông để kiếm tiền nuôi miệng hơn là dựa vào sự tán thưởng của thiểu số. Như vậy thì cuốn sách của tôi sẽ phải chịu số phận hẩm hiu mặc dù tôi nhọc lòng làm theo đúng quy tắc của nghệ thuật, chẳng khác nào công dã tràng. Đôi lúc tôi có tìm cách thuyết phục các diễn viên, nói rằng họ đã nghĩ nhầm, rằng chỉ có diễn những vở kịch được biên soạn công phu mới lôi cuốn được nhiều người và mới nổi danh; thế nhưng họ vẫn khư khư giữ ý kiến, không một lý lẽ hay chân lý nào làm thay đổi được. Tôi nhớ có một hôm tôi nói với một trong số những anh chàng cứng đầu cứng cổ này như sau: "Ngài nhớ chăng? Cách đây vài năm, ở Tây Ban Nha người ta đưa lên sân khấu ba vở kịch do một kịch gia nổi tiếng soạn; đó là những vở rất hay làm cho khán giả - kể cả những kẻ phàm phu và những người sành sỏi - đều phải thán phục, vui thích và ngạc nhiên; ba vở kịch đó đã mang lại cho các diễn viên nhiều tiền hơn cả ba mươi vở hay nhất được trình diễn sau này". Anh ta đáp: "Chắc là ngài muốn nói tới các vở La Ixabêla, La Philix La Alếchxanđra". "Đúng vậy, tôi nói; ngài xem đấy, những vở kịch này tôn trọng các quy tắc của nghệ thuật, do đó đã thành công và làm đẹp lòng mọi người. Lỗi không phải ở khán giả tầm thường chỉ đòi hỏi những chuyện vô lý mà ở nhà soạn kịch không biết đưa ra những cái gì tốt đẹp hơn. Ta không thấy có điều gì phi lý trong những vở Sự vô ơn bị trừng phạt, La Numanxia, Người bán hàng si tình, Kẻ thù có hảo tâm hoặc những vở kịch khác do những kịch gia có tài soạn ra, những vở đã mang lại tiếng tăm cho tác giả và tiền tài cho diễn viên". Tôi còn nói nhiều nữa khiến anh ta có phần lúng túng; tuy nhiên anh ta chưa thật tin để có thể rời bỏ những ý nghĩ sai lầm của mình.

Cha xứ nói:

- Thưa ngài, vấn đề ngài vừa đề cập tới đã dấy lên trong con người tôi một mối ác cảm sẵn có đối với những vở kịch đương thời cũng như tôi đã có ác cảm với những quyển sách kiếm hiệp. Theo Tuliô 1, kịch phải là tấm gương của cuộc sống, bài học về phẩm hạnh, hình ảnh của chân lý; trái lại những vở kịch được trình diễn hiện nay là những tấm gương của sự phi lý, bài học về sự bậy bạ, hình ảnh của sự dâm ô. Còn gì vô lý hơn trong vấn đề chúng ta đang bàn đây khi vở kịch đưa ra ở cảnh một, hồi một, một đứa bé mới lọt lòng mẹ, thế mà sang cảnh hai nó đã trở thành một người lớn có râu ria đàng hoàng! Còn gì vô lý hơn là diễn tả một ông già hùng dũng, một chàng trai tráng hèn nhát, một anh hầu có tài hùng biện, một thị đồng chuyên làm cố vấn, một ông vua thô lỗ cục mịch và một nàng công chúa giỏi nghề rửa bát đĩa! Bây giờ lại nói tới việc tôn trọng quy tắc đồng nhất về thời gian trong khi đưa ra những sự kiện khác nhau: tôi đã được xem một vở kịch trong đó ngày thứ nhất mở đầu ở châu Âu, ngày thứ hai diễn ra ở châu Á, ngày thứ ba kết thúc ở châu Phi, và nếu như có bốn ngày thì ngày thứ tư sẽ kết thúc ở châu Mỹ, và như vậy là ở khắp bốn phương trên trái đất. Nếu điều chủ yếu trong kịch là nhắc lại một cách chính xác sự kiện lịch sử thì làm sao có thể thỏa mãn được một khán giả trung bình khi một sự việc xảy ra dưới thời vua Pêpiô hay Carlômácnô mà nhân vật chính trong đó lại là hoàng đế Êracliô cầm cây thánh giá đi vào thành Hêruxalên hoặc là Gôđôphrê đê Buiôn, người đã chiếm được Thánh mộ, những sự kiện cách xa nhau hàng bao nhiêu năm. Còn nếu như kịch là hư cấu thì làm sao có thể đưa lên sân khấu những sự thật lịch sử hoặc những sự việc xảy ra với nhân vật này hay nhân vật nọ ở những thời kỳ khác nhau, nhất là khi người soạn kịch không biết sắp xếp cho vở kịch của mình có vẻ thật mà lại mắc phải những sai lầm hiển nhiên, không tha thứ được. Điều tai hại là có những kẻ ngu xuẩn cho rằng đó mới là hoàn thiện hoàn mỹ, còn như làm trái lại là đi tìm những chuyện không đâu. Lại nói đến sân khấu thánh tích mới càng tệ hại! Người ta bịa ra không biết bao nhiêu phép màu, bao nhiêu sự việc hư cấu không nghe được, người ta gán những phép màu của vị thánh này cho vị thánh khác. Ngay trong sân khấu nhân gian, người ta cũng đưa vào những phép màu, căn cứ vào ý nghĩ chủ quan của mình cho rằng ở một đoạn nào đó cần có phép màu hoặc một xảo thuật sân khấu, như họ thường nói, để cho những khán giả ngốc nghếch hâm mộ tới xem. Tất cả những điều đó có phương hại đến sự thật, làm giảm giá trị của lịch sử và làm nhục cho những nhà sáng tác kịch ở Tây Ban Nha. Một khi xem những vở kịch đầy rẫy những chuyện phi lý của ta, những kịch gia nước ngoài xưa nay vẫn tôn trọng những quy tắc về soạn kịch, sẽ bảo chúng ta là một lũ người man rợ ngu xuẩn. Có người nói: "Trong những quốc gia có tổ chức, người ta cho phép công diễn các vở kịch nhằm mục đích chính là mua vui cho dân chúng bằng những cuộc giải trí lành mạnh và tránh cho họ những hành vi bất thiện do nhàn cư gây ra; một khi vở kịch nào - dù tốt hay xấu - cũng đạt được mục đích đó thì hà tất phải đặt ra những luật lệ quy tắc và buộc những kịch gia và diễn viên phải tuân thủ làm chi vì rằng như đã nói ở trên, bất cứ vở kịch nào cũng đạt được mục đích đề ra kia mà". Cách bào chữa như vậy không ổn và tôi xin trả lời rằng: những vở kịch tốt sẽ đạt được mục đích cao hơn những vở xấu rất nhiều, không gì so sánh nổi; sau khi xem một vở kịch soạn có nghệ thuật và bố cục chặt chẽ, khán giả ra về sẽ lấy làm thích thú về những đoạn hay, học hỏi được những điều tốt, suy nghĩ về những sự việc nêu ra, trở nên tế nhị vì những lời đối thoại, hiểu biết thêm về cảnh đời đen bạc, được rèn luyện vì những gương tốt, biết căm ghét những thói hư tật xấu và yêu quý những phẩm chất tốt đẹp; một vở kịch tốt cần gợi lên được những tư tưởng đó ở người xem, dù là người ngu đần dốt nát. Một vở kịch có đầy đủ những yếu tố đó nhất định làm cho khán giả vui thích, tiêu khiển, thỏa mãn hơn là một vở kịch thiếu những yếu tố đó như tình trạng của hầu hết những vở kịch đang được trình diễn trước công chúng. Ta không thể đổ tội cho nhà viết kịch được vì có nhiều người thấy rất rõ rằng họ làm như vậy là sai lầm và biết rằng mình phải làm như thế nào là đúng. Nhưng họ nói - và họ nói có lý - rằng kịch đã trở thành món hàng bán rao và những người diễn sẽ không mua nếu như không đúng yêu cầu; thế là nhà viết kịch phải viết theo yêu cầu của người diễn kịch là người trả tiền. Để chứng minh điều này, xin hãy xem những vở của một kịch gia có kỳ tài ở trong nước 2. Ông ta đã soạn ra rất nhiều vở rất trau chuốt, duyên dáng với những lời thơ rất thanh tao, những câu đối thoại tế nhị, những câu châm ngôn răn đời và một văn phong sắc sảo khiến danh tiếng của ông lừng vang khắp năm châu bốn biển. Thế nhưng chỉ vì muốn cho hợp khẩu vị của những người trình diễn mà có rất nhiều vở kịch của ông đã không đạt tới sự hoàn thiện mong muốn. Có những kịch gia khác sáng tác mà không suy nghĩ về việc mình làm thành thử sau khi trình diễn, các diễn viên phải lánh mặt đi trốn sợ bị trừng trị bởi chưng có nhiều lần họ đã bị khiển trách vì đưa ra những điều có phương hại đến thanh danh của một vài ông vua và một vài dòng họ quý phái. Tất cả những chuyện không hay như vậy và còn nhiều chuyện khác nữa sẽ chấm dứt một khi trong triều có một người thông thái giỏi giang soát lại các vở kịch trước khi đưa ra trình diễn, không những các vở diễn ở kinh đô mà tất cả các vở người ta muốn diễn trong khắp nước Tây Ban Nha. Một khi vị giám khảo đó không phê chuẩn, ký tên và đóng triện vào các vở kịch thì các nhà chức trách địa phương không được cho phép trình diễn. Có làm như thế thì những người diễn kịch mới quan tâm gửi các vở kịch tới cho triều đình duyệt và sau đó họ mới trình diễn được yên ổn. Các nhà soạn kịch cũng sẽ làm ăn thận trọng hơn vì biết rằng tác phẩm của họ sẽ phải qua một sự sát hạch chặt chẽ. Làm như vậy sẽ có những vở kịch tốt và sẽ đạt được mục đích đề ra tức là vừa tiêu khiển cho công chúng, vừa đem lại tiếng tăm cho những người sáng tác ở Tây Ban Nha, vừa có lợi và bảo đảm sự an toàn cho các diễn viên khiến họ không phải lo bị khiển trách. Nếu người ta giao cho vị giám khảo này hoặc cử một vị khác kiểm duyệt những cuốn sách kiếm hiệp mới viết, chắc chắn ta sẽ thấy xuất bản một số sách thật hoàn hảo như ngài nói, và những cuốn đó sẽ là một kho tàng quý giá chứa đựng những áng văn chương hùng hồn làm giàu cho ngôn ngữ nước nhà, làm lu mờ những tác phẩm cũ và mang lại một sự tiêu khiển lành mạnh không những cho đám người nhàn cư mà còn cho cả những kẻ lắm công nhiều việc, là vì một cây cung không thể giương căng mãi được và sức con người cũng có hạn không thể chịu đựng mãi sự căng thẳng nếu không được bù đắp bằng một giải trí lành mạnh.

Thầy tu và Cha xứ còn đang đàm luận thì bác phó cạo tiến lại gần nói với Cha xứ:

- Thưa ngài cử, như tôi đã nói, chỗ này rất tốt cho chúng ta nghỉ trưa và cho những con bò kéo tha hồ gặm cỏ tươi.

- Tôi cũng thấy thế, Cha xứ đáp.

Thấy Cha xứ có ý định nghỉ chân tại thung lũng này và trước cảnh vật ngoạn mục như đang đón chào, ông thầy tu cũng muốn dừng lại một lát, vừa để ngắm cảnh đẹp vừa để chuyện trò thêm với Cha xứ mà ông bắt đầu có cảm tình, đồng thời để biết rõ hơn về những chiến công của Đôn Kihôtê. Ông bèn bảo đám gia nhân đến chỗ quán trọ (đường đi tới quán trọ cũng không còn xa bao nhiêu) kiếm cái ăn mang về cho tất cả mọi người vì ông quyết định nghỉ trưa tại đây. Một người hầu đáp là con la chở lương thực (nó đi trước và có lẽ đã tới quán trọ) còn mang đủ lương ăn cho nên chỉ cần lại quán trọ mua lúa đại mạch cho súc vật thôi. Thầy tu bảo:

- Nếu vậy các người hãy dắt lừa tới quán trọ và đưa con la về đây.

Trong khi đó, Xantrô thấy có thể nói chuyện riêng với chủ, không sợ bị Cha xứ và bác phó cạo quấy rầy - quả thật bác không tin hai người, - bèn tiến lại gần chiếc cũi trong đó nhốt Đôn Kihôtê; bác nói với chủ:

- Thưa ngài, để lương tâm tôi được thanh thản, tôi muốn nói rõ về việc ngài bị phù phép: hai con người bịt mặt đi cùng chính là Cha xứ làng ta và bác phó cạo; tôi nghĩ rằng họ đã bày mưu tính kế đưa ngài đi như thế này vì họ ghen tức thấy ngài lập được những chiến công vang dội và tỏ ra hơn họ. Nếu ta công nhận sự thật đó tức là không phải ngài bị phù phép mà bị đánh lừa. Để chứng minh điều tôi nói, tôi muốn hỏi ngài một câu và tôi chắc rằng câu trả lời của ngài sẽ đúng như điều tôi nghĩ: nếu ngài trả lời đúng như vậy tức là ngài đã nắm được mưu mô của họ và thấy rằng mình không phải bị phù phép mà bị loạn trí.

- Xantrô con ta muốn hỏi gì cũng được, Đôn Kihôtê đáp; ta sẽ trả lời cho con vui lòng. Còn như con bảo rằng hai người cùng đi với chúng ta là Cha xứ và bác phó cạo, những người đồng hương quen thuộc của chúng ta, rất có thể là con tưởng tượng ra như vậy nhưng chớ nên bao giờ nghĩ rằng việc đó có thật. Con phải nghĩ và hiểu rằng nếu chúng giống Cha xứ và bác phó cạo như con vừa nói, điều đó có nghĩa là lũ yêu ma đã đội lốt hai người. Xưa nay bọn pháp sư có thể thay hình đổi dạng một khi chúng muốn, cho nên chúng đã hóa thành hai ông bạn của ta khiến cho con nghĩ ra như vậy và bị lúng túng trong mê cung không sao ra thoát dù có sợi dây của Têxêô chỉ đường 3. Chúng còn làm ra thế để cho đầu óc ta u mê không biết tai họa từ đâu tới. Này nhé, một mặt con nói rằng Cha xứ và bác phó cạo ở làng ta nhốt ta vào cũi mang đi, mặt khác ta biết rằng sức người không phải là vô hạn nên không thể nhốt ta vào cũi được, vậy thì con làm thế nào cho ta nói khác và nghĩ khác một khi ta vẫn thấy rằng việc phù phép này còn ghê gớm hơn những chuyện phù phép khác mà ta đã đọc trong những cuốn sách viết về các hiệp sĩ giang hồ bị phù phép? Bởi thế, con cứ việc nghĩ rằng chúng là Cha xứ và bác phó cạo cũng như ta là người Thổ Nhĩ Kỳ vậy. Bây giờ định hỏi gì thì hỏi đi, ta sẵn sàng trả lời dù cho con hỏi từ giờ tới ngày mai.

- Lạy Chúa! Xantrô gào lên; lẽ nào bộ óc của ngài lại rắn chắc và mất hết cả tủy đến nỗi ngài không thấy rằng điều tôi nói là hoàn toàn có thật, và sở dĩ ngài bị giam cầm khốn khổ khốn nạn thế này là do âm mưu xảo trá chứ không phải tại yêu thuật! Đã vậy, tôi sẽ chứng minh rõ hơn rằng ngài không bị phù phép. Mong rằng Chúa sẽ cứu vớt ngài thoát khỏi tai vạ này và ngài sẽ chóng được sống yên ổn trong đôi cánh tay bà chủ Đulxinêa của tôi.

- Thôi, đừng cầu nguyện nữa, Đôn Kihôtê nói: muốn hỏi gì thì cứ hỏi đi; ta đã nói là ta sẽ trả lời thật nghiêm túc mà.

- Tôi cũng mong như vậy, Xantrô nói; điều tôi muốn biết là xin ngài nói tất cả sự thật, không thêm bớt, như người ta có thể chờ đợi được ở cửa miệng những người làm nghề võ và mang danh hiệp sĩ giang hồ như ngài...

- Ta hứa sẽ không nói sai bất cứ một điều gì, Đôn Kihôtê đáp. Thôi, hỏi đi; quả thật những lời khen ngợi, cầu nguyện, rào trước đón sau của anh làm ta mệt cả người.

- Tôi tin vào tấm lòng tốt và sự thành thật của ông chủ tôi và điều này rất cần thiết trong câu chuyện ta đang bàn. Bây giờ tôi xin cung kính hỏi ngài một câu: từ lúc ngài bị nhốt vào cũi - nói như ngài là từ lúc thấy mình bị yêu ma phù phép nhốt vào cũi - ngài có thấy muốn đi đại thủy tiểu thủy không?

- Xantrô, ta chẳng hiểu đi thủy là gì cả; hãy nói rõ hơn nếu muốn ta trả lời chính xác.

- Có lẽ ngài không hiểu đi đại thủy, tiểu thủy là gì? Trẻ con mới cai sữa cũng đã biết điều đó. Xin thưa rằng tôi muốn hỏi ngài có lúc nào muốn làm một việc mà con người ta không thể đừng được không?

- Hiểu rồi! Có chứ, có nhiều lúc và ngay cả lúc này đây! Hãy cứu ta khỏi cơn nguy khốn kẻo ta vãi ra rồi!


--------------------------------
1Nhà hùng biện và nhà văn nổi tiếng dưới thời La-mã (trước công nguyên).
2Tức là Lôpê đê Vêga. Trong cuộc đàm thoại này, Xervantêx đã mượn lời Cha xứ để phê phán nhà viết kịch thiên tài Tây Ban Nha.
3Têxêô đi trong mê cung, nhờ có sợi dây chỉ đường nên không bị lạc.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes

Chương XLIX

CUỘC ĐÀM THOẠI LÝ THÚ GIỮA XANTRÔ PANXA VỚI ÔNG CHỦ ĐÔN KIHÔTÊ


- A! Xantrô reo lên. Thế là ngài chịu tôi rồi. Đó chính là điều tôi thiết tha muốn biết cũng như tôi thiết tha với cuộc đời vậy. Liệu ngài có thể bác bỏ một điều người ta thường nói mỗi khi thấy ai mặt ủ mày chau không? Người ta nói như sau: "Chẳng hiểu anh chàng ấy có chuyện gì mà ăn không ăn, uống không uống, ngủ không ngủ, hỏi một đằng trả lời một nẻo, như thể bị ma ám vậy". Từ đấy ta có thể kết luận rằng những người nào không ăn, không uống, không ngủ, không giải quyết những nhu cầu tự nhiên của cơ thể là những người bị phù phép; còn những người không bị phù phép là những người cũng có những nhu cầu như ngài có, cũng ăn khi được cho ăn, cũng uống khi được cho uống, cũng trả lời khi được hỏi.

- Xantrô, anh nói đúng đấy, Đôn Kihôtê đáp; tuy nhiên ta đã nói với anh là có nhiều cách phù phép; có thể là với thời gian, mọi sự đều thay đổi và ngày nay những người bị phù phép cũng làm mọi việc như ta làm mặc dù trước kia họ không làm như thế. Bởi vậy, ta không thể cưỡng lại những tập quán của từng thời gian và cũng không thể lý luận này nọ được. Ta biết và tin chắc rằng ta bị phù phép; như thế cũng đủ để lương tâm ta được thanh thản vì quả thật lòng ta sẽ rất bứt rứt một khi ta nghĩ rằng ta không bị phù phép mà phải nằm co trong chiếc cũi này, không cứu giúp được gì cho những kẻ hoạn nạn khốn cùng giờ đây đang rất cần tới sự bênh vực che chở của ta.

- Mặc dù ngài tin như vậy, Xantrô đáp, tôi nghĩ rằng nếu ngài thoát khỏi cảnh tù đày này thì vẫn tốt hơn và có lợi hơn; tôi sẽ hết sức giúp đỡ ngài và nếu cần, sẽ tự tay giải thoát cho ngài để ngài liệu thúc con Rôxinantê lên đường vì trông nó buồn rầu ủ rũ như thể cũng bị phù phép vậy; sau đó thầy trò ta lại đi tìm kiếm những cuộc phiêu lưu mới. Nếu như công không thành danh không toại, ta vẫn có đủ thời giờ để trở về với chiếc cũi này; lấy danh nghĩa là một giám mã trung thành, tôi xin thề sẽ tự giam mình chung một cũi với ngài nếu như thầy trò ta không thành công vì số phận ngài quá hẩm hiu và vì đầu óc tôi quá tối tăm.

- Người anh em Xantrô, Đôn Kihôtê nói, ta vui lòng làm theo ý anh. Khi nào anh thấy có điều kiện để giải thoát cho ta, ta sẽ nhất nhất tuân theo. Nhưng rồi anh sẽ thấy mình nhầm trong việc đánh giá nỗi bất hạnh của ta.

Chàng hiệp sĩ giang hồ và bác giám mã đau khổ còn đang bàn bạc thì đã tới thung lũng; Cha xứ, thầy tu và bác phó cạo đã xuống ngựa chờ sẵn tại đó. Người chủ xe thả bò cho chúng được tự do trên bãi cỏ xanh mượt. Nơi đây thật là mát mẻ tốt tươi khiến ai cũng muốn hưởng, chẳng riêng những người bị phù phép như Đôn Kihôtê mà cả những anh chàng khôn ngoan láu lỉnh như Xantrô. Để thực hiện ý đồ của mình, bác giám mã xin với Cha xứ cho phép chủ mình được ra khỏi cũi một lát, viện cớ rằng nếu không thả chàng ra thì cũi sẽ không được sạch sẽ và không xứng đáng với cương vị của một hiệp sĩ danh giá như chủ bác. Hiểu ý, Cha xứ đáp là ông vui lòng làm theo yêu cầu của bác nếu như ông không phải lo rằng Đôn Kihôtê sẽ làm bậy và đi mất hút một khi được tự do.

- Tôi xin đứng ra bảo lãnh, Xantrô đáp.

- Tôi cũng vậy, ông thầy tu tiếp theo, nhất là nếu ông ta lấy danh dự hiệp sĩ hứa sẽ không đi khỏi nơi đây một khi chưa có sự đồng ý của chúng ta.

Đôn Kihôtê từ nãy vẫn lắng tai nghe, bèn lên tiếng:

- Tôi xin hứa. Vả chăng, một người bị phù phép như tôi không được tự do hành động theo ý muốn; khi một pháp sư đã phù phép người nào, y có thể bắt người đó ở lì một chỗ trong ba thế kỷ liền, và dù người đó có trốn đi đâu thì cũng sớm bị lôi về. Cho nên các người có thể thả tôi ra được; điều đó chỉ càng có lợi cho mọi người vì nếu không, tôi xin thưa là tôi sẽ làm khổ lỗ mũi các người trừ phi các người chạy xa nơi này.

Ông thầy tu cầm lấy tay chàng (nói đúng hơn là ông cầm cả hai tay chàng vì người ta đã trói chặt vào nhau); sau khi đã hứa hẹn thề thốt, Đôn Kihôtê được thả lỏng; thấy được ra khỏi cũi, chàng vô cùng sung sướng và việc đầu tiên của chàng là vươn vai duỗi cánh. Sau đó, chàng lại gần con Rôxinantê, lấy tay vỗ nhẹ vào mông nó hai cái rồi nói:

- Hỡi tinh hoa của loài tuấn mã, ta vẫn tin tưởng vào Chúa và Đức Mẹ. Chẳng bao lâu nữa, hai ta sẽ đạt được điều mong ước; mi sẽ được phụng sự chủ mi, còn ta sẽ được cưỡi lên lưng mi đi làm nhiệm vụ, nhờ có nhiệm vụ đó mà Chúa đã cho ta làm người.

Nói xong, Đôn Kihôtê cùng với Xantrô lảng ra một chỗ xa; khi trở lại, chàng cảm thấy người nhẹ nhàng, trong bụng càng muốn thực hiện những ý kiến của giám mã.

Ông thầy tu nhìn chàng và lấy làm ngạc nhiên về sự điên rồ kỳ lạ của chàng; ông càng ngạc nhiên thấy chàng tỏ ra có trí tuệ trong khi nói năng đối đáp, thế mà hễ bàn đến những vấn đề kiếm hiệp là đâm ra nói lung tung. Động lòng trắc ẩn, trong lúc mọi người còn ngồi trên thảm cỏ xanh mượt chờ con la mang lương ăn quay về, ông nói với Đôn Kihôtê:

- Thưa nhà quý tộc, có lẽ nào những cuốn sách kiếm hiệp nhạt nhẽo và buồn tẻ kia sai khiến được ngài và làm cho ngài mất trí đến nỗi ngài tin tưởng vào việc mình bị phù phép cùng những sự việc khác tương tự rất xa sự thật, khác nào sự dối trá khác xa chân lý! Có lẽ nào đầu óc con người ta tin được rằng ở trên đời này có muôn vàn chàng Amađix cùng hàng xâu hàng xốc những trang hiệp sĩ giang hồ trứ danh! Có lẽ nào lại có nhiều những người như hoàng đế Trapixônđa hay như Phêlixmartê đê Ircania, những con tuấn mã cho vua chúa cưỡi, những tiểu thư hiệp sĩ giang hồ, những con mãnh xà cùng những quái vật khác, những tên khổng lồ, những cuộc phiêu lưu mạo hiểm kỳ quái, những phép yêu ma, những trận giao chiến, những cuộc chạm trán khủng khiếp, những bộ y phục lố lăng, những nàng công chúa si tình, những anh giám mã trở thành bá tước, những chú lùn lém lỉnh, những bức thư tình, những câu tán tỉnh, những cô gái dũng cảm và cuối cùng là những truyện viển vông như ta thường thấy trong các sách kiếm hiệp! Riêng tôi xin nói rằng mỗi khi đọc những cuốn sách đó, tôi cũng cảm thấy có phần thích thú nếu như đầu óc tôi không nghĩ rằng tất cả những điều kể ra là bịa đặt bậy bạ; nhưng một khi nhận rõ sự thật, tôi sẵn sàng quẳng cuốn sách kiếm hiệp hay nhất vào tường hoặc vào lửa nếu như có đống lửa bên cạnh. Những cuốn sách đó đáng phải chịu tội như vậy bởi vì chúng chứa đựng những điều dối giả vượt ra ngoài quy luật thông thường và cũng bởi vì chúng tạo ra những môn phái mới và cảnh sống mới khiến cho những kẻ phàm phu tục tử tin vào những chuyện bậy bạ và coi đó là thật. Không những thế, loại sách đó còn dám trắng trợn làm hư hỏng cả bộ óc của các nhà quý tộc giỏi giang và danh giá như ta đã thấy chúng làm hại ngài đến nỗi người ta buộc lòng phải nhốt ngài vào cũi và dùng xe bò chở đi như chở một con sư tử hay con hổ từ nơi này sang nơi khác cho mọi người xem để kiếm tiền. Ngài Đôn Kihôtê ạ, cần phải lo thân và quay về với lẽ phải mà trời đã phú cho ngài, và phải biết sử dụng khả năng to lớn của trí tuệ vào việc đọc những loại sách khác vừa mang lại sự bổ ích cho tâm hồn, vừa làm tăng phẩm giá con người của ngài. Còn nếu như ngài vẫn có khuynh hướng muốn đọc loại sách nói về những chiến công của các hiệp sĩ giang hồ, xin hãy đọc Thánh kinh trong đó có những sự thật vĩ đại và những hành động vừa dũng cảm vừa có thật. Luxitania có Viriatô, La Mã có Xêdar, Cartagô có Anibal, Hy Lạp có Alêhanđrô, Caxtiia có bá tước Phernan Gônxalô, Valenxia có vị Đầu lãnh, Anđaluxia có Gônxalô Phernanđêx, Êxtrêmađura có Điêgô Garxia đê Parađêx, Hêrêx có Garxi Pêrêx đê Vargax, Têlêđô có Garxilaxô, Xêviia có Đôn Manuel đê Lêôn; những chuyện về chiến công của họ khiến cho những bộ óc siêu việt nhất cũng phải thích thú, khâm phục và học tập. Thưa ngài Đôn Kihôtê, loại sách đó mới thật xứng đáng với trí thông minh rộng lớn của ngài, khiến cho ngài trở thành một con người nắm vững lịch sử, biết yêu những phẩm chất tốt đẹp, biết quý những cái hay, dũng cảm mà không mạo hiểm, thận trọng mà không hèn nhát, vừa làm đẹp lòng Chúa, vừa có lợi cho bản thân, vừa làm danh giá cho xứ Mantra là nơi chôn rau cắt rốn của ngài, theo chỗ tôi được biết.

Đôn Kihôtê chăm chú nghe thầy tu nói; khi thấy ông ta nói xong, chàng nhìn ông hồi lâu rồi mới lên tiếng:

- Thưa nhà quý tộc, hình như những lời ngài vừa nói ra nhằm mục đích làm cho tôi hiểu rằng những trang hiệp sĩ giang hồ không hề tồn tại trên đời này và tất cả những cuốn sách kiếm hiệp đều là bịa đặt, độc hại và vô ích đối với quốc gia, rằng tôi đã sai lầm vì đọc loại sách đó, càng sai vì tin là có thật và lại càng sai hơn nữa vì đã theo lời sách dạy đi làm nghề hiệp sĩ giang hồ gian khổ, chứng cớ là ngài phủ nhận sự tồn tại của hai hiệp sĩ Amađix nước Gôlơ và nước Hy Lạp cùng tất cả các hiệp sĩ khác có tên trong sách.

- Tất cả đều đúng như ngài vừa nói, theo nghĩa đen từng chữ, thầy tu đáp.

Đôn Kihôtê tiếp tục:

- Ngài còn nói thêm rằng những cuốn sách đó rất có hại cho tôi vì chúng đã làm tôi loạn óc và đưa tôi vào cũi, rằng tôi cần phải sửa sai thay đổi loại sách và đọc những chuyện có thật, vừa giải trí vừa bổ ích.

- Đúng vậy, thầy tu đáp.

Đôn Kihôtê vặn lại:

- Thế nhưng riêng tôi thấy rằng kẻ loạn óc và bị phù phép chính là ngài bởi chưng ngài đã có những lời lẽ bất kính đối với một vấn đề đã được công chúng hoan nghênh và công nhận là có thật, và kẻ nào phủ nhận điều đó - như ngài chẳng hạn - đáng phải chịu nhục hình mà ngài dành cho những cuốn sách đã làm ngài bực mình khi đọc. Bảo người ta phải nghĩ rằng Amađix và tất cả các hiệp sĩ giang hồ có tên tuổi ghi trong sách là chuyện bịa đặt có khác nào muốn chứng minh rằng mặt trời không chiếu sáng, rằng băng đá không giá lạnh, rằng quả đất không chứa đựng loài người. Thử hỏi có bộ óc nào trên đời này làm cho chúng ta tin được rằng không có câu chuyện về công chúa Phlôripêx và chàng Ghi đê Borgônha cũng như không có câu chuyện về chàng Phiêrabrax ở cầu Mantiblê dưới thời Carlômácnô không? Đó là những sự thật rành rành cũng như lúc này đây là ban ngày vậy. Nếu những chuyện đó là bịa đặt thì cũng phải coi như là bịa đặt những chuyện về Ếchtor, Akilêx, cuộc chiến tranh ở thành Trôia, mười hai vị đình thần nước Pháp, về vua Artux ở Anh-cát-lợi giờ đây vẫn bị hóa phép thành một con quạ trong lúc thần dân vẫn ngóng chờ ngài trở lại ngôi báu. Nói như vậy thì cũng sẽ dám nói rằng chuyện hiệp sĩ Guarinô Mexkinô và chuyện Chiếc Đĩa Thánh là bịa đặt, rằng những cuộc tình duyên của chàng Đôn Trixtan với công chúa Ixêô và của hiệp sĩ Lanxarôtê với hoàng hậu Hinêbra là hư cấu mặc dù có người còn nhớ mang máng đã nhìn thấy bà bảo mẫu Kintanhôna 1, người chuốc rượu khéo nhất nước Anh-cát-lợi. Sự việc đúng như vậy vì tôi nhớ hồi còn nhỏ, bà nội tôi thường nói với tôi mỗi khi thấy một bà bảo mẫu đội khăn ngay ngắn: "Cháu ơi, trông bà này giống như bà bảo mẫu Kintanhôna". Từ đó, tôi kết luận rằng bà tôi có quen bà Kintanhôna hoặc ít ra cũng đã được nhìn bức chân dung nào đó của bà ta. Thử hỏi ai là người có thể phủ nhận được câu chuyện về chàng Pierêx và nàng Magalôna xinh đẹp và bảo đó là chuyện bịa đặt vì rằng ngày nay người ta vẫn thấy trưng bày ở trong phòng vũ khí nhà vua một cái chốt to hơn các ách xe bò mà trước đây vẫn dùng để mở máy con ngựa gỗ cho chàng Pierêx cưỡi trên mây; bên cạnh cái chốt đó vẫn còn cái ghế của Babiêca; ở Rônxenvaiêx cũng vẫn còn chiếc tù và của Rolđan, to như một cái xà lớn. Do đó, ta có thể kết luận rằng mười hai vị đình thần, chàng Pierêx, vị Đầu lãnh cũng như các hiệp sĩ giang hồ khác đều là những nhân vật thật; Theo lời thiên hạ, đó là những người đi tìm kiếm những cuộc phiêu lưu mạo hiểm. Nếu không thế thì phải phủ nhận hiệp sĩ giang hồ dũng ở Luxitania tên là Huan đê Merlô, chuyến đi của chàng tới Borgônha, hai cuộc giao chiến của chàng ở tỉnh Rax với lãnh chúa nổi tiếng Sarni (còn gọi là ngài Pierêx) và ở tỉnh Baxilêa với ngài Enrikê đê Rêmextan, hai trận đã mang lại cho chàng thắng lợi và tiếng tăm lừng lẫy; phải phủ nhận cả những cuộc phiêu lưu mạo hiểm và những trận đọ sức ở Borgônha của hai hiệp sĩ Tây Ban Nha dũng cảm tên là Pêđrô Barba và Gutierê Kihađa (vị này có quan hệ họ hàng bên nội với tôi) đã đánh bại các con trai của bá tước Xan Pôlô. Nếu vậy thì hãy phủ nhận chuyện chàng Đôn Phernanđô đê Ghêvara đi tìm kiếm những cuộc phiêu lưu mạo hiểm ở Đức, tại đó chàng đã giao chiến với ngài Horhê, hiệp sĩ của dòng họ công tước Áo-đại-lợi; hãy coi là chuyện phiếm những trận đấu thương của Xuêrô đê Kinhônêx, những lời thách thức của ngài Luix đê Phalxêx đối với Đôn Gônxalô đê Guxman, hiệp sĩ ở Caxtiia, cũng như bao chiến công của các hiệp sĩ Ki-tô giáo khác ở trong và ngoài nước; đó là những chuyện có thật và tôi xin nhắc lại rằng kẻ nào phủ nhận những chuyện đó là một kẻ thiếu lý trí và suy xét.

Nghe Đôn Kihôtê thuyết trình, ông thầy tu không khỏi ngạc nhiên thấy chàng lẫn lộn giữa cái thật và cái giả, nhất là lại thấy chàng rất am hiểu về tất cả những vấn đề có liên quan đến nghề hiệp sĩ giang hồ của chàng; ông đáp:

- Thưa ngài Đôn Kihôtê, tôi không thể phủ nhận được rằng những điều ngài vừa nói có những câu đúng, đặc biệt là những chuyện về các hiệp sĩ Tây Ban Nha; tôi cũng xin công nhận là có mười hai vị đình thần Pháp, nhưng tôi không tin rằng họ đã làm được tất cả mọi việc như tổng giám mục Turpin tả. Sự thật thì họ là những hiệp sĩ được các ông vua Pháp chọn lọc và phong cho là đình thần hoặc còn gọi là những người đồng đẳng bởi vì những người này đều ngang nhau về đạo đức, phẩm chất và lòng dũng cảm; và dù họ không có những đức tính đó thì cũng phải cố gắng đạt tới. Đó là một tổ chức cũng giống như những tổ chức Xantiagô hay Calatrava ngày nay, và các thành viên của nó phải được coi là những hiệp sĩ dũng cảm và thuộc dòng dõi trâm anh. Cũng như ngày nay ta nói hiệp sĩ Xan Huan hay hiệp sĩ Alcantara, thời ấy người ta nói hiệp sĩ của tổ chức mười hai người đồng đẳng vì một số người được chọn vào tổ chức đó gồm mười hai vị ngang tài ngang sức nhau. Vị Đầu lãnh và hiệp sĩ Bernarđô đel Carpiô đều là những nhân vật thật nhưng về những chiến công của họ như thiên hạ đồn, tôi cho là phóng đại. Ngài có nhắc tới cái chốt ở con ngựa gỗ của bá tước Pierêx bày trong phòng vũ khí nhà vua, bên cạnh chiếc ghế của Babiêca; về điểm này, tôi xin nhận khuyết điểm là ngu dốt hoặc kém mắt nên chỉ nhìn thấy ghế mà không thấy chốt mặc dù nó rất to như ngài đã tả.

- Chắc chắn là cái chốt có bày ở trong phòng đó, Đôn Kihôtê đáp; người ta còn nói rõ rằng nó được đặt trong một cái bao bằng da thuộc để tránh ẩm mốc.

- Có thể là như vậy, thầy tu nói; về phần tôi là nhà tu hành, tôi xin nói là tôi không nhớ là đã nhìn thấy cái chốt. Nhưng dù tôi công nhận rằng cái chốt có bày ở phòng vũ khí, không phải vì thế mà tôi buộc phải tin vào những chuyện của các chàng Amađix cùng một xâu một xốc các hiệp sĩ khác; và cũng không có lý gì một người như ngài, có danh giá, có đủ mọi đức tính, có trí tuệ, lại tin vào những chuyện điên rồ kể trong những cuốn sách kiếm hiệp nhảm nhí.


--------------------------------
1Bà này đứng làm môi giới trong cuộc tình duyên bất chính giữa hiệp sĩ Lanxarôtê và hoàng hậu Hinêbra, vợ của vua Artux nước Anh-cát-lợi.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes

Chương L

CUỘC TRANH LUẬN LÝ THÚ GIỮA ĐÔN KIHÔTÊ VÀ ÔNG THẦY TU, CÙNG NHỮNG SỰ VIỆC KHÁC


- Được, Đôn Kihôtê nói. Một khi những cuốn sách được in ra sau khi đã có phép của nhà vua và sự phê chuẩn của các vị giám khảo, được mọi người đọc và khen ngợi - người lớn cũng như trẻ con, người giàu cũng như kẻ nghèo, người có chữ cũng như kẻ vô học, người bình dân cũng như nhà quý tộc, tóm lại, mọi hạng người có những vị trí và hoàn cảnh khác nhau - làm sao những cuốn sách đó có thể chứa đựng những điều bịa đặt nhất là trong đó có những chi tiết thật như nêu tên cha mẹ, quê quán, họ hàng, tuổi tác của các hiệp sĩ, những chiến công và nơi lập chiến công của họ một cách rành mạch rạch ròi! Thôi, ngài hãy im đi và không nên thốt ra những lời phỉ báng như vậy, nếu ngài là người khôn thì hãy nghe lời tôi khuyên, nếu không xin cứ đọc những cuốn sách đó rồi sẽ thấy thích thú. Thử hỏi còn gì thú vị hơn là được nhìn thấy hiện ra trước chúng ta, ngay tại đây và lúc này, một cái hồ lớn nước nóng sôi trong đó lúc nhúc các loài rắn, rắn nước, thằn lằn, cùng rất nhiều thú vật hung dữ và khủng khiếp; rồi từ giữa hồ vọng lên một tiếng nói buồn thảm: "Dù người là ai, hỡi hiệp sĩ đang đứng nhìn hồ nước đáng sợ này, nếu người muốn hưởng hạnh phúc nằm dưới mặt nước đen ngòm và nóng bỏng, hãy tỏ ra một người can đảm và hãy nhảy xuống. Nếu người không dám làm việc đó thì sẽ không xứng đáng được nhìn thấy những kỳ quan trong bảy tòa lâu đài của bảy bà tiên chìm dưới đáy hồ tối tăm". Tiếng nói rùng rợn vừa dứt, chàng hiệp sĩ không suy tính gì hết, chẳng quản nguy hiểm đang chờ và cũng không trút bớt đống vũ khí nặng nề trên vai, nhảy ào xuống giữa dòng nước đang sôi, miệng cầu nguyện Chúa và tình nương của mình; trong lúc còn đang bàng hoàng ngơ ngác, chàng đã nhìn thấy mình đứng giữa một vườn hoa tuyệt đẹp, ngay cảnh thiên đường cũng không thấm vào đâu. Chàng cảm thấy bầu trời ở đó trong trẻo hơn và mặt trời cũng sáng tỏ hơn; trước mắt chàng là một khu rừng tĩnh mịch, cây cối xanh tươi và sum suê nom thật ngoạn mục; bên tai chàng réo rắt tiếng hót véo von và hồn nhiên của muôn vàn con chim nhỏ lông cánh sặc sỡ đang bay chuyền từ cành này sang cành nọ; đây có một con suối nhỏ, nước mát và trong như pha lê lỏng, lòng suối đầy cát nhỏ mịn và sỏi trắng tinh khác nào một tấm thảm dát vàng và nạm ngọc quý; kia có một bể nước xây bằng đá vân nhiều màu và đá cẩm mài nhẵn; xa nữa có một bể khác xây theo lối tự nhiên bằng vỏ sò và vỏ ốc trắng ngà xen lẫn những miếng pha lê bóng bẩy và những viên giả ngọc bích, một công trình nghệ thuật làm giả thiên nhiên nhưng lại có phần đẹp mắt hơn. Rồi bỗng đâu chàng nhìn thấy ở phía trước một thành trì hay một toà lâu đài nguy nga tráng lệ, tường xây bằng vàng khối, khe tường bằng kim cương, cửa bằng ngọc; kiến trúc của tòa lâu đài lại càng kỳ diệu và còn giá trị hơn cả những vật liệu để xây mặc dù đó là kim cương, là thạch lựu ngọc, hồng ngọc, trân châu, vàng và bích ngọc. Sau khi đã chứng kiến những cảnh đó rồi, còn gì khoái mắt hơn khi thấy từ trong cổng lâu đài bước ra những tiểu thư khoác trên người những bộ xiêm áo sang trọng, nếu tả ra đây như sách vẫn thường tả thì sẽ không bao giờ hết lời. Rồi một trong những cô gái đó - dáng chừng cô ta là người có vai vế nhất - cầm tay chàng hiệp sĩ gan dạ đã dám nhảy xuống hồ nước sôi và lẳng lặng dắt chàng vào trong lâu đài, cởi hết quần áo chàng ra như một đứa trẻ sơ sinh, tắm cho chàng bằng nước ấm, xoa dầu thơm lên khắp người chàng rồi mặc cho chàng một chiếc sơ-mi thơm phức bằng vải rất mịn; một cô gái khác tới quàng lên vai chàng một chiếc khăn trị giá tối thiểu bằng cả một thành phố hoặc hơn thế nữa. Còn gì thú vị hơn khi ta nghe kể rằng sau đó chàng hiệp sĩ được đưa sang một phòng khác có những bàn tiệc bày biện rất linh đình khiến chàng phải kinh ngạc; người ta giội vào tay chàng một chất nước bằng long diên hương và hoa thơm và đặt chàng ngồi lên một chiếc ghế bằng ngà; rồi những cô gái mời chàng vào tiệc với một vẻ yên lặng kỳ lạ. Họ bưng ra các món ăn khác nhau, món nào cũng rất ngon lành khiến bụng muốn ăn mà tay không biết chọn món nào. Trong lúc đang yến tiệc, nhã nhạc nổi lên mà không biết từ đâu vọng tới. Bữa tiệc xong xuôi và bàn tiệc đã được dọn dẹp, chàng hiệp sĩ tựa lưng vào ghế và có lẽ còn đang xỉa răng theo thường lệ, bỗng đâu từ ngoài cửa có một tiểu thư xinh đẹp hơn tất cả các cô gái nọ bước vào phòng, ngồi xuống bên chàng và bắt đầu giới thiệu về tòa lâu đài, về việc nàng đã bị phù phép cùng những sự việc khác khiến chàng hiệp sĩ không khỏi sửng sốt và ngay độc giả cũng phải thích thú khi đọc cuốn sách viết về cuộc đời chàng. Tôi không cần dài dòng làm gì vì ta có thể kết luận rằng bất cứ đoạn nào trong bất cứ cuốn sách kiếm hiệp nào cũng mang lại sự thích thú và ngạc nhiên cho bất cứ độc giả nào. Xin ngài hãy nghe tôi; như tôi đã nói, ngài hãy đọc những cuốn sách đó, rồi ngài sẽ thấy mọi ưu phiền tiêu tan và tính tình ngài sẽ trở lên vui vẻ nếu như xưa nay ngài là một con người bẳn tính. Riêng tôi xin nói rằng từ khi trở thành hiệp sĩ giang hồ, tôi trở nên dũng cảm, lễ phép, phóng khoáng, cao thượng, rộng rãi, lịch sự, gan dạ, nhu mì, kiên nhẫn, chịu đựng được gian khổ, tù đày và những phép yêu ma. Và tuy tôi mới bị bỏ cũi như một thằng điên, tôi nghĩ rằng với cánh tay dũng mãnh của tôi, với sự phù hộ của Thượng đế và nếu số phận của tôi không oan trái, chỉ trong ít ngày nữa tôi sẽ được trị vì một vương quốc và khi đó tôi sẽ có thể tỏ rõ lòng biết ơn và tính rộng rãi sẵn có trong lòng tôi. Thưa ngài, đúng là kẻ nghèo hèn không có cách nào bày tỏ đức tính rộng rãi với bất cứ ai tuy rằng bản tính anh ta rất rộng rãi. Một sự biết ơn chỉ được biểu hiện bằng ý nghĩ, đó là sự biết ơn chết cũng như lòng tin mà không có hành động là lòng tin chết. Bởi vậy, tôi cầu mong vận may sớm tạo cơ hội cho tôi trở thành hoàng đế để tôi được bày tỏ tấm lòng, làm những điều tốt cho bạn hữu, đặc biệt cho giám mã Xantrô Panxa của tôi, một con người tuyệt diệu trên đời; tôi muốn phong cho anh ta chức bá tước mà tôi đã hứa từ lâu, chỉ e anh ta không đủ tài cán để cai trị lãnh địa của mình mà thôi.

Nghe những lời chủ vừa thốt ra, Xantrô vội nói:

- Thưa ngài Đôn Kihôtê, xin ngài gắng phong cho tôi làm bá tước một lãnh địa mà ngài đã nhiều lần hứa hẹn và tôi cũng đã nhọc lòng trông chờ. Tôi xin hứa với ngài rằng tôi sẽ có đủ tài cán để cai trị. Còn nếu như tôi không cáng đáng nổi, tôi được nghe nói rằng ở trên đời này có những người lính canh và chăm nom đất đai của các lãnh chúa, mỗi năm nộp cho chủ đất một khoản lợi tức nhất định, và thế là các vị lãnh chúa cứ ngồi dãi thẻ mà thu tô, chẳng phải lo lắng tới những chuyện khác. Tôi cũng sẽ làm như vậy; tôi xin kiếu hết mọi việc, không phải bận tâm gì cả, và tôi sẽ ngồi hưởng địa tô như một ngài công tước, mặc sự đời.

Ông thầy tu nói:

- Người anh em Xantrô, ngồi dãi thẻ thu tô thì được, nhưng một lãnh chúa vẫn phải lo về phần tư pháp trong phạm vi lãnh thổ của mình, do đó cần có tài và bộ óc sáng suốt, nhất là phải có thiện chí xét xử công minh, thiếu nguyên tắc cơ bản đó thì phương pháp sẽ sai và mục đích cũng không đạt. Cho nên Chúa thường chỉ phù hộ những người ngu si nhưng lương thiện chứ không phù hộ những kẻ khôn ngoan nhưng gian giảo.

- Tôi không biết những triết lý đó, Xantrô Panxa đáp; tôi chỉ biết rằng tôi mong sớm được phong bá tước và sớm biết cách quản lý đất đai của mình. Tôi cũng có óc như mọi người và thân hình tôi cũng to béo chẳng kém gì người nào đẫy đà nhất; và tôi cũng có thể làm vua cai trị đất đai của tôi như bất cứ ông vua nào; và một khi làm vua, tôi muốn làm gì cũng được; và một khi muốn làm gì cũng được, tôi sẽ làm theo ý tôi; và một khi làm theo ý tôi, tôi sẽ được thỏa mãn; và một người được thỏa mãn không còn gì để mong ước nữa; và một khi không còn gì để mong ước nữa thì hết chuyện để nói. Nào, hãy trao đất đai cho tôi và hãy nói với nhau: "Hẹn nhìn lại nhau" như anh mù này nói với anh mù khác.

- Xantrô, những triết lý đó không dở như anh nói đâu; quả thật trong vấn đề phong bá tước cho anh còn nhiều điều cần phải bàn.

Đôn Kihôtê nói xen vào:

- Tôi không thấy có điều gì cần phải bàn nữa vì tôi chỉ noi gương hiệp sĩ vĩ đại Amađix nước Gôlơ mà thôi; chàng đã phong cho giám mã chức bá tước đảo Phirmê. Bởi vậy, tôi có thể yên tâm phong chức bá tước cho Xantrô Panxa, một trong những giám mã ưu tú nhất mà một hiệp sĩ giang hồ đã có.

Ông thầy tu lấy làm kinh ngạc về những lời lẽ ngông cuồng nhưng nghe ra lại có lý của Đôn Kihôtê, về chuyện Hiệp sĩ bên hồ mà chàng vừa kể, về những ý nghĩ sai lầm mà chính bản thân ông cũng bị ảnh hưởng khi đọc những chuyện viển vông trong các sách kiếm hiệp, và ông cũng rất ngạc nhiên thấy Xantrô Panxa quá ngây thơ mong ước chức bá tước mà chủ đã hứa phong cho. Lúc này, đám gia nhân của ông thầy tu từ quán trọ trở về cùng với con la chở lương thực. Họ trải một tấm thảm lên đám cỏ non làm bàn, rồi mỗi người kiếm một chỗ có bóng mát lặng lẽ ngồi ăn để khỏi ảnh hưởng tới vẻ đẹp của cảnh vật thiên nhiên. Mọi người còn đang ăn bỗng đâu có tiếng động mạnh và tiếng chuông loong coong trong đám bụi cây bên cạnh, rồi từ trong đó xuất hiện một con dê cái xinh xắn, toàn thân có khoang đen, trắng và nâu, theo sau là một chàng chăn dê vừa đi vừa gọi con dê quay trở về đàn bằng những lời chỉ có chàng và con vật hiểu được. Con dê sợ hãi cuống cuồng tới chỗ mọi người đang ngồi và dừng lại như cầu cứu họ. Chàng chăn dê chạy lại nắm lấy đôi sừng rồi, như thể con vật nghe hiểu những lời của mình, chàng nói với nó:

- Dê khoang hay nhảy ơi, tại sao mấy ngày nay mi cứ tập tễnh như vậy? Con ta ơi, con sói nào làm con sợ hãi?Mi không nói cho ta biết được sao, hỡi dê xinh đẹp? Phải chăng mi là dê cái nên không chịu ngồi yên một chỗ? Tính nết của mi và của tất cả những con dê mà mi bắt chước thật đáng chê trách! Hãy quay trở về, hỡi bạn của ta! Nếu sống trong chuồng và bên cạnh bạn bè, mi không thoải mái, ít ra mi cũng được yên ổn hơn. Mi là con dê đầu đàn mà cứ chạy nhảy lung tung thế này thì làm sao dắt dẫn những con khác được?

Những lời nói của chàng chăn dê làm mọi người phải chú ý, đặc biệt là ông thầy tu; ông bảo chàng:

- Xin người anh em hãy nguôi giận và chớ vội bắt con dê này quay về với đàn của nó làm chi. Vì nó là con cái như anh vừa nói nên nó phải tuân theo bản năng của nó, dù có ngăn cấm cũng thế thôi. Hãy ăn một miếng, uống một ngụm với chúng tôi, nỗi tức giận của anh sẽ dịu đi và con dê này sẽ được nghỉ một chút trong thời gian đó.

Vừa nói, ông thầy tu vừa đưa cho chàng chăn dê một miếng thăn thỏ nguội cắm vào mũi dao. Trong bụng đã nguôi, chàng chăn dê cảm ơn đỡ lấy, rồi vừa ăn vừa uống, chàng nói:

- Tôi không muốn để các ngài phải nghĩ rằng tôi là một kẻ ngốc nghếch vì đã nói với con vật này những lời lẽ nghiêm trang như vậy. Quả thật những điều tôi vừa thốt ra chứa đựng một bí ẩn bên trong. Tôi tuy quê mùa nhưng không đến nỗi không biết cách đối xử với người và với súc vật.

- Tôi tin như vậy, Cha xứ nói; kinh nghiệm cho tôi thấy rằng núi non sinh ra sĩ phu, và những túp lều của người chăn cừu là nơi nương thân của các nhà triết học.

Chàng chăn dê đáp lại:

- Thưa ngài, ít ra những túp lều đó cũng là nơi trú ngụ của những kẻ đã tỉnh ngộ. Để các ngài tin vào sự thật đó và được sờ tận tay nhìn tận mắt, nếu như các ngài không phật ý và sẵn sàng bớt chút thời giờ lắng tai nghe, tôi xin kể hầu một câu chuyện có thật mặc dù không ai bảo tôi kể; câu chuyện đó chứng minh lời nói của ngài đây (anh ta chỉ vào Cha xứ) cũng như lời nói của tôi.

Nghe xong, Đôn Kihôtê bảo chàng chăn dê:

- Xem ra câu chuyện này có một cái gì phảng phất như những chuyện kiếm hiệp; bởi vậy tôi sẽ rất vui lòng nghe anh bạn kể và tất cả các ngài đây cũng sẽ rất vui lòng vì họ là những người hiểu biết và thích những câu chuyện ly kỳ mang lại cho người nghe những cảm giác hồi hộp và thú vị như tôi tin rằng câu chuyện của anh sẽ mang lại. Anh bạn hãy bắt đầu, tất cả chúng tôi xin nghe.

- Tôi xin rút khỏi cuộc, Xantrô nói, và tôi mang ra suối chiếc bánh nhân thịt này để có đủ lương ăn trong ba ngày liền. Ông chủ Đôn Kihôtê của tôi thường nói với tôi rằng giám mã của hiệp sĩ giang hồ phải ăn no căng bụng khi có dịp được ăn vì luôn luôn gặp phải trường hợp bất ngờ bị lạc giữa rừng sâu năm sáu ngày chưa ra khỏi; nếu bụng không no hoặc túi hai ngăn không đầy ắp thì anh giám mã sẽ phải nằm lại trong rừng như đã xảy ra nhiều lần, và da thịt sẽ đét lại như xác ướp.

- Xantrô, anh khi nào cũng nắm đằng chuôi, Đôn Kihôtê nói; thôi được, muốn đi thì cứ việc đi và ăn được bao nhiêu cứ việc ăn. Ta no bụng rồi, bây giờ chỉ cần bồi bổ tinh thần thôi và ta sẽ làm việc đó bằng cách nghe chàng trai kể chuyện.

- Tất cả bọn tôi cũng cần bồi bổ tinh thần, thầy tu nói. Rồi ông yêu cầu chàng chăn dê kể cho mọi người nghe câu chuyện mà chàng đã hứa. Một tay vẫn nắm sừng dê, chàng chăn dê lấy tay kia vỗ nhẹ hai cái vào sườn con vật và bảo:

- Dê khoang, hãy tựa vào người ta mà ngủ; chúng ta còn đủ thời giờ để trở về chuồng trại.

Hình như con dê nghe hiểu vì khi thấy chủ ngồi xuống, nó ngoan ngoãn nằm ngay bên cạnh, nhìn vào mặt chàng trai như tỏ ra chăm chú nghe chàng kể chuyện. Câu chuyện của chàng chăn dê bắt đầu như sau:
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes

Chương LI

CHÀNG CHĂN DÊ KỂ CHUYỆN CHO NHỮNG NGƯỜI ÁP GIẲI ĐÔN KIHÔTÊ


Cách thung lũng này ba dặm có một làng nhỏ nhưng trù phú nhất trong khắp vùng. Trong làng có một nông gia được mọi người rất kính trọng, và tuy rằng sự kính trọng bắt nguồn từ sự giàu sang, ông ta được kính trọng vì đạo đức hơn vì tiền tài. Thế nhưng, điều làm cho ông sung sướng nhất, như ông thường nói, là đã sinh được một người con gái nhan sắc tuyệt vời, thông minh hiếm có, vừa đẹp người vừa đẹp nết, khiến ai nom thấy cũng phải ngạc nhiên vì tạo hóa và thiên nhiên đã dành cho nàng nhiều điều tốt lành như vậy. Hồi còn nhỏ nàng đã xinh, càng lớn càng xinh, và đến tuổi mười sáu thì tuyệt đẹp. Tiếng đồn về nhan sắc của nàng lan tới khắp các xóm làng lân cận, lan tới cả các tỉnh xa, tới tận cung đình nhà vua và tới tai khắp bàn dân thiên hạ khiến mọi người từ mọi nơi kéo tới chiêm ngưỡng như thể ta chiêm ngưỡng một của quý hoặc một cảnh tượng màu nhiệm nào vậy. Cha nàng giữ con gái rất nghiêm ngặt và nàng cũng biết giữ thân vì quả thật không có cái khóa nào giữ một người con gái tốt hơn đức hạnh của chính người con gái đó.

Của cải của người cha và sắc đẹp của người con gái khiến cho rất nhiều chàng trai trong làng ngoài xóm muốn hỏi làm vợ. Vì nắm trong tay một của quý như vậy nên người cha đâm ra khó xử, không biết nhận lời ai trong số rất nhiều đám tới hỏi. Trong số đó có tôi. Tôi có nhiều hy vọng thành công vì cha cô đã biết tôi là người cùng làng, lại con nhà gia thế, đang tuổi thanh xuân, có của và cũng không kém phần thông minh. Một chàng trai khác cùng làng và cũng có đủ những ưu điểm như tôi cũng đến hỏi nàng làm vợ. Việc này khiến cha nàng trở nên do dự vì ông ta thấy rằng gả con gái cho anh nào cũng đều tốt cả. Để giải quyết lúng túng này, ông quyết định nói cho Lêanđra biết (đó là tên cô gái xinh đẹp đã làm tôi đau khổ); ông bảo nàng rằng cả hai đám đều tốt như nhau cho nên ông muốn để con gái yêu được tùy ý lựa chọn. Thật là một gương tốt đáng để cho các ông bố khác noi theo khi họ định cưới vợ gả chồng cho con cái; tôi không muốn nói rằng bố mẹ cứ để mặc cho con cái lựa chọn lung tung, trái lại họ phải giới thiệu những đám tử tế để con cái được tùy ý lựa chọn. Tôi không biết Lêanđra ưng người nào, chỉ biết rằng sau đó cha nàng đã gặp hai người chúng tôi, nói rằng nàng còn ít tuổi và còn dùng những lời lẽ chung chung khác khiến cho bố con ông ta không bị ràng buộc gì mà chúng tôi cũng chẳng phật lòng. Đối thủ của tôi tên là Anxelmô, tôi là Ơhêniô; tôi cần nói rõ như vậy để các ngài dễ theo dõi các nhân vật trong câu chuyện bi thảm đang kể ra đây, một câu chuyện kết thúc một cách đáng buồn.

Vào thời gian đó có một anh chàng trở về làng, tên hắn là Vixentê đê la Rôca, con trai một nông phu nghèo trong làng. Hắn là nhà binh, đã qua Ý-đại-lợi và nhiều nơi khác. Năm hắn mười hai tuổi, có một ông đại úy cùng một đại đội qua làng và bắt hắn đem đi; mười hai năm sau, hắn trở về làng trong bộ quân phục rực rỡ, trên người đầy những đồ trang sức bằng pha lê và dây dợ bằng kim loại. Nay hắn đóng bộ này, mai lại bộ khác. Nhưng tất cả những của hào nhoáng đó chỉ là đồ tập tàng thôi. Người dân quê vốn tinh nghịch, và vì họ rỗi rãi nên càng tinh nghịch; họ đã ghi lại tỉ mỉ những bộ quần áo hắn mặc và những đồ trang sức hắn đeo trên người và cuối cùng phát hiện ra rằng hắn chỉ có ba bộ màu sắc khác nhau cộng với một số dây nịt và bít tất. Tuy nhiên hắn khéo thay đổi cách ăn mặc thành thử nếu như không ghi tỉ mỉ, người ta sẽ tưởng hắn có tới trên mười bộ y phục và trên hai chục bộ lông gắn ở ngù mũ. Vấn đề trang phục của hắn mà tôi nêu ra đây không phải là vô ích và thừa đâu vì những bộ quần áo đó đóng một vai trò quan trọng trong toàn bộ câu chuyện này.

Hắn hay ra ngồi ở một bãi trống trong làng, trên một chiếc ghế đá ở dưới một cây bạch dương lớn, và chúng tôi há to mồm lắng nghe hắn kể về các trận chiến thắng. Không nơi nào trên trái đất hắn không đặt chân tới, không có trận nào hắn không dự; số người Môrô bị hắn giết còn nhiều hơn cả số dân của hai xứ Maruêcôx và Tunêx. Theo lời hắn kể thì hắn đã dự nhiều trận độc chiến hơn cả Gantê và Luna, hơn cả Điêgô Garxia đê Parêđêx và hàng ngàn dũng sĩ khác mà hắn đã đọc tên ra; và trong tất cả các trận đó, hắn đều thắng mà không mất giọt máu nào. Rồi hắn chỉ vào những vết sẹo tuy chẳng ai nhận ra, khoe rằng mình đã bị trúng đạn trong các cuộc giao chiến hoặc trong khi làm nhiệm vụ. Với một sự láo xược chưa từng thấy, hắn gọi những người bằng vai và cả những người quen biết hắn là thằng nọ thằng kia; hắn còn nói rằng chính cánh tay của hắn mới là cha hắn, rằng hắn trở nên quý tộc là do công lao của hắn, rằng với tư cách là một người lính, hắn không thua kém gì đức vua. Ngoài thái độ ngông nghênh đó, hắn biết âm nhạc đôi chút, và cũng tập tọng chơi đàn ghi-ta (người ta bảo là hắn bắt đàn nói thì đúng hơn). Tài của hắn chưa hết: hắn còn là thi sĩ nữa; trong làng có bất cứ một chuyện nhỏ nhặt gì, hắn cũng làm thành một bài thơ dài tới một dặm rưỡi.

Thế mà chàng quân nhân tôi vừa tả, chàng Vixentê đê la Rôca, con người dũng cảm, lịch thiệp, biết nhạc lại biết cả làm thơ, đã được Lêanđra để ý qua nhiều lần nàng từ trên cửa sổ nhìn xuống bãi. Những bộ y phục thêu kim tuyến choáng lộn của hắn làm nàng say đắm; những bài thơ do hắn soạn ra làm nàng mê mẩn tâm thần; những chiến công hắn khoe là đã lập nên lọt tới tai nàng. Cuối cùng, ma xui quỷ khiến làm sao, Lêanđra yêu Vixentê trước khi tên này nảy ra ý định tán tỉnh nàng. Trong những chuyện yêu đương, không có gì thuận lợi hơn một khi người đàn bà ngỏ ý trước, và chính vì vậy mà Lêanđra và Vixentê đã dễ dàng thỏa thuận với nhau. Lêanđra đã thực hiện ý định của mình trước khi một vài anh trong số những đám cầu hôn phát hiện ra: nàng rời bỏ ngôi nhà của người cha yêu quý (mẹ nàng đã mất từ lâu) và đi khỏi làng cùng với Vixentê, kẻ đã giành được thắng lợi to lớn nhất trong tất cả những thắng lợi mà hắn đã tự gán cho mình.

Cả làng sửng sốt và ai biết tin đó cũng phải kinh ngạc. Tôi cũng rất ngạc nhiên, Anxelmô thì bàng hoàng, cha nàng buồn xỉu, họ hàng của nàng bẽ mặt, công lý được cầu cứu và đội lính cảnh sát sẵn sằng hành động. Người ta lùng sục các nẻo đường, các khu rừng và ba ngày sau thì tìm thấy cô gái Lêanđra đỏng đảnh trong một hang núi, trên mình có độc chiếc áo lót, bao nhiêu tiền nong và đồ tư trang quý giá mang theo bị lột sạch. Người ta đưa nàng về nhà trình diện người cha đáng thương; khi hỏi về tai họa đã đến với nàng, nàng nói toạc ra rằng Vixentê đê la Rôca đã lừa dối, hứa sẽ lấy nàng làm vợ, bảo nàng đi khỏi nhà cha rồi hắn sẽ đưa tới Napôlêx, một tỉnh trù phú và ăn chơi nhất trần gian; nhẹ dạ cả tin, nàng đã làm y lời, lấy cắp một số của cải của cha và theo hắn ngay cái đêm bỏ nhà ra đi; hắn dẫn nàng vào sâu trong núi và nhốt trong hang cho tới khi mọi người tìm thấy. Lêanđra còn kể thêm rằng hắn không làm nhục nàng nhưng đã lấy hết của cải rồi chuồn thẳng bỏ mặc nàng trong hang. Mọi người nghe xong lại càng ngạc nhiên. Thưa các ngài, quả thật cũng khó tin được rằng tên Vixentê đã tự kiềm chế được mình. Tuy nhiên Lêanđra một mực nói thế khiến người cha đau khổ cũng thấy yên tâm; ông không tiếc số của cải đã bị mang đi vì cái quý nhất ở con gái ông vẫn nguyên vẹn, nếu mất đi rồi thì không bao giờ hòng lấy lại được. Ngay hôm Lêanđra trở về nhà, cha nàng đưa đi biệt tích; ông nhốt nàng trong một nhà tu kín ở một tỉnh gần đó, hy vọng rằng thời gian sẽ làm phai nhạt dần dư luận không hay về con gái mình. Đối với những người không quan tâm tới việc Lêanđra tốt hay xấu, dư luận chung cho rằng nàng cũng đáng được tha thứ vì tuổi còn non; nhưng những ai đã biết nàng là một con người khôn ngoan và thông minh lại không nghĩ rằng nàng sai lầm vì dại dột mà vì đàn bà xưa nay nhẹ dạ và thông thường có thiên hướng hư hỏng xấu xa.

Sau khi Lêanđra bị nhốt trong nhà tu, Anxelmô có mắt cũng như mù vì chàng không có gì thích thú đáng nhìn nữa; đôi mắt tôi cũng mờ đi, không ánh sáng nào làm cho thấy một vật gì tốt đẹp cả. Vắng Lêanđra, nỗi buồn của chúng tôi càng tăng và sức chịu đựng càng giảm. Chúng tôi nguyền rủa những bộ y phục hào nhoáng của Vixentê và oán trách sự bất cẩn của cha Lêanđra. Cuối cùng, Anxelmô và tôi bàn nhau bỏ làng vào ở trong thung lũng này, chàng mang theo một đàn cừu lớn, tôi một đàn dê để chăn. Chúng tôi sống giữa cỏ cây cho khuây khỏa nỗi buồn đau; có lúc cả hai chúng tôi cùng ca ngợi hoặc chê trách cô nàng Lêanđra xinh đẹp, có lúc chúng tôi than thở kêu trời thấu cho nỗi lòng khổ đau. Có rất nhiều chàng trai đã từng yêu Lêanđra cũng bắt chước chúng tôi vào sống trong vùng núi âm u này và làm nghề như chúng tôi. Cả cái thung lũng này đầy những chàng chăn cừu chăn dê cùng những chuồng trại, nom chẳng khác gì miền Arcađia ở Hy Lạp; đâu đâu cũng thấy vang lên tiếng gọi nàng Lêanđra xinh đẹp. Có anh nguyền rủa nàng là đỏng đảnh, thay lòng đổi dạ, không chung tình; có anh kết tội nàng là dễ dãi, nhẹ dạ; anh này tha thứ, anh kia lên án và xỉ vả; có anh ca ngợi sắc đẹp của nàng, anh khác lại chê trách tính tình của nàng; tóm lại, anh nào cũng trách móc nàng nhưng cũng vẫn yêu nàng. Tất cả đều hóa điên hóa dại đến mức có anh trách nàng là kiêu ngạo mặc dù chưa hề nói với nàng một lời; có anh than phiền là bị cơn ghen giày vò mặc dù nàng không hề nhận lời với ai (như tôi đã kể ở trên, mãi tới khi phát hiện ra sai lầm của Lêanđra, người ta mới biết ý định của nàng). Trong các hốc đá, bên bờ suối, dưới bóng cây, đâu đâu cũng có những chàng chăn cừu đứng ngồi than thở với trời đất nỗi bất hạnh của mình. Tên của Lêanđra vang vọng khắp mọi nơi: Lêanđra vang trong núi, Lêanđra thì thầm bên suối, Lêanđra làm chúng tôi hồi hộp, sung sướng, hy vọng mà không tin tưởng, lo sợ mà không biết mình lo sợ điều gì. Trong số tất cả đám người điên loạn ấy, riêng có một người tỏ ra tỉnh táo hơn cả, đó là Anxelmô, đối thủ của tôi. Tuy có nhiều điều để than phiền, trách móc, anh ta chỉ than phiền về sự vắng mặt của người yêu. Vốn giỏi thổi sáo và làm thơ, anh vừa thổi vừa ngâm thơ để nói lên nỗi đau khổ. Tôi làm cách khác, theo tôi, dễ làm và đúng hơn: tôi trách móc đàn bà nhẹ dạ, bất trắc, hai lòng, hứa suông, thề hão, thiếu chín chắn trong suy nghĩ cũng như trong ý đồ. Thưa các ngài, chính vì vậy mà khi bước chân tới đây, tôi đã nói với con dê cái này những lời mà các ngài đã nghe thấy. Vì nó là dê cái nên tôi không quý nó lắm mặc dù đó là con dê hay nhất đàn. Đấy là đầu đuôi câu chuyện mà tôi đã hứa kể hầu các ngài. Nếu tôi đã kể mất nhiều thời giờ, tôi cũng sẽ dành nhiều thời giờ để phụng sự các ngài. Chuồng trại của tôi gần đây, có sữa tươi, phó-mát rất ngon cùng nhiều trái quả chín mọng, vừa ngon mắt vừa ngon miệng.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes

Chương LII

CUỘC ẨU ĐẲ GIỮA ĐÔN KIHÔTÊ VÀ CHÀNG CHĂN DÊ, CÙNG CÂU CHUYỆN LY KỲ CỦA CÁC THẦY TU KHỔ HẠNH MÀ CHÀNG HIỆP SĨ ĐÃ KẾT THÚC TỐT ĐẸP BẰNG MỒ HÔI NƯỚC MẮT CỦA MÌNH


Câu chuyện của chàng chăn dê làm cho tất cả đám thính giả đều thích thú, nhất là ông thầy tu. Với một sự quan sát tỉ mỉ, ông ta nhận thấy rằng lối kể chuyện của chàng chăn dê chứng tỏ anh ta hoàn toàn không phải là một con người thô lỗ mà phải là một triều thần giỏi giang; ông công nhận rằng Cha xứ rất có lý khi nói rằng núi non sản sinh ra sĩ phu. Mọi người đều ngỏ ý muốn giúp đỡ Ơhêniô; Đôn Kihôtê tỏ ra sốt sắng nhất, chàng nói:

- Người anh em chăn dê ơi, quả tình nếu tôi có khả năng làm một cuộc phiêu lưu mạo hiểm mới, tôi sẽ lên đường ngay lập tức thì để giải quyết tốt việc này cho anh. Tôi sẽ giải thoát nàng Lêandra khỏi nhà tu kín (chắc chắn nàng miễn cưỡng vào đó) dù cho ni viện trưởng và bao kẻ khác chống lại, và tôi sẽ trao nàng tận tay anh để anh muốn làm gì tùy ý miễn là anh tôn trọng luật lệ của hiệp sĩ đạo cấm không được có hành động gì xúc phạm tới bất cứ một công nương nào. Với sự phù hộ của Chúa chúng ta, tôi tin rằng một pháp sư độc ác dù tài nghệ cao cường đến mấy cũng sẽ bị một pháp sư thiện tâm hơn trừng trị. Bởi thế, tôi xin hứa sẽ ủng hộ và giúp đỡ anh vì nghề nghiệp của tôi buộc tôi phải cứu vớt những kẻ hoạn nạn cô đơn.

Nhìn Đôn Kihôtê, chàng chăn dê lấy làm ngạc nhiên trước bộ mã và diện mạo xấu xa của chàng hiệp sĩ, bèn hỏi bác phó cạo ngồi bên:

- Thưa ngài, chẳng hay người này là ai mà diện mạo lời lẽ lạ lùng như vậy?

Bác phó cạo đáp:

- Còn ai nữa ngoài hiệp sĩ trứ danh Đôn Kihôtê xứ Mantra, con người chuyên đi uốn nắn những điều sai trái, đả phá những sự bất công, chỗ dựa của các cô gái yếu đuối, nỗi kinh hoàng của lũ khổng lồ và kẻ chiến thắng trong chiến trận.

Chàng chăn dê nói:

- Ngài giới thiệu ông ta đúng như sách tả các hiệp sĩ giang hồ đi làm những công việc này. Riêng tôi nghĩ rằng một là ngài nói đùa cho vui, hai là trong đầu ông bạn hiền đây có những khoang rỗng tuếch.

- Mi là một tên đại súc sinh, Đôn Kihôtê hét to, chính mi là kẻ rỗng tuếch và hèn nhát; đầu ta còn to và đầy hơn cả cái bụng con đĩ mẹ đã đẻ ra mi.

Nói rồi, chàng vớ một chiếc bánh mì ở bên cạnh và ném rất mạnh vào giữa mặt chàng chăn dê làm mũi anh này bẹp gí. Vốn không biết đùa, lại thấy mình bị đánh đau, anh chàng chăn dê quên cả tấm thảm trên có thức ăn, quên cả những chiếc khăn ăn, quên luôn cả những người đang ngồi ăn, nhảy bổ lên người Đôn Kihôtê, hai tay thít chặt cổ chàng. Vừa lúc đó, Xantrô Panxa xông tới nếu không thì chắc chắn anh chăn dê đã làm cho Đôn Kihôtê tắc thở; bác giám mã túm hai vai chàng ta rồi ném vào giữa bàn ăn, đĩa cốc vỡ tan rơi loảng xoảng ra đất. Được giải vây, Đôn Kihôtê lao lên người chàng chăn dê; mặt mày đầm đìa máu me, lại bị Xantrô đánh nhừ tử, anh này quờ quạng tìm dao để trả thù bằng một cuộc lưu huyết; ông thầy tu và Cha xứ vội ngăn lại. Trong khi đó, bác phó cạo giúp cho anh chăn dê ngồi được lên người Đôn Kihôtê, và thế là chàng hiệp sĩ khốn khổ bị ăn no đòn, mặt mày cũng đầy máu như đối phương. Ông thầy tu và Cha xứ cười vang, các người lính cảnh sát thích quá nhảy cỡn, mọi người đứng ngoài xuỵt ầm lên như ta xuỵt chó khi thấy chúng cắn nhau. Riêng Xantrô đứng nhìn một cách tuyệt vọng vì bác bị một người hầu của ông thầy tu giữ chặt không sao gỡ ra được để chạy lại cứu chủ.

Trong lúc mọi người còn đang mê mải say sưa xem hai đối thủ cấu xé nhau, bỗng đâu vọng lại một tiếng kêu buồn thảm khiến họ phải quay mặt về phía đó. Người tỏ ra xúc động nhất vì tiếng kêu là Đôn Kihôtê lúc này vẫn đang miễn cưỡng chịu nằm dưới chàng chăn dê, quá nửa thân người nhừ tử vì đòn; chàng nói:

- Người anh em quỷ sứ ơi, ta gọi anh như vậy vì anh không thể là một cái gì khác được; anh đã tỏ ra dũng cảm hơn ta và đã khuất phục được ta; giờ đây ta yêu cầu ngưng chiến trong vòng một tiếng đồng hồ. Ta ngờ rằng tiếng kèn thảm thiết của chúng ta vừa nghe thấy kêu gọi ta đi giải quyết một cuộc phiêu lưu mạo hiểm nào đây.

Chàng chăn dê lúc này cũng đã mệt phờ vì đánh người và bị người đánh, buông ngay chàng hiệp sĩ ra. Đôn Kihôtê đứng dậy quay mặt về phía có tiếng kèn thì vừa hay nhìn thấy có một đoàn người từ trên sườn đồi đi xuống, toàn thân mặc đồ trắng như kiểu các thầy tu khổ hạnh.

Số là năm đó, những đám mây không chịu nhả sương xuống mặt đất và khắp vùng dân chúng tổ chức rước xách, cầu đảo xin Thượng đế mở rộng đôi bàn tay bác ái mưa xuống cho. Vì vậy mà dân ở một làng lân cận đã tổ chức một đám rước tới một ngôi đền dựng bên sườn một quả đồi trong thung lũng này. Đây không phải là lần đầu tiên Đôn Kihôtê trông thấy những bộ y phục lạ lùng của các thầy tu khổ hạnh; nhưng chàng không nhớ những chuyện cũ mà lại tưởng đây là một cuộc phiêu lưu mạo hiểm nào dành riêng cho một hiệp sĩ giang hồ như chàng. Đã vậy, đám rước lại mang theo một bức viền tang khiến chàng đinh ninh là có một phu nhân quyền quý nào đây đang bị những tên súc sinh ngu xuẩn và láo xược bắt đem đi. Nghĩ vậy, chàng nhanh nhẹn chạy tới chỗ con Rôxinantê đang gặm cỏ, tháo chiếc khiên buộc ở cốt yên, đóng cương vào tử tế, bảo Xantrô đưa cho thanh kiếm rồi nhảy phốc lên ngựa, tay ôm khiên, mồm thét to:

- Hỡi đám người dũng cảm kia, giờ đây các người sẽ nhận ra rằng sự có mặt của những kẻ hành nghề hiệp sĩ giang hồ trên đời này là vô cùng quan trọng; giờ đây, khi các người thấy ta giải thoát cho phu nhân kia, các người sẽ phải quý trọng các hiệp sĩ giang hồ.

Vì không có đinh thúc ngựa, chàng phải dùng đùi thúc con Rôxinantê đi nước kiệu (đọc suốt câu chuyện có thật này, không hề thấy kể rằng con Rôxinantê phi nước đại bao giờ) lao tới trước mặt đám thầy tu khổ hạnh. Cha xứ, ông thầy tu và bác phó cạo không sao ngăn lại được; Xantrô kêu ầm lên:

- Ngài đi đâu vậy, hỡi ngài Đôn Kihôtê? Con quỷ nào đã nhập vào người ngài khiến ngài dám chống cả tín ngưỡng như vậy? Rõ khổ tôi chưa! Ngài phải biết đây là các thầy tu khổ hạnh đi rước, còn bà phu nhân người ta khiêng trên kiệu là hình Đức Mẹ đồng trinh đáng kính đấy. Xin ngài hãy suy nghĩ về hành động của mình kẻo lần này người ta sẽ bảo rằng ngài chẳng hiểu gì hết.

Xantrô tốn công vô ích vì chủ bác cương quyết xông tới đám người khoác áo choàng trắng và giải thoát cho phu nhân để tang nên không nghe thấy gì; vả lại chàng có nghe thấy cũng chẳng quay đầu dù đó là lệnh vua. Đến nơi, chàng ghìm ngựa lại (quả thật lúc này con Rôxinantê cũng muốn nghỉ chân một chút), hổn hển nói bằng giọng the thé:

- Có lẽ các người chẳng phải thiện nhân nên mới che mặt như vậy. Hãy giỏng tai ra nghe ta nói.

Những người khiêng ảnh dừng lại trước; một trong bốn nhà tu hành đang đọc kinh cầu đảo, nhìn thấy diện mạo kỳ lạ của Đôn Kihôtê, hình thù gầy gò của con Rôxinantê cùng những hành động nực cười khác của chàng hiệp sĩ, bèn đáp:

- Người anh em muốn nói gì xin hãy nói nhanh lên kẻo những người khiêng ảnh đây sắp rách thịt rồi; chúng tôi không thể và cũng không được dừng lại nghe bất cứ ai nói nếu không nói ít lời.

- Ta chỉ nói một lời, Đôn Kihôtê đáp; hãy giải phóng ngay cho phu nhân xinh đẹp này. Những giọt nước mắt và vẻ mặt buồn rầu của bà ta chứng tỏ các ngươi đã cưỡng bức đưa bà ta đi và rõ ràng đã có hành động xúc phạm tới bà ta. Ta sinh ra đời để uốn nắn những sự sai trái, và ta sẽ không để cho các người tiến lên một bước nếu các người không trả lại tự do mà bà ta mong muốn và xứng đáng được hưởng.

Nghe những lời lẽ của Đôn Kihôtê, mọi người đều nghĩ là chàng điên và họ phá lên cười khiến Đôn Kihôtê nổi khùng; chẳng nói chẳng rằng, chàng rút gươm xông tới bức ảnh. Một trong những người khiêng bèn bỏ ảnh chạy tới trước mặt Đôn Kihôtê, giơ chiếc đòn lên đỡ (chiếc đòn này vẫn dùng để chống khung ảnh mỗi khi đám rước dừng lại); Đôn Kihôtê chém một nhát đứt đôi; còn lại một nửa chiếc đòn trong tay, bác phu khiêng ảnh nện thẳng cánh vào vai bên phía tay cầm gươm của Đôn Kihôtê khiến tay cầm khiên của chàng không sao đỡ được ngón đòn chí tử đó; đau quá, chàng hiệp sĩ lăn ra đất. Xantrô Panxa đang lật đật chạy đằng sau, thấy chủ ngã bèn kêu van kẻ đánh người hãy dừng tay lại vì chủ bác là một hiệp sĩ xấu số bị phù phép, xưa nay chưa hề làm hại ai cả. Tên súc sinh nọ bèn dừng tay, không phải vì nể lời Xantrô mà vì thấy chân tay chàng không động đậy nữa. Tưởng đã đánh chết Đôn Kihôtê, y vội gài gấu áo vào thắt lưng rồi lủi mất như một con hoẵng.

Lúc này, những người trong đoàn của Đôn Kihôtê vội chạy tới chỗ chàng; những người đi rước thấy trong số đó có cả lính cảnh sát đeo cung nỏ, sợ có chuyện chẳng lành xảy ra, bèn đứng vây quanh bức ảnh, xắn quần xắn áo, người cầm roi kẻ vớ cây đèn sáp, chờ đợi cuộc tấn công với quyết tâm tự bảo vệ và thậm chí, nếu có thể, đánh trả lại những người đang xông tới. May sao sự việc đã diễn ra tốt lành hơn: tưởng Đôn Kihôtê chết, Xantrô cứ ôm lấy chủ mà khóc lóc thảm thiết, nom thật tức cười, trong khi đó thì một Cha xứ đi theo đám rước nhận ra Cha xứ ở đoàn Đôn Kihôtê; hai bên hỏi han nhau và thế là nỗi lo lắng của hai đoàn cũng tiêu tan. Cha xứ nọ kể cho Cha xứ kia nghe về Đôn Kihôtê. Sau khi rõ chuyện, đám thầy tu khổ hạnh vội chạy lại xem chàng hiệp sĩ khốn nạn còn sống hay chết thì thấy Xantrô Panxa nước mắt vòng quanh than thở như sau:

- Ôi, tinh hoa của ngành hiệp sĩ! Chỉ vì một nhát gậy mà người ta đã kết thúc những năm tháng tốt đẹp của cuộc đời chàng. Ôi, niềm tự hào của dòng họ, vinh quang của xứ Mantra và của cả trái đất! Vắng người, trái đất này sẽ đầy rẫy những kẻ bất lương vì chúng có thể làm những việc xấu xa mà không lo bị trừng trị. Ôi, con người phóng khoáng hơn cả hoàng đế Alêhanđrô! Tôi mới đi theo hầu hạ người được có tám tháng trời mà người đã ban cho tôi một hòn đảo nằm giữa biển khơi! Ôi con người nhũn nhặn đối với những kẻ kiêu ngạo và cứng rắn đối với người hèn mọn [SUP]1[/SUP], gian nguy không lùi bước, biết nhẫn nhục, biết yêu mà không vụ lợi, biết làm theo người hay, căm ghét kẻ dở, kẻ thù của những tên xấu xa đê tiện, và cuối cùng là một hiệp sĩ giang hồ trứ danh tức là không còn gì để nói nữa!

Những tiếng kêu khóc của Xantrô làm Đôn Kihôtê hồi tỉnh và câu đầu tiên chàng thốt lên là:

- Hỡi nàng Đulxinêa vô cùng dịu hiền, kẻ sống xa cách nàng đang phải chịu những nỗi bất hạnh to lớn. Anh bạn Xantrô, hãy đỡ ta lên chiếc xe bị phù phép vì ta không còn đủ sức ngồi lên yên con Rôxinantê; một bên vai ta gãy vụn ra rồi.

- Thưa ngài, tôi rất vui lòng làm việc đó, Xantrô đáp, và thầy trò ta sẽ trở về làng cùng với những con người tốt bụng này; sau đó ta chuẩn bị một cuộc xuất hành thứ ba, và mong rằng cuộc xuất hành đó sẽ mang lại lợi ích và tiếng tăm cho thầy trò ta.

- Anh nói chí lý đấy, Đôn Kihôtê nói; tốt hơn là ta hãy để cho ảnh hưởng xấu xa của những ngôi sao chiếu mệnh qua đi đã.

Ông thầy tu, Cha xứ và bác phó cạo bảo Đôn Kihôtê rằng nếu chàng làm đúng lời thì rất hay. Sau khi đã cười no vì những lời lẽ ngớ ngẩn của Xantrô Panxa, họ lại nhốt Đôn Kihôtê lên xe như trước. Đám rước tiếp tục lên đường; chàng chăn dê từ giã mọi người; những viên lính cảnh sát không muốn đi tiếp và Cha xứ trả tiền công cho họ; ông thầy tu yêu cầu Cha xứ một khi về làng sẽ báo tin cho biết kết quả bệnh tình của Đôn Kihôtê có giảm hay không, rồi ông xin phép tiếp tục cuộc hành trình. Thế là họ chia tay nhau, mỗi người đi một hướng, còn lại Cha xứ, bác phó cạo, Đôn Kihôtê, Xantrô Panxa và con Rôxinantê từ nãy vẫn đứng nhìn mọi việc xảy ra với một sự nhẫn nại không thua gì chủ.

Người chủ xe buộc bò vào ách xe, đặt Đôn Kihôtê lên một đống cỏ khô rồi lại thủng thẳng đánh xe đi theo con đường Cha xứ chỉ dẫn. Sáu ngày sau thì về tới làng của Đôn Kihôtê, vào giữa buổi trưa. Hôm ấy lại đúng ngày chủ nhật, dân làng kéo ra bãi chơi; thấy chiếc xe bò của Đôn Kihôtê đi ngang qua bãi, mọi người xúm lại xem trong xe có gì. Khi nhìn thấy người đồng hương ở bên trong, cả làng đều sửng sốt. Một chú bé chạy đi báo cho bà quản gia và cháu gái của Đôn Kihôtê biết rằng chủ và cậu của họ đã về, người gầy đét, da vàng ệnh, nằm dài trên một đống cỏ khô trong xe bò. Nghe bà quản gia và cô cháu gái kêu gào, ai cũng phải động lòng thương xót, họ tự vả vào mặt rồi lại ra sức nguyền rủa những quyển sách kiếm hiệp đáng ghét. Khi Đôn Kihôtê bước vào nhà, những tiếng kêu gào, những cái vả, những lời nguyền rủa lại tiếp tục.

Nghe tin Đôn Kihôtê về, vợ Xantrô Panxa lật đật chạy sang vì bác đã biết chồng mình đi theo làm giám mã cho chàng hiệp sĩ. Thoạt nhìn thấy Xantrô, bác hỏi ngay về sức khỏe con lừa. Xantrô đáp là con lừa còn khỏe hơn cả chủ nó.

- Xin cảm tạ Thượng đế đã phù hộ cho con, bác nói. Bây giờ thầy nó hãy cho tôi biết đi làm giám mã như vậy thì được những bổng lộc gì? Có mang được váy sống gì cho tôi và giày dép gì cho các con không?

- Chả mang được những thứ đó đâu, bu nó ạ, nhưng tôi mang được về những thứ khác nặng hơn và có giá trị hơn cơ [SUP]2[/SUP].

- Vậy thì thích lắm nhỉ, vợ Xantrô nói; nào, thầy nó hãy đưa những thứ nặng nề và giá trị đó ra đây xem nào. Tôi muốn được nhìn tận mắt cho thỏa nỗi lòng vì trong những thế kỷ thầy nó vắng nhà, tôi buồn rũ cả người, chán hết mọi sự.

- Về nhà tôi sẽ đưa cho bu nó xem. Bây giờ bu nó hãy vui lên. Nếu trời cho thầy trò chúng tôi ra đi tìm kiếm những chuyện phiêu lưu mạo hiểm một lần nữa, bu nó sẽ thấy tôi chẳng bao lâu sẽ trở thành bá tước hay thống đốc một hải đảo không thuộc loại xoàng mà phải vào loại nhất chứ không chơi đâu.

- Lạy trời giúp cho thầy nó vì quả thật vợ chồng ta rất cần đến thứ đó. Nhưng tôi hỏi thầy nó này: hải đảo là cái gì? Tôi chẳng hiểu ra sao cả.

- Mật ong đâu phải để cho lừa ăn, Xantrô đáp; đến lúc đó thì khắc biết, bu nó ạ, và rồi bu nó sẽ lấy làm lạ được nghe lũ thần dân gọi mình là lệnh bà.

- Thầy nó nói gì vậy? Thế nào là lệnh bà, hải đảo và thần dân? Huana Panxa lại hỏi (Đó là tên vợ Xantrô; hai người không có họ hàng gì với nhau nhưng theo tục lệ xứ Mantra, người vợ mang tên họ của chồng).

- Thôi Huana, không cần vội biết những chuyện đó làm gì; miễn là tôi nói thật, thế cũng đủ rồi, đừng hỏi nữa. Chỉ cần biết sơ sơ rằng trên đời này không có gì thú vị hơn làm giám mã cho một hiệp sĩ giang hồ chuyên đi tìm kiếm chuyện phiêu lưu mạo hiểm. Thực ra không phải là mọi chuyện đều kết thúc tốt đẹp như mình mong muốn đâu vì trong một trăm chuyện xảy ra thì có đến chín mươi chín chuyện ngang trái. Tôi biết như vậy là do kinh nghiệm bản thân vì có lần tôi bị tung lên vật xuống, lần khác bị đánh nhừ tử; tuy thế, đi tìm những chuyện phiêu lưu vẫn là một điều thú vị, khi trèo đèo, lúc sục sạo trong rừng sâu, khi leo vách đá, lúc thăm lâu đài, rồi lại còn được thỏa chí ngủ đỗ trong các quán trọ mà không phải trả một đồng xu nhỏ.

Trong lúc vợ chồng Xantrô Panxa hàn huyên với nhau thì bà quản gia và cô cháu gái chăm sóc cho Đôn Kihôtê; họ cởi quần áo chàng ra và đặt lên chiếc giường cũ. Đôn Kihôtê nhìn hai người, đôi mắt ngơ ngác, vẫn không biết mình đang ở đâu. Cha xứ dặn cô cháu gái phải hết sức chăm sóc ông cậu và luôn đề phòng chàng trốn khỏi nhà một lần nữa; ông cũng kể lại những khó khăn mà ông đã phải vượt qua để đưa được chàng về nhà. Hai người đàn bà lại tru tréo ầm lên, lại nguyền rủa những quyển sách kiếm hiệp, cầu Chúa dìm xuống đáy vực thẳm những kẻ đã bày đặt ra những chuyện dối giả bậy bạ như vậy. Cuối cùng, họ tỏ ra lo lắng, chỉ sợ lại mất ông chủ và ông cậu một khi sức khỏe của Đôn Kihôtê hồi phục đôi chút. Quả thật sự việc đã diễn ra đúng như họ nghĩ.

Song mặc dù tác giả cuốn sách này đã ra công mày mò sưu tầm những chiến công của Đôn Kihôtê trong chuyến xuất hành lần thứ ba, ông cũng không tìm được dấu tích gì dù chỉ là những điều ghi lại trên giấy. Tuy nhiên, trong ký ức của dân chúng xứ Mantra, tiếng tăm đồn đại còn lưu rằng Đôn Kihôtê đã bỏ nhà ra đi lần thứ ba và đã tới Đaragôda, tại đó chàng đã tham dự những trận đấu thương nổi tiếng và đã có những hành động xứng đáng với lòng dũng cảm và trí thông minh của mình. Về phần cuối đời của chàng, tác giả không tìm được tài liệu gì và chắc là sẽ không bao giờ tìm ra nếu như không có may mắn được một cụ y sư trao lại cho một chiếc hòm bằng chì. Theo lời cụ kể lại, cụ đã tìm thấy chiếc hòm đó ở dưới nền đổ nát của một ngôi đền khi người ta xây dựng lại. Trong hòm có một tập giấy ghi những bài thơ Tây Ban Nha viết bằng chữ gô-tích [SUP]3[/SUP], kể lại nhiều chiến công của Đôn Kihôtê, tả nhan sắc của nàng Đulxinêa làng Tôbôxô, hình dạng con Rôxinantê, lòng trung thành của Xantrô Panxa và mộ phần của chàng hiệp sĩ, ngoài ra còn có một số câu thơ ghi trên mộ chí cùng những lời ca tụng cuộc đời và tính tình của chàng. Tác giả đáng tin cậy của câu chuyện mới lạ này đã ghi lại đây tất cả những câu chữ còn đọc được. Để đền bù cho công lao khó nhọc tìm kiếm tất cả các thư tịch xứ Mantra ngõ hầu đưa ra ánh sáng câu chuyện này, tác giả chỉ yêu cầu các bạn cũng đọc với một sự tin tưởng như những kẻ thức thời thường tin vào những cuốn sách kiếm hiệp đang thịnh hành khắp năm châu. Được vậy, tác giả sẽ coi như đã được trả công một cách thỏa đáng và sẽ mạnh dạn tìm kiếm những câu chuyện khác; nếu những câu chuyện đó thiếu phần chân thực, ít ra nó cũng không kém phần sáng tạo và lý thú như câu chuyện này.

Dưới đây là những dòng chữ đầu tiên ghi trong tập giấy tìm thấy ở chiếc hòm bằng chì:

Các viện sĩ Viện Hàn lâm Argamaxiia xứ Mantra viết về cuộc đời và cái chết của hiệp sĩ dũng cảm Đôn Kihôtê xứ Mantra.
El Mônicôngô
Viện sĩ Viện hàn lâm Argamaxiia
Ghi trên mộ chí của Đôn Kihôtê
Cái đầu điên dại làm rạng rỡ xứ Mantra bằng muôn ngàn chiến công hiển hách; bộ óc quay cuồng như chong chóng, không chịu một chỗ đứng yên;
Cánh tay dũng mãnh vươn tới năm châu bốn biển; một nguồn thi hứng vô tận, những vần thơ tuyệt diệu khắc biển đồng;
Yêu chung thủy, dũng cảm vô song, chàng bỏ xa Amadix, xem khinh Galaor và bắt Bêlianix cúi mặt;
Khách giang hồ rong ruổi trên lưng tuấn mã Rôxinantê, giờ đây yên nghỉ dưới phiến đá lạnh lẽo này.
El Paniaguađô
Viện sĩ Viện hàn lâm Argamaxiia
Ca ngợi Đulxinêa làng Tôbôxô
Mặt to, vai rộng, tưởng mạo nam nhi, đó là Đulxinêa, bà hoàng Tôbôxô, tình nương của Đôn Kihôtê vĩ đại.
Vì nàng, chàng đã vượt Hắc Sơn, đồng Môntiel khét tiếng, tới bình nguyên Aranhuêx đầy hoa thơm cỏ lạ; âu cũng do Rôxinantê mà chàng chồn chân mỏi gối.
Ác nghiệt thay ngôi sao chiếu mệnh giai nhân xứ Mantra và chàng hiệp sĩ vô địch!
Nàng đã từ giã cõi trần giữa lúc đầu xanh tuổi trẻ, và dù danh thơm ghi bảng đồng bia đá, chàng cũng không tránh khỏi sợi dây oan nghiệt của tình yêu, hờn giận và dối lừa.
El Caprichôxô
Viện sĩ xuất sắc Viện hàn lâm Argamaxiia,
Ca ngợi Rôxinantê, tuấn mã của hiệp sĩ Đôn Kihôtê xứ Mantra
Trên chiếc ngai nạm kim cương oai hùng còn in dấu tích bao lần huyết chiến, chàng hiệp sĩ đầy bầu máu nóng xứ Mantra phất cao ngọn cờ với lòng quả cảm phi thường.
Chàng treo vũ khí và ngọn giáo sắc bén từng chém, giết, phanh thây quân thù. Chiến công kỳ diệu! Chàng hiệp sĩ đời nay mang một phong cách mới mẻ.
Thuở xưa nước Gôlơ kiêu hãnh vì Amađix, và những người kế nghiệp chàng đã mang lại bao chiến thắng huy hoàng và tiếng tăm lừng lẫy cho Hy Lạp;
Ngày nay triều đình Bêlôna phải tuyên dương Đôn Kihôtê, và xứ Mantra oanh liệt còn kiêu hãnh vì chàng hơn cả hai nước Hy Lạp và Gôlơ.
Công trạng của chàng mãi mãi không rơi vào lãng quên vì lòng dũng cảm của Rôxinantê còn vượt xa những chiến mã Briiađôrô và Baiarđô.
El Burlađor
Viện sĩ Viện hàn lâm Argamaxiia
Tặng Xantrô Panxa
Bé người mà chí lớn, chính là Xantrô Panxa, kỳ diệu thay! Một giám mã giản dị và chất phác nhất trần gian, tôi xin thề và chứng nhận.
Thiếu một chút, Xantrô Panxa thành bá tước nếu như bác không là nạn nhân những xúc phạm láo xược của thế kỷ lừa lọc này khiến một con lừa cũng không thoát.
Người giám mã hiền lành cưỡi con lừa đó (xin phép nói đùa một chút), lẽo đẽo theo chân con ngựa Rôxinantê nhu mì và chủ nó.
Ôi, hy vọng hão huyền của người đời! Ngươi hứa hẹn bao điều tốt đẹp nhưng cuối cùng chỉ là bóng đen, mây khói, giấc mơ mà thôi!
El Cachiđiablô
Viện sĩ Viện hàn lâm Argamaxiia
Ghi trên mộ chí của Đôn Kihôtê
Tại đây yên nghỉ chàng hiệp sĩ bất hạnh từng bị đòn nhừ tử; trên lưng Rôxinantê, từng lang thang khắp chốn khắp nơi.
Cùng yên nghỉ bên chàng có Xantrô Panxa, con người khờ dại, giám mã trung thành nhất trong hàng giám mã.
El Tikitốc
Viện sĩ Viện Hàn lâm Argamaxiia
Ghi trên mộ chí của Đulxinêa làng Tôbôxô
Nơi yên nghỉ Đulxinêa; cái chết khủng khiếp và xấu xa đã biến tấm thân ngà ngọc của nàng thành tro bụi.
Nàng vốn dòng trâm anh thế phiệt và cũng có dáng dấp một phu nhân đài các;
Nàng là ngọn lửa của Đôn Kihôtê vĩ đại, và là niềm vinh quang của xứ sở quê hương.

Trên đây là những bài thơ còn đọc được; những bài khác bị côn trùng gặm nhấm, đã được trao lại cho một viện sĩ nghiên cứu tìm tòi. Có tin là sau bao ngày đêm lao tâm khổ tâm khổ tứ, ông này đã hoàn thành nhiệm vụ và ông định cho ra mắt độc giả những bài thơ đó trong khi chờ đợi chuyến xuất hành thứ ba của Đôn Kihôtê.

Forse altri cantera con miglior plettro [SUP]4[/SUP]
--------------------------------


1. Vì quá thương chủ, Xantrô Panxa nói ngược; lẽ ra phải nói: "Con người cứng rắn đối với kẻ kiêu ngạo và nhũn nhặn đối với người hèn mọn"
2. Xantrô muốn nói tới một trăm đồng tiền vàng lấy được trong cái rương của Carđêniô.
3. Một kiểu chữ cổ.
4. Một câu thơ trích trong tác phẩm Orlanđôgiận dữ của thi hào Ý Luđôvicô Ariôxtô, đại ý là: Một người khác kể chắc là hay hơn.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes

PHẦN THỨ HAI

Chương I

NÓI VỀ CÁCH CƯ XỬ CỦA CHA XỨ VÀ BÁC PHÓ CẠO TRƯỚC BỆNH TRẠNG CỦA ĐÔN KIHÔTÊ



Trong phần hai của cuốn truyện này, hiền sĩ Amêtê Bênêhenli kể về của xuất hành thứ ba của Đôn Kihôtê như sau: suốt gần một tháng trời, Cha xứ và bác phó cạo không gặp mặt chàng hiệp sĩ, cốt để cho chàng khỏi nhớ lại những chuyện đã qua. Tuy nhiên, hai người không quên tìm cô cháu gái và bà quản gia của Đôn Kihôtê, dặn dò họ phải lo bồi dưỡng chàng, cho ăn những món bổ tim và bổ óc vì rõ ràng hai bộ phận đó đã gây ra mọi tai họa cho chàng. Cô cháu gái và bà quản gia nói rằng họ đã làm như vậy và sẽ tiếp tục làm nữa, với tất cả lòng mong muốn và sự chăm chút, vì họ nhận xét thấy chủ họ đôi lúc tỏ ra hoàn toàn minh mẫn. Nghe thấy vậy, Cha xứ và bác phó cạo lấy làm hài lòng lắm, nghĩ rằng mình đã hành động đúng khi dùng xe bò đưa chàng hiệp sĩ bị phù phép về nhà, như đã kể trong chương cuối cùng phần thứ nhất của câu chuyện dài và chính xác này. Hai người bèn quyết định đi đến thăm chàng xem bệnh tình của chàng có thuyên giảm không, mặc dù họ nghĩ rằng điều đó hầu như không xảy ra được. Họ thống nhất với nhau tuyệt đối không đả động đến vấn đề hiệp sĩ giang hồ để tránh làm tuột những mũi khâu vết thương lúc này chưa lành hẳn.

Tới nơi, thấy chàng đang ngồi trên giường một mình, mặc một cái áo ngắn bằng vải thô màu xanh, đầu đội mũ màu mua ở Tôlêđô; người chàng khô đét, chẳng khác da thịt một cái xác ướp. Đôn Kihôtê tiếp đón Cha xứ và bác phó cạo rất niềm nở. Khi hai người hỏi thăm sức khỏe, chàng trả lời đâu ra đấy, lời lẽ rất văn hoa. Trong câu chuyện, ba người bàn tới vấn đề quốc gia đại sự. họ phê phán sự lạm quyền này, lên án sự lạm quyền nọ, cải cách tập quán này, hủy bỏ tập quán kia, mỗi người trở thành một nhà lập pháp mới, một Liguốcgô tái sinh hay một Xôlôn hiện đại [SUP]1[/SUP], và trên cái đà ấy, họ cải tổ luôn quốc gia, như thể họ đưa cả cái quốc gia đó vào lò luyện rồi rút ra một quốc gia mới khác hẳn cái cũ. Đôn Kihôtê phát biểu về các vấn đề một cách rất thông minh khiến cho hai vị giám khảo đều nghĩ rằng chàng hoàn toàn bình phục và tỉnh táo, không còn phải nghi ngờ gì nữa.

Cô cháu gái và bà quản gia cũng có mặt. Thấy Đôn Kihôtê nói năng sáng láng làm vậy, họ không ngớt lời cảm tạ Thượng đế. Đột nhiên Cha xứ từ bỏ ý định lúc trước là không đả động tới vấn đề hiệp sĩ giang hồ; ông muốn thử đến cùng xem Đôn Kihôtê đã khỏi thật hay chưa. Thế là, chuyện này sang chuyện khác, ông thuật lại một vài tin tức truyền đi từ kinh đô, trong đó có tin chắc chắn bọn Thổ Nhĩ Kỳ đã điều động xuống phía nam một hạm đội mạnh, không rõ ý định của chúng ra sao và không rõ cơn phong ba bão táp đó sẽ trút xuống đâu. Trước một sự đe dọa như vậy, khiến chúng ta hầu như năm nào cũng phải đề phòng, tất cả các nước theo đạo Kitô đã phải cầm sắn vũ khí, và Đức vua đã ra lệnh tăng cường bờ biển Napôlex, Xixilia và đảo Malta . Nghe xong, Đôn Kihôtê đáp:

- Bằng việc phòng thủ kịp thời các lãnh thổ của mình, Đức Vua đã hành động như một vị tứ rất thận trọng, tránh né bị kẻ địch đánh bất ngờ; nếu như người ta chấp nhận ý kiến của tôi, tôi sẽ khuyên người ta nên áp dụng một biện pháp phòng ngừa mà chắc là lúc này đây người ta chưa hề nghĩ tới.
Thoạt nghe như vậy, Cha xứ bụng bảo dạ: "Tội nghiệp cho Đôn Kihôtê, cầu Chúa cứu vớt ngươi; ta tưởng đâu ngươi đang từ đỉnh cao của sự điên rồ gieo mình xuống vực thẳm của sự giản đơn vậy. Cùng một ý nghĩ với Cha xứ, bác phó cạo liền hỏi Đôn Kihôtê là biện pháp phòng ngừa mà chàng cho là hay ho đó là như thế nào, hay giống như các mưu kế lẩn thẩn mà người ta thường hiến cho các vị vương hầu.

- Thưa ông phó húi, mưu kế của tôi không lẩn thẩn mà khôn ngoan kia.

- Tôi không định nói như vậy, bác phó cạo thanh minh; số là kinh nghiệm cho thấy rằng tất cả hay hầu hết những mưu kế dâng lên Đức Vua hoặc là không thể thực hiện được, hoặc là dớ dẩn, có hại cho người và cho nước nhà.

- Thế nhưng mưu kế của tôi lại không phải là không thể thực hiện được, cũng không dớ dẩn mà dễ nhất, hay nhất, hiếm nhất, gọn nhất mà một mưu sĩ có thể nghĩ ra được.

- Ngài Đôn Kihôtê hãy nói xem nào, Cha xứ bảo.

- Tôi không muốn nói ra bây giờ, Đôn Kihôtê đáp, kẻo ngày mai mưu kế của tôi lại tới các vị quân sư, rồi người ta cướp mất công lao của tôi.

- Về phần tôi, bác phó cạo nói, bây giờ cũng như sau này, trước Chúa, tôi xin thề không nói với bất kỳ ai, không nói với bất kỳ một người nào trên trái đất này điều mà ngài sẽ tiết lộ ra đây; câu thề này tôi đã học được trong lời nói đầu cuốn truyện của một cha xứ, trong đó ông ta tâu với Đức Vua tên kẻ cắp đã lấy của ông ta một trăm đôbla [SUP]2[/SUP] và con la cái nhanh nhẹn.

- Tôi không biết truyện đó, song tôi biết là lời thề có vẻ nghiêm túc, do đó tôi nghĩ rằng ông phó cạo là người đứng đắn.

- Dù ông phó không đứng đắn, Cha xứ nói, tôi cũng xin bảo lãnh cho ông ta và đảm bảo rằng trong trường hợp này, ông ta sẽ không nói nhiều hơn một người can đảm, nếu không, sẽ phải chịu nộp phạt.

- Thưa Cha, thế ai đứng ra bảo lãnh cho Cha? Đôn Kihôtê hỏi.

- Nghề nghiệp của tôi, tức là giữ bí mật, Cha xứ đáp.

- Có gì đâu, Đôn Kihôtê nói; chỉ cần Đức Vua xuống chiếu vời vào họp trong triều một ngày nào đó tất cả các hiệp sĩ giang hồ rong ruổi khắp đất nước Tây Ban Nha. Dù chỉ có nửa tá hiệp sĩ đến dự, một người trong số đó cũng đủ đập tan sức mạnh của bọn Thổ Nhĩ Kỳ. Các vị hãy nghe tôi nói và hãy đồng ý với tôi. Đâu phải là một điều gì mới mẻ khi một hiệp sĩ giang hồ dẹp tan một đạo quân gồm hai vạn tên như thể chúng chỉ có cái cổ hoặc chúng là người mã vậy. Nếu không thế, tại sao bao nhiêu chuyện chứa đầy những sự việc diệu kỳ? Lúc này đây chỉ cần có sự có mặt của hiệp sĩ trứ danh Đôn Bêlianix - một việc chỉ có hại cho tôi chứ không cho ai khác, - hoặc một trong rất nhiều hiệp sĩ của dòng họ Amađix nước Gôlơ. Nếu bây giờ có một trong những vị này sống lại và đứng ra đương đầu với bọ Thổ, chắc chắn kẻ địch sẽ gặp nguy khốn. Nhưng Thượng đế sẽ thương đến dân chúng và sẽ cử ra một người nào đó, nếu người này không được tài giỏi như hiệp sĩ giang hồ xưa kia thì ít nhất cũng không kém họ về lòng dũng cảm. Mong Chúa hiểu lòng tôi, tôi chỉ nói thế thôi.

Nghe tới đây, cô cháu gái thốt lên:

- Ôi! Trời hại tôi nếu ông cậu tôi muốn trở lại nghề hiệp sĩ giang hồ.

Đôn Kihôtê đáp:

- Ta phải chết như một hiệp sĩ giang hồ. Thà cho bọn Thổ cứ việc kéo quân lên phía Bắc hoặc xuống phía Nam , dù cho chúng có binh hùng tướng mạnh, ta nhắc lại là ta mong Chúa hiểu lòng ta.

Lúc này, bác phó cạo lên tiếng:

- Xin các ngài cho phép tôi kể một câu chuyện ngắn xảy ra ở tỉnh Xêviia. Câu chuyện rất khớp với hoàn cảnh lúc này, nên muốn kể ra đây.

Đôn Kihôtê đồng ý. Cha xứ, cô cháu gái và bà quản gia có vẻ muốn nghe.
Bác phó cạo cao hứng kể:

- Trong nhà thương điên ở Xêviia, có một anh chàng bị nhốt vào đó vì bệnh mất trí. Anh chàng này tốt nghiệp khoa tôn pháp [SUP]3[/SUP] ở Ôxuna, song dù có tốt nghiệp ở trường đại học Xalamanca, theo dư luận của số đông, anh ta vẫn cứ điên. Sau mấy năm tĩnh dưỡng, anh chàng cứ nghĩ mình đã trở lại sáng suốt và minh mẫn, và, với ý nghĩ đó, anh ta viết thư cho Đức Tổng giám mục. Bằng câu chữ hợp lý, anh ta khẩn khoản xin cha cứu anh thoát ra khỏi cảnh sống cơ cực. Bệnh của anh đã hồi phục, chẳng qua gia đình muốn chiếm đoạt tài sản của anh nên đã nhốt anh vào nhà thương điên và mong anh điên cho tới khi chết, mặc dù sự thật khác hẳn. Tin vào những lá thư với lời lẽ ý tứ khôn ngoan, Đức Tổng giám mục mới phái đến một giáo sĩ hỏi ông giám đốc nhà thương xem những điều chàng cử nhân viết cho ông có thật hay không, sau đó sẽ nói chuyện với anh, nếu anh tỏ ra tỉnh táo thì cho ra khỏi nhà thương và trả lại tự do. Giáo sĩ này tới nhà thương và được ông giám đốc cho biết là anh chàng này vẫn còn điên, nhiều lúc nói năng như một người rất tỉnh, khi tỉnh khôn ngoan bao nhiêu thì khi điên lú lẫn bấy nhiêu, cứ nói chuyện với anh ta khắc rõ. Giáo sĩ muốn thí nghiệm xem sao, bèn gặp anh chàng điên, nói chuyện với anh ta hơn một tiếng đồng hồ. Trong hơn một tiếng đó, chàng điên không hề thề thốt ra một lời nào quàng xiên mà trái lại, nói năng đâu ra đấy khiến ông ta không thể không nghĩ rằng anh ta có trí khôn như mọi người. Trong câu chuyện, chàng điên nói rằng ông giám đốc nhận quà cáp nên đã chơi xấu, bảo anh lúc điên lúc tỉnh. Nguyên nhân tai hại gây ra sự bất hạnh này là tài sản kếch xù của anh, kẻ thù của anh muốn được hưởng tài sản đó nên đã làm cho mọi người tưởng lầm và không tin rằng Thượng đế đã rủ lòng thương khiến anh từ một con vật trở lại làm người. Nói tóm lại, theo lời anh nói, ông giám đốc là một kẻ đáng nghi, gia đình anh là những người hám lợi và độc ác, còn anh thì hoàn toàn có lý. Giáo sĩ bèn quyết định dẫn anh tới chỗ ngài Đức Tổng giám mục để ngài nhìn tận mắt, sờ tận tay của sự việc này. Với ý nghĩ đó, ông đề nghị giám đốc cho trả lại quần áo mà chàng đã mặc trước khi vào nhà thương. Ông giám đốc nhắc giáo sĩ coi chừng việc mình làm vì chàng cử vẫn còn điên dại, không có điều gì phải nghi ngờ cả. Mặc cho giám đốc can ngăn, giáo sĩ vẫn không từ bỏ ý định đưa chàng cử đi. Giám đốc đành phải tuân theo vì biết đó là ý định của Đức Tổng giám mục. Thế là chàng cử xin phép giáo sĩ cho đi chào các bạn điên của chàng, ông này ngỏ ý muốn đi cùng để thăm những người điên trong nhà thương. Thế là hai người cùng một số người khác có mặt tại đó cùng đi. Tới một chuồng nhốt một người bị mắc bệnh điên khùng - lúc này đang tỉnh, không quấy phá - chàng cử nói:

- Người anh em của tôi ơi, anh có muốn dặn dò gì không? Tôi trở về nhà đây. Thượng đế đầy lòng từ bị bác ái đã trả lại trí khôn cho tôi, mặc dù tôi không xứng đáng được hưởng. Tôi đã khỏi bệnh và tỉnh táo. Đối với quyền lực của Chúa, không có việc gì là không thể làm được. Tôi đã đặt hết hy vọng và tin tưởng vào Người. Một khi Người đã đưa tôi trở lại trạng thái ban đầu, Người cũng sẽ làm như vậy đối với anh nếu anh đặt niềm tin vào Người. Tôi sẽ lo gửi quà bánh vào, anh cứ ăn tự nhiên. Vì đã qua cảnh đó, tôi nghĩ rằng tất cả các bệnh điên rồ của chúng ta đều do bụng rỗng và đầu óc không khí. Anh hãy can đảm lên . Mềm yếu trước đau khổ là hủy hoại sức khỏe và đi mau tới cái chết.

Có một bệnh nhân ở chuồng đối diện với anh chàng điên khùng, nghe được hết những lời chàng cử nói. Đang nằm tô hô trên một chiếc chiếu cũ, hắn cùng dậy lớn tiếng hỏi ai là người đã khỏi bệnh điên và được ra khỏi nhà thương. Chàng cử đáp:

- Người anh em, tôi là người được ra khỏi nhà thương; tôi không cần phải ở đây nữa và tôi hết lòng cảm tạ Thượng đế đã phù hộ cho tôi.

- Ông cử ơi, hãy liệu mồm, liệu miệng, bệnh nhân điên nói, tôi e quỷ nó lừa ông đấy. Xếp bộ giò lại và ở yên trong chuồng khỏi mất công đi ra rồi lại trở vào.

- Tôi biết chứ, chàng cử nói, tôi đã khỏi bệnh và không việc gì phải ở trong này nữa.

- Ông đã khỏi bệnh ư? Bệnh nhân điên lại nói, thôi mời ông đi đi. Trước thần Hupiter mà tôi thay quyền trên trái đất này, tôi xin thề chỉ riêng tôi cho ông ra khỏi nhà thương ngày hôm nay và coi ông là có trí khôn, thánh Xêviia sẽ bị tôi trừng trị, và sự trừng trị đó khủng khiếp đến nỗi người đời sẽ nhớ mãi trong các thế kỷ sau này, amen. Anh chàng cử quèn ngu xuẩn kia không biết rằng ta có thể làm được việc đó ư? Như ta đã nói, ta là Hupiter sấm vang. Ta có trong tay những tia chớp rực lửa mà tôi có thể thường dùng để uy hiếp và phá hủy trái đất. Nhưng ta chỉ trừng phạt cái đô thị dốt nát này bằng hình thức sau đây: trong suốt ba năm, kể từ lúc ta tuyên bố trừng phạt này, ta không làm mưa xuống Xêviia và các vùng lân cận: Mi thì tự do, lành mạnh, tỉnh táo, còn ta thì điên rồ, bệnh hoạn, bị trói buộc ư? Nếu thế, thà ta tự thắt cổ chết còn hơn sống mà làm mưa.

Mọi người xung quanh đều chú ý nghe những lời quát tháo của bệnh nhân điên; riêng anh chàng cử cứ quay về phía giáo sĩ, nắm tay áo ông và nói:

- Xin ngài đừng phiền lòng và quan tâm tới những lời tên điên rồ này vừa nói. Nếu hắn là Hupiter xuống làm mưa, tôi, Nếptunô, cha của thần nước, sẽ làm ra mưa khi tôi muốn và khi cần thiết.

Giáo sĩ đáp lại:

- Thưa ngài Nếptunô, ta không nên chọc tức ngài Hupiter; xin ngài cứ ở lại nhà thương, một ngày nào đó thuận tiện và rỗi rãi hơn, chúng tôi sẽ trở lại thăm ngài.

Ông giám đốc nhà thương và những người khác phá lên cười làm giáo sĩ đỏ cả mặt. Người ta lột quần áo chàng cử ra, chàng nằm lại nhà thương và thế là hết chuyện.

- Ông phó cạo, Đôn Kihôtê nói, phải chăng câu chuyện đó rất khớp với hoàn cảnh lúc này khiến ông không thể không kể ra đây? Hừ, ông phó húi ơi, ông phó húi ơi! Kẻ nào không nhìn qua được một cái lưới rây bột, kẻ đó không thấy gì hết. Có lẽ nào ông không biết rằng so sánh giữa trí tuệ với trí tuệ, giữa lòng can đảm với can đảm, giữa sắc đẹp với sắc đẹp, giữa dòng dõi này với dòng dõi khác đều đáng ghét và không phải là thủy thần Nếptunô, và tôi cũng không cầu mong ai coi tôi là giỏi giang một khi tôi không giỏi giang. Song, tôi ra sức làm cho thiên hạ thấy được sai lầm là không làm sống lại thời đại hạnh phúc khi hiệp sĩ đạo còn hưng thịnh. Nhưng thời đại suy tàn của chúng ta không xứng đáng được hưởng hạnh phúc to lớn như những thời đại đã qua lâu. Thuở ấy, các hiệp sĩ giang hồ gánh vác trên vai trách nhiệm giữ gìn các vương quốc, bảo vệ các tiểu thư, cứu vớt trẻ mồ côi, trừng trị những tên ngạo mạn, ban thưởng cho kẻ nghèo hèn. Những đồ trang phục bằng gấm vóc và các hàng vải đắt tiền khác mà hầu hết các hiệp sĩ đời nay khoác trên người phát ra những tiếng sột soạt át cả tiếng áo giáp của họ. Đâu còn hiệp sĩ nào ngủ giữa cánh đồng, chịu đựng mọi sự khắc nghiệt của thiên nhiên, trang bị suốt từ đầu đến chân bằng mọi thứ vũ khí. Đâu còn ai chân không rời khỏi bàn đạp, tựa mình vào ngọn thương, cố đánh lừa giấc ngủ như những hiệp sĩ giang hồ thời xưa. Đâu còn ai lặn lội trong rừng, trên núi, tới bãi biển hoang dã, sóng cả gió to, nhìn thấy trên bờ có một chiếc thuyền không chèo, không buồm, không cột, không dây, vội lao xuống với một lòng dũng cảm phi thường, phó mặc tấm thân cho những đợt sóng dữ trên biển tung lên vật xuống; thế rồi, trong lúc còn đang chống đỡ với cơn phong ba bão táp, bỗng đâu đã thấy mình cập bến cách xa nơi xuất phát trên ba ngàn dặm: lên bờ - một nơi xa lạ - gặp những chuyện không chỉ đáng ghi trên giấy mà còn phải khắc vào biển đồng bia đá. Những thời này, lười biếng thắng siêng năng, nhàn rỗi thắng cần mẫn, phi nghĩa thắng chính nghĩa, ngạo mạn thắng dũng cảm và lý thuyết thắng thực hành. Nghề vô chỉ tồn tại và phát triển rực rỡ trong thời đại hoàng kim, giữa những hiệp sĩ giang hồ. Nếu không, thử hỏi, anh dũng cảm và chính trực hơn Amađix nước Gôlơ? Ai khôn ngoan hơn Palmêria nước Anh Cát Lợi? Ai dễ dãi, nhẹ nhàng hơn Tiranđê Blancô? Ai lịch sự hơn Lixuactê nước Hy Lạp? Ai bị đâm nhiều và đâm nhiều hơn Đôn Bêlianix? Ai dũng mãnh hơn Piêrôn nước Gôlơ? Ai xông xáo hơn Phêlixmartêđô Ircania? Ai thành khẩn hơn Explandian? Ai mạo hiểm hơn Đôn Xirôhiliô đê Traxia? Ai can đảm hơn Rôđamôntê? Ai thận trọng hơn Xôbrinô? Ai quả cảm hơn Râynalđôx? Ai vô địch hơn Rolđan? Ai thanh lịch hơn Ruhêrô, ông tổ của các vị công tước xứ Pherara ngày nay, treo Turpin viết trong cuốn Vũ trụ học. Thưa Cha xứ, tất cả những hiệp sĩ kể trên cùng bao nhiêu người khác nữa mà tôi có thể kể ra đây là những trang hiệp sĩ giang hồ thuở trước, ánh sáng và vinh quang của hiệp sĩ đạo. Tôi muốn tiến cử những hiệp sĩ đó, hoặc những người tương tự. Nếu như vây, Đức Vua sẽ hài lòng và sẽ đỡ tốn kém nhiều, vì bọn Thổ Nhĩ Kỳ chỉ còn khoanh tay mà đứng nhìn. Dù rằng ông giáo sĩ không cho tôi ra, tôi cũng chẳng chịu ở trong nhà thương, nếu Hupiter không làm mưa xuống, như ông phó cạo vừa nói, tôi đây sẽ làm ra mưa lúc nào tôi muốn. Tôi nói vậy để ngài Châu Cạo Râu biết rằng tôi đã hiểu ý ngài.

Bác phó cạo nói:

- Thưa ngài Đôn Kihôtê, quả tình tôi không định nói thế. Cầu Chúa phù hộ cho tôi vì ý đồ của tôi là tốt. Ngài chớ nên phật lòng.

- Phật lòng hay không phật lòng cũng mặc tôi, Đôn Kihôtê đáp.

Lúc này, Cha xứ mới lên tiếng:

- Nghe ngài Đôn Kihôtê nói, tôi nảy ra thắc mắc, và mặc dù từ nãy giờ tôi hầu như chưa nói gì hết, tôi không muốn thắc mắc đó giày vò lương tâm tôi.

- Cha xứ là người có thẩm quyền bàn nhiều chuyện, Đôn Kihôtê đáp, cho nên ngài có thể nói lên điều thắc mắc của ngài và không nên để lương tâm bị cắn rứt.

Cha xứ bèn nói:

- Được ngài cho phép, tôi xin thưa rằng điều tôi thắc mắc là không thể nào tin được rằng tất cả cái đám hiệp sĩ giang hồ mà ngài Đôn Kihôtê vừa nhắc tới là có thật và thực sự là những người bằng xương bằng thịt trên đời này. Trái lại, tôi nghĩ tất cả những điều đó đều là chuyện tưởng tượng, hoang đường, dối trá, mê hoặc mà người kể thì tỉnh hay, nói đúng hơn, nửa tỉnh nửa mê.

- Đây là một sai lầm mà nhiều người mắc phải, Đôn Kihôtê đáp. Họ không tin rằng có những hiệp sĩ như vậy trên đời này. Rất nhiều lần, trước công chúng và trong nhiều trường hợp, tôi đã cố gắng đưa sự nhầm lẫn hầu như phổ biến này ra ánh sáng của sự thật; có lúc tôi không đạt được ý muốn, có lúc đạt được khi tôi biết dựa vào sự thật, một sự thật hiển nhiên đến nỗi tôi muốn nói rằng chính mắt tôi đã nhìn thấy Amađix nước Gôlơ, một con người có thân hình cao to, mặt trắng, râu tuy đen nhưng chững chạc, mắt vừa dịu dàng vừa nghiêm nghị, nói năng ngắn gọn, ít khi nổi nóng và chóng nguôi giận. Cũng như tôi đã tả hình dáng chàng Amađix, tôi nghĩ là tôi có thể tả ra đây tất cả những hiệp sĩ giang hồ trong các sách vở trên đời này. Căn cứ vào những điều trong sách, những chiến công và tính tình của các hiệp sĩ đó, và bằng những suy nghĩ chín chắn, ta có thể đoán được khuôn mặt, màu da và hình dáng của họ.

Bác phó cạo nói:

- Thưa ngài Đôn Kihôtê, theo ngài tên khổng lồ Morgantê cao tới mức nào?

Đôn Kihôtê đáp:

- Có những ý kiến khác nhau nói rằng có hoặc không có người khổng lồ trên đời này. Thế nhưng Thánh kinh - một quyển sách không sai một nguyên tử về sự thật - chứng minh rằng có người khổng lồ và kể rằng khổng lồ Gôliax mình cao bảy tầm rưỡi, tức là cao quá khổ. Trên đảo Xixilia, người ta tìm thấy những bộ xương đùi và xương vai rất to chứng tỏ rằng chủ nhân của nó phải là những người khổng lồ cao như những tòa tháp lớn. Đó là một sự thật đã được chứng minh bằng hình học. Tuy nhiên, tôi cũng không dám nói chắc về tầm vóc của Morgantê, mặc dù tôi nghĩ rằng tên khổng lồ này cũng không cao to lắm. Sở dĩ tôi nghĩ vậy vì trong sách có ghi rõ những hoạt động của y và nói rằng y hay ngủ dưới mái nhà, một khi có nhà chứa được y, chứng tỏ tầm vóc của y không đến nỗi quá khổ.

- Đúng vậy, Cha xứ nói.

Thích nghe những lời lẽ ngông cuồng của Đôn Kihôtê, của lại hỏi chàng về mặt mũi của Râynalđôx đê Môntalban, của Rolđan và của mười hai vị đình thần nước Pháp, vì tất cả họ đều là hiệp sĩ giang hồ.

- Về Râynalđôx, tôi dám chắc mặt chàng to ngang, da dẻ hồng hào, mặt lồi và đảo nhanh, tính tình hay giận hay hờn, giao du với lũ súc sinh vô lại. Về Rolđan - mà sách còn gọi là Kôtôlanđô hoặc Orlanđô, - tôi nghĩ và khẳng định là người tầm thước, vai nở, chân đi hơi vòng kiềng, nước da nâu, râu hung đỏ, người đầy lông, mắt gườm gườm, tuy ít lời nhưng lại rất lịch thiệp và có giáo dục.

- Theo ngài tả thì Rolđan không được hào hoa phong nhã lắm, Cha xứ nói, cho nên không lấy gì làm lạ là nàng Anbêlica xinh đẹp chê và bỏ rơi chàng để đi theo cậu trai Mêđôrô dịu dàng và bỏ chàng Rolđan cục mịch.

Đôn Kihôtê đáp:

- Thưa cha, Anbêlica là một cô gái trụy lạc, bê tha, tính khí thất thường, nổi tiếng trên đời này về sắc đẹp nhưng lại có nhiều hành vi ngông cuồng; ả chê bai các vị vương tôn công tử, các chàng trai dũng cảm và ý nhị để đi theo một tên thị đồng tốt mã nhưng nghèo xác xơ, nhớ có lòng chung thủy đối với bạn bè mà còn được người đời biết tới. Sau khi ả dại dột hiến thân cho tên Mêđôrô này, một điều không tốt đẹp cho lắm, thi sĩ nổi danh Arriôxtô đã không dám và không muốn ca ngợi sắc đẹp của ả nữa và phải chấm dứt bằng hai câu thơ:
Nàng lên ngôi báu ra sao
Một người khác kể tiếp vào hay hơn.
Hai câu trên đây chẳng khác một lời tiên đoán, vì người ta còn gọi thi nhân là vatê nghĩa là thầy bói [SUP]4[/SUP]. Quả nhiên sau đó một thi sĩ miền nam Anđaluxin đã làm ra một bài thơ khóc than những giọt nước mắt của Anbêlica, và thi sĩ số một miền Caxtiia đã ca ngợi sắc đẹp của ả.

- Thưa ngài Đôn Kihôtê, bác phó cạo hỏi, ngoài những thi sĩ ca ngợi Anbêlica, ngài có biết ai làm thơ châm biếm nàng không?

- Tôi nghĩ rằng nếu Xancripantê hay Rolđan biết làm thơ, Đôn Kihôtê đáp, họ sẽ đả kích cô ả. Theo lẽ tự nhiên, các thi sĩ làm thơ trào phúng để trả thù một khi bị tình nhân, dù là tình nhân tưởng tượng hay có thật hoặc bị những cô nàng mà họ tôn thờ là chủ nhân tâm hồn ghét bỏ họ, một sự trả thù không xứng đáng với những tấm lòng rộng lượng. Tuy nhiên, cho tới nay tôi chưa hề thấy có một câu thơ nào xúc phạm Anbêlica, con người đã làm đảo lộn hoàn cầu.

- Kỳ diệu thay! Cha xứ nói.

Đến đây, bỗng nhiên nghe tiếng bà quản gia và cô cháu gái tru tréo ngoài sân - họ đã bỏ ra ngoài từ lúc nào - ba người bèn chạy ra.


--------------------------------
1. Licuốcgô và Xôlôn là hai nhà làm pháp luật nổi tiếng thời Hy Lạp cổ xưa.
2. Đồng tiền cổ.
3. Pháp luật của tôn giáo.
4. Từ Tây Ban Nha vatê có hai nghĩa: Thầy bói và nhà thơ.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes

Chương II

NÓI VỀ CUỘC ĐẤU KHẨU NỔI TIẾNG GIỮA XANTRÔ PANXA VỚI CÔ CHÁU GÁI VÀ BÀ QUẢN GIA CỦA ĐÔN KIHÔTÊ CÙNG NHỮNG SỰ VIỆC LÝ THÚ KHÁC


Truyện kể rằng Đôn Kihôtê, Cha xứ và bác phó cạo nghe có tiếng ồn ào ở bên ngoài. Số là cô cháu gái và bà quản gia đang đấu khẩu với Xantrô, một bên nằng nặc đòi vào gặp Đôn Kihôtê, một bên cấm cửa không cho.

- Tên cầu bơ cầu bất này muốn vào nhà ta làm gì? Thôi mời ông anh về nhà đi. Chính ông anh đã lôi kéo, rủ rê, đưa ông chủ ta tới những nơi hang cùng ngõ hẻm.

Xantrô đáp lại:

- Mụ quản gia quỷ sứ kia, kẻ bị rủ rê, lôi kéo, bị đưa đến những nơi hang cùng ngõ hẻm chính là tôi chứ không phải ông chủ mụ đâu. Chính ông ta đưa tôi đi khắp hoàn cầu đấy. Các người đánh giá sai một nửa rồi. Chính ông ta dụ dỗ, lôi kéo tôi bỏ nhà bỏ cửa bằng cách hứa cho tôi một hòn đảo mà nay tôi vẫn chờ.

- Mong sao những hòn đảo chết tiệt đó đè chết ngươi đi, tên Xantrô đáng nguyền rủa kia! Cô cháu gái nói. Mà hòn đảo là cái gì kia chứ? Có phải là của ăn được không, tên phàm ăn kia?

- Không phải là của để ăn, Xantrô đáp lại, mà là để cai trị và quản lý, còn hơn cả bốn thành thị và bốn vị thị trưởng hợp lại kia.

- Dù thế nào đi nữa, bà quản gia nói, mi cũng không được vào trong này, hỡi cái túi chứa đầy gian ác kia! Hãy về cai trị cái nhà mi và cày mảnh đất của mi, đừng có tơ tưởng đến đảo to đảo nhỏ nữa.

Nghe ba người đấu khẩu, Cha xứ và bác phó cạo lấy làm khoái trá lắm. Trái lại, Đôn Kihôtê chỉ lo Xantrô dốc hết ruột gan đâm nói hớ, để lộ những điều bất lợi cho mình, bèn lên tiếng gọi bác, bắt cô cháu gái và bà quản gia không được nói nữa và để cho bác vào.Xantrô bước vào nhà, Cha xứ và bác phó cạo cáo từ ra về, trong lòng thất vọng về bệnh trạng của Đôn Kihôtê vì thấy đầu óc chàng vấn đầy rẫy những ý nghĩ ngông cuồng và những chuyện hiệp sĩ ngay ngô. Cha xứ nói với bác phó:

- Đấy, rồi bác xem, đến một lúc nào đó, chàng quý tộc của chúng ta sẽ lại ra đi, sống cuộc đời nay đây mai đó.

- Tôi cũng tin là như vậy, bác phó cạo đáp; tuy nhiên, sự điên rồ cuộc chàng hiệp sĩ không đáng ngạc nhiên bằng sự ngây thơ của anh giám mã. Anh ta tin một cách lạ lùng sẽ được hòn đảo, và tôi cho rằng có giảng giải thế nào đi chăng nữa cũng không lôi được hòn đảo ấy ra khỏi óc anh ta đâu.

- Chúa cứu vớt họ, Cha xứ nói. Ta hãy chờ xem những sự ngông cuồng của chàng hiệp sĩ và anh giám mã sẽ đi tới đâu. Tưởng như cả hai người cùng dập theo một khuôn vậy, và nếu như không có những hành vi ngây ngô của tớ phối hợp thì sự điên rồ của chủ không đáng một đồng xèng.

- Đúng thế, bác phó cạo nói. Tuy nhiên, tôi muốn biết lúc này hai người đang bàn bạc với nhau chuyện gì.

Cha xứ đáp:

- Tôi tin là sau đây cô cháu gái và bà quản gia sẽ kể lại cho chúng ta nghe. Họ chẳng chịu bỏ qua việc này đâu.

Trong khi đó, Đôn Kihôtê trở về phòng cùng với Xantrô. Khi chỉ có hai người, chàng nói với giám mã như sau:

- Anh Xantrô, ta rất phiền lòng vì anh đã nói rằng chính ta là người đã lôi anh ra khỏi túp lều của anh mặc dù anh biết rằng chính ta cũng chẳng ngồi trong nhà ta; chúng ta đã cùng bỏ nhà và cùng đi với nhau khắp chốn khắp nơi. Cả hai chúng ta cùng chung một số phận, cùng chịu một sự may rủi. Nếu như anh có bị một lần tung lên vật xuống thì ta bị đòn nhừ tử hàng trăm lần, đấy là điểm ta hơn anh.

- Điều này đúng thôi, Xantrô đáp, vì ngài nói rằng các hiệp sĩ giang hồ gặp nhiều rủi do hơn những giám mã của họ.

- Xantrô, anh nhầm rồi, Đôn Kihôtê nói. Phương ngôn có câu: quando caput dolet... [SUP]1[/SUP], vân vân.

- Tôi chỉ biết tiếng mẹ đẻ thôi, Xantrô đáp.

- Ta muốn nói, khi cái đầu đau, toàn thân cũng đau. Một khi ta là chủ anh thì ta là cái đầu của anh, còn anh là cái thân của ta vì anh là đầy tớ của ta. Bởi lẽ đó, khi ta đau, tất nhiên anh phải đau, và khi anh đau ta cũng đau.

- Chắc là phải như vậy, Xantrô nói, thế nhưng khi người ta tung tôi lên - tức là tung cái thân lên - thì cái đầu của tôi lại ở bên kia bức tường, nhìn tôi bay bổng trên trời mà không hề cảm thấy đau đớn gì [SUP]2[/SUP]. Một khi thân đã phải chịu đau cái đau của đầu thì đầu cũng phải chịu đau cái đau của thân chứ.

- Phải chăng anh muốn nói rằng ta không cảm thấy đau đớn gì khi anh bị một bọn người tung lên trời? Nếu anh định nói vậy thì đừng nói nữa và chớ nghĩ như thế nữa, bởi vì lúc đó ta cảm thấy tinh thần của ta còn đau đớn hơn cả thể xác của anh. Nhưng thôi, lúc này hãy tạm gác chuyện đó sang một bên, sẽ có lúc chúng ta đánh giá lại cho thật đúng. Bây giờ, anh bạn Xantrô hãy trả lời ta: Trong vùng này, người ta nói gì về ta? Kẻ thứ dân, các nhà quý tộc, các hiệp sĩ có ý kiến về ta ra sao? Họ nói gì về lòng dũng cảm, về những chiến công và phong thái lịch thiệp của ta? Họ bàn bạc những gì khi thấy ta có ý định làm sống lại và trao trả cho thiên hạ hiệp sĩ đạo đã bị lãng quên? Xantrô, cuối cùng ta muốn anh nói lại những gì anh đã nghe thấy xung quanh những vấn đề trên. Và anh nói thật đúng, hay cũng không nói hơn, dở cũng không nói kém. Người đầy tớ trung thành phải cho chủ biết đúng sự thật, không vì xu nịnh mà nói tăng lên, cũng không vì xu nịnh hão huyền mà nói bớt đi. Xantrô, ta báo cho mà biết: nếu các ông hoàng bà chúa được nghe tận tai sự thật trần trụi, không ngụy trang bằng những lời lẽ phỉnh nịnh, các thế kỷ khác sẽ không sao bì kịp thế kỷ này, và các thời đại khác đều là thiết khí cả. Riêng thời đại của chúng ta mới là hoàng kim. Xantrô, anh phải làm theo lời răn đó, phải thực bụng nói cho ta nghe sự thật về những điều ta vừa hỏi mà anh nắm được.

- Thưa ngài, tôi rất vui lòng làm việc đó, Xantrô đáp, với điều kiện ngài không nổi khùng trong lúc nghe, vì tôi muốn nói toạc ra, thấy sao nói vậy, không che đậy gì hết.

- Tuyệt nhiên ta sẽ không nổi khùng, Đôn Kihôtê đáp, Xantrô, anh có thể nói một cách tự do không phải quanh co chút nào.

- Điều thứ nhất tôi muốn nói là kẻ thứ dân cho là ngài điên rồ đến tột độ, còn tôi ngốc nghếch của không kém. Các nhà quý tộc nói rằng ngài không hề biết thân biết phận, tự tôn là Đôn [SUP]3[/SUP] và tự gán cho mình là hiệp sĩ, hiệp sĩ mà chỉ có bốn gốc nho và vài chục mẫu ruộng quèn, ăn chẳng đủ no, mặc chẳng đủ ấm. Còn các hiệp sĩ thì nói rằng họ không muốn chơi với các nhà quý tộc, nhất là có những vị chỉ đáng xách dép, quen đánh giầy bằng muội và vá bít tất đen bằng mụn xanh.

- Điều đó không can hệ đến ta, Đôn Kihôtê nói, vì quần áo ta luôn tề chỉnh, không bao giờ vá, rách thì có thể nhưng do vũ khí chứ không phải vì thời gian.

Xantrô nói tiếp:

- Về lòng dũng cảm, phong thái lịch thiệp, những chiến công và ý định của ngài, có những ý kiến khác nhau. Người nói: "Điên nhưng ý nhị"; kẻ bảo: "Dũng cảm nhưng đen đủi"; lại có người bảo: "Lịch thiệp nhưng không hợp thời", và họ bàn ra tán vào, moi móc nhưng cái xấu của ngài và của tôi.

- Anh Xantrô này, Đôn Kihôtê nói, người có đạo đức cao ở đâu cũng bị ghét bỏ. Rất ít hoặc không có ai trong số những danh nhân trước đây không bị những kẻ độc mồm nói xấu. Huliô Xêxar, một vị tướng cực kỳ dũng cảm và thận trọng, mang tiếng là một con người nhiều tham vọng, y phục và phẩm hạnh có phần không được sạch sẽ, trong sạch. Alêhanđrô, được mệnh danh là Vĩ đại vì những chiến công của mình, bị chê trách là một kẻ đam mê rượu chè. Về Êrculêx, con người đã lập được nhiều kỳ công, bị thiên hạ gán cho tội háo sắc và nhu nhược. Về Đôn Galaor, anh của Amađix nước Gôlơ, người ta đồn là tính tình quá hay gây gổ, còn em chàng thì lại mau nước mắt. Anh Xantrô ạ, trong khi người tốt phải chịu biết bao điều vu khống, những lời nói xấu về ta có thể bỏ ngoài tai nếu như không còn gì ngoài những điều anh đã kể.

- Ấy chết, bây giờ tôi mới nói phần chính! Xantrô kêu lên.

- Sao, còn nữa ư? Đôn Kihôtê hỏi lại.

- Còn khúc đuôi mới khiếp, Xantrô nói. Những điều tôi vừa kể ra chưa thấm vào đâu; nhưng nếu ngài muốn biết hết những lời nói xấu về ngài, lát nữa tôi sẽ dẫn lại đây một số người có thể kể cho ngài thật tường tận, không thiếu một chữ. Số là tối qua, con trai ông Bartôlômê Caraxcô trở về làng. Cậu ta học ở Xalamanca, vừa đỗ tú tài. Tôi đến chào và được cậu nói cho biết là cuộc đời của ngài đã được viết thành sách, với tên là Đôn Kihôtê, nhà quý tộc tài ba xứ Mantra, rằng trong sách có nói tới tôi và gọi đích danh Xantrô Panxa, tới bà Đulxinêa làng Tôbôxô cùng nhiều chuyện khác mà chỉ có thầy trò ta biết thôi. Nghe xong, tôi phát sợ phải làm dấu, không hiểu vì sao sử gia viết sách lại có thể biết được.

Đôn Kihôtê nói:

- Xantrô, ta đảm bảo với anh tác giả viết về cuộc đời chúng ta phải là một pháp sư. Đối với những người này, một khi họ đã muốn viết về ai thì không có cái gì mà họ không biết.

- Đúng là một pháp sư rồi, Xantrô nói, vì theo lời cậu tú Xanxôn Caraxcô - tên người con trai tôi vừa nói ở trên, - tác giả quyển sách đó là Xiđê Amêtê Bêrenhêna.

- Đó là tên một người Môrô, Đôn Kihôtê đáp.

- Chắc thế, Xantrô nói, vì tôi nghe hầu hết người Môrô đều thích ăn cà.

- Xantrô, anh nhầm đấy thôi, Đôn Kihôtê nói; tiếng Ẳ Rập Xiđê là biệt danh và có nghĩa là hiền sĩ.

- Có lẽ, Xantrô nói, nhưng nếu ngài muốn tôi dẫn cậu ta đến đây, tôi sẽ đi tìm ngay.

- Anh bạn ấy sẽ làm cho ta vui thích, Đôn Kihôtê nói; điều anh vừa tiết lộ khiến ta hồi hộp, và ta sẽ ăn không biết ngon chừng nào chưa được nghe hết chuyện.

- Nếu vậy, tôi xin đi tìm cậu ta, Xantrô đáp.

Rồi bác giã từ chủ đi tìm cậu tú. Chỉ một lát sau, bác đã trở lại cùng với Xanxôn Caraxcô, và một cuộc hội đàm vô cùng lý thú diễn ra giữa ba người.



--------------------------------
1.
Tiếng Latin, có nghĩa là khi cái đầu đau...
2. Xantrô nhắc lại nỗi bất hạnh của mình khi bị một bọn người tung lên vật xuống - chương XVII, Tập I.
3.
Dưới thời Xervantex, chỉ một số ít người thuộc dòng dõi đại quý tộc mới được mang thêm chữ Đôn vào tên mình.
 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes

Chương III

NÓI VỀ CUỘC ĐÀM THOẠI TỨC CƯỜI GIỮA ĐÔN KIHÔTÊ, XANTRÔ, PANXA, VÀ CẬU TÚ XANXÔN CARAXCÔ



Trong khi chờ mong cậu Tú Caraxcô tới cho nghe những chuyện về mình ghi trong sách như Xantrô vừa cho biết, Đôn Kihôtê trầm ngâm suy nghĩ. Chàng không thể nào tin được rằng cuốn sách đó đã ra đời. Một khi lưỡi gươm của chàng chưa ráo máu những kẻ thù bị chàng giết, làm sao có thể in thành sách những chiến công lớn lao mà chàng đã giành được trong suốt cuộc đời hiệp sĩ của mình. Tuy nhiên, chàng cho rằng có một pháp sư nào đó, vì yêu hay ghét chàng, dùng pháp thuật in thành sách để đề cao và nâng những chiến công lên trên những chiến công lừng lẫy nhất của ngành hiệp sĩ giang hồ - nếu pháp sư đó là bạn, - hoặc lu mờ và hạ thấp những chiến công đó xuống dưới những hành động xấu xa nhất của một tên giám mã thấp hèn - nếu pháp sư đó là thù.

"Tuy nhiên, Đôn Kihôtê tự nhủ, chưa có ai viết về những chiến công của các giám mã, và nếu cuốn sách về hiệp sĩ giang hồ này có thật, chắc nó phải hùng hồn, xuất chúng, danh tiếng, tuyệt diệu và chính xác". Nghĩ vậy, chàng thấy yên tâm đôi chút. Nhưng rồi chàng lại băn khoăn khi nghĩ rằng tác giả người Môrô vì mang tên Xiđê, mà đối với dân Môrô thì không thể hy vọng có sự thật vì bọn họ đều là những kẻ lừa lọc, dối trá và hay bóp méo sự việc. Chàng lo ngại người ta viết về mối tình của chàng một cách tục tĩu, làm tổn hại tới tấm lòng trong trắng của nàng Đulxinêa làng Tôbôxô; chàng muốn người ta viết về mối tình chung thủy của chàng đối với nàng, nó khiến chàng đã coi khinh các bà hoàng bà chúa cùng các công nương và kiềm chế được những ham muốn của con người. Còn đang nghĩ quanh quẩn thì Xantrô và Caraxcô tới. Đôn Kihôtê đón tiếp Caraxcô rất lịch sự.

Tuy mang tên Xanxôn [SUP]1[/SUP], cậu Tú không to lớn lắm nhưng lại rất tinh nghịch, nước da tai tái mà rất thông minh, tuổi trạc hai mươi tư, mặt tròn, mũi tẹt, mồm rộng, rõ ràng một anh chàng láu tôm láu cá, thích trêu chọc. Ta hãy xem đây thì biết: thoạt thấy Đôn Kihôtê, cậu ta quỳ ngay xuống trước mặt, mồm nói:

- Xin ngài Đôn Kihôtê xứ Mantra cao cả đưa tay cho tôi hôn. Với bộ phẩm phục mà tôi đang khoác trên người - mặc dù tôi mới chỉ có bốn phẩm chức đẩu - tôi dám nói rằng ngài là một trong những hiệp sĩ giang hồ lừng danh nhất từ trước kia cho tới mãi sau đây trên quả địa cầu này. Quý hóa thay hiền sĩ Amêtê Bênêhêli đã viết ra cây chuyện về những chiến công của ngài, càng quý hóa con người hiếm có đã dịch cuốn sách đó từ tiếng Ẳ Rập sang tiếng Tây Ban Nha tầm thường của chúng ta.

Đôn Kihôtê đỡ cậu Tú dậy và nói:

- Vậy ra cuốn sách về cuộc đời tôi có thật do một pháp sư Môrô soạn ư?

- Thưa ngài, hẳn là có thật, Xanxôn đáp. Tôi biết chắc là tới hôm nay đã in được trên mười hai ngàn cuốn sách đó, nếu không, xin hãy hỏi Bồ Đào Nha, Barxêlôna và Valenxia là những nơi đã in. Lại có tin rằng Ambêrex [SUP]2[/SUP] cũng đang in. Riêng tôi nghĩ rằng không có nước nào không dịch, vì cuốn sách đó được dịch ra các thứ tiếng.

Nghe đến đây, Đôn Kihôtê nói:

- Một trong những điều làm cho một con người có đạo đức cao cả hài lòng nhất là thấy mình được nổi danh trong thiên hạ và được ghi tên tuổi vào sử sách. Tôi nói là được nổi danh, vì nếu ngược lại thì thà chết còn hơn.

- Nếu vấn đề là tiếng tăm và nổi danh, cậu Tú nói, tôi dám chắc ngài là người đứng đầu trong cả đám hiệp sĩ giang hồ, vì rằng người Môrô viết cuốn sách đó bằng tiếng Ẳ Rập cũng như người Kitô giáo dịch ra tiếng Tây Ban Nha đều cố gắng tả đúng sự thật vẻ duyên dáng của ngài, tinh thần dũng cảm trước gian nguy, lòng kiên trì trong hoạn nạn, tinh thần chịu đựng những nỗi bất hạnh và những đau đớn về thể xác, mối tình thanh khiết và mực thước giữa ngài và bà Đônha Đulxinêa làng Tôbôxô.

Nghe thấy vậy, Xantrô Panxa bảo:

- Tôi chưa hề nghe thấy gọi bà Đulxinêa là Đônha mà chỉ gọi là bà Đulxinêa làng Tôbôxô thôi. Về điểm này, sách viết sai đấy.

- Điều ấy không quan trọng, Caraxcô đáp.

- Tất nhiên là không quan trọng, Đôn Kihôtê tiếp lời. Thế nhưng, xin ông Tú cho hay, trong cuốn sách đó, người ta nói nhiều tới thành tích nào của tôi?

- Về điểm này, cậu Tú đáp, có nhiều ý kiến khác nhau cũng như có nhiều nhận thức khác nhau. Có người nhắc tới những chiếc cối xay gió mà ngài tưởng là những Briarêô [SUP]3[/SUP] và những tên khổng lồ; có người lại nhắc tới chuyện những cái chày nện dạ [SUP]4[/SUP]; người này thích tả hai đạo quân sau đó biến thành hai đàn cừu [SUP]5[/SUP]; kẻ khác thích chuyện khiêng người chết đi chôn ở Xêgôvia [SUP]6[/SUP]; có người nói chuyện phóng thích cho đám tội nhân hay hơn cả [SUP]7[/SUP]; lại có người cho rằng không có gì hay bằng câu chuyện về hai ông thầy tu khổng lồ dòng thánh Bênitô và cuộc đấu võ với chàng hiệp sĩ dũng cảm ở tỉnh Vixcaia [SUP]8[/SUP].

Xantrô nói chen vào:

- Xin cậu Tú cho biết trong sách có nói tới đám lái la ở Iangca khi thấy chú Rôxinantê của chúng ta định chơi ngông không [SUP]9[/SUP]?

- Ông pháp sư không bỏ sót chuyện nào trong lọ mực, Xanxôn đáp. Ông ta nói hết, thuật lại hết, kể cả chuyện Xantrô nhào lộn trong cái khăn trải giường [SUP]10[/SUP].

- Tôi không nhào lộn trong cái khăn trải giường mà lên trời mặc dù tôi chẳng muốn tí nào, Xantrô nói.

- Theo tôi nghĩ, Đôn Kihôtê nói, cuộc đời người ta có thăng, có trầm, nhất là cuộc đời các hiệp sĩ không bao giờ vẹn toàn cả.

- Tuy nhiên, cậu Tú đáp lại, có những bạn đọc muốn rằng tác giả và dịch giả cuốn sách đó đừng nhắc quá nhiều tới những trận đòn mà ngài Đôn Kihôtê phải chịu đựng trong những cuộc đọ sức.

- Việc đó có thật, Xantrô nói.

- Muốn cho công bằng thì không nên nhắc tới làm gì, Đôn Kihôtê nói. Hà tất phải viết những chuyện không làm thay đổi hoặc giảm sút sự chính xác của cuốn sách mà lại có hại cho nhân vật chính ở trong truyện. Chắc Ênêax không quá hiếu thảo như Virhiliô đã tả, cũng như Ôđixê không quá thận trọng như dưới ngòi bút của Ômêrô.

- Đúng vậy, Xanxôn nói, tuy nhiên làm thơ khác với viết sử; khi kể hoặc ca ngợi một sự việc, nhà thơ không nhất thiết phải nói đúng sự thật mà có thể lý tưởng hóa, còn sử gia khi viết không được lý tưởng hóa mà phải trung thực, không thêm bớt một điều gì.

- Nếu ông tác giả Môrô này viết đúng sự thật, Xantrô đáp, chắc chắn là trong số những roi đòn của ông chủ tôi có cả phần của tôi, vì mỗi khi hai vai ông chủ tôi bị đòn thì khắp người tôi cũng ăn đòn. Nhưng ta không nên lấy thế làm lạ vì, như ông chủ tôi đã bảo, khi cái đầu đau đớn thì toàn thân cũng phải đau.

- Đồ quỷ quái, Đôn Kihôtê nói. Khi anh muốn, anh cũng có trí nhớ đấy.

- Dù tôi muốn quên những ngọn roi vọt đi chăng nữa, vết tích còn in trên xương sườn sẽ còn luôn nhắc nhở tôi, Xantrô nói.

- Im đi Xantrô, Đôn Kihôtê bảo; chớ ngắt lời ông Tú. Xin ông Tú bỏ qua và hãy nói tiếp những điều về tôi trong cuốn sách đó.

- Về tôi nữa, Xantrô nói, vì nghe đồn tôi cũng là một trong những dân vật chính của cuốn sách.

- Nhân vật chứ, không phải dân vật, anh bạn Xantrô ạ, Xanxôn chữa.

- Lại thêm một ông hay bắt bẻ chữ nghĩa! Xantrô nói. Nếu vậy, xin mời; cứ thể kể hết đời cũng không hết.

- Trời hại tôi nếu bác không phải là nhân vật thứ hai trong sách, cậu Tú đáp. Có người thích nghe bác nói còn hơn nghe nhân vật chính cơ. Lại có người nói rằng bác quá nhẹ dạ khi nghĩ rằng chắc chắn được cai trị một hòn đảo mà ngài Đôn Kihôtê đây sẽ trao cho.

- Ta không nên bi quan, Đôn Kihôtê bảo. Xantrô càng có tuổi càng giàu kinh nghiệm và sẽ có đủ năng lực cộng với sự khôn khéo để cai trị hòn đảo mà lúc này anh ta chưa làm chủ.

- Lạy Chúa, Xantrô nói, tôi ngần này tuổi đầu còn chưa được cai trị một hòn đảo thì chắc đến khi bằng tuổi Matuxalêm [SUP]11[/SUP] cũng chưa được đâu. Có điều tai hại là cái hòn đảo ấy ở đâu, tôi cũng chẳng biết nữa. Riêng tôi chẳng thiếu đầu óc để cai trị nó.

- Xantrô, hãy nhờ Chúa phù hộ cho, Đôn Kihôtê nói. Mọi việc rồi sẽ tốt lành, có khi vượt qua cả lòng mong mỏi của anh. Lá trên cây không rung động nếu Chúa không muốn.

- Đúng vậy thay, cậu Tú nói; nếu Chúa muốn, Xantrô sẽ có cả ngàn hòn đảo để cai trị, nói chi một hòn.

- Tôi thấy vùng này có khối thống đốc không với tới gót giày của tôi, Xantrô nói. Ấy thế mà họ cũng được kêu bằng lãnh chúa và cũng được ăn bằng đĩa bạc đấy.

- Những vị đó không làm thống đốc ở đảo mà ở những nơi dễ cai trị, Xanxôn đáp. Làm thống đốc ở đảo, ít ra cũng phải biết văn phạm.

- Tôi chẳng biết văn phạm, Xantrô nói. Nhưng thôi, ta hãy xếp những vấn đề đó lại và để Chúa định liệu cho; Người sẽ đưa tôi đến một nơi, ở đó tôi phục vụ người tốt nhất. Bây giờ, tôi xin thưa với ông Tú Xanxôn Caraxcô rằng tôi vô cùng khoái trá thấy rằng tác giả đã không làm nhàm tai độc giả khi viết về tôi. Tôi xin lấy danh dự của một giám mã mà nói rằng nếu ông ta nói ra những điều không đúng về một người có đạo gốc như một đây, tôi sẽ gào to tới mức thằng điếc cũng phải nghe thấy.

- Họa là bác có tài thánh, Xanxôn nói.

- Tài thánh hay không, mặc tôi, Xantrô nói; con người ta phải thận trọng khi nói hoặc viết về một nhân vật nào, đừng có viết lung tung, không suy nghĩ.

- Một trong những khuyết điểm của tác giả là đã lồng vào cuốn sách Truyện anh chàng hiếu kỳ khờ dại, cậu Tú nói. Không phải là chuyện đó dở hoặc kể không hay mà là đặt không đúng chỗ và không ăn nhập gì với cuộc đời của ngài Đôn Kihôtê.

- Tôi đánh cuộc là thằng chó đẻ ấy kể rặt những chuyện đầu Ngô mình Sở, Xantrô nói.

Đôn Kihôtê có ý kiến:

- Tôi cho rằng kẻ viết sách về tôi không giỏi giang gì mà là một tên ba hoa, ngu xuẩn, viết mà chẳng biết mình viết gì, được tới đâu hay tới đó, giống như Orbahêna, họa sĩ tỉnh Ubêđa vậy. Khi có người hỏi vẽ gì, ông ta đáp: "Để xem giống cái gì". Có lần ông ta vẽ một con gà trống, trông chẳng ra gà, phải ghi thêm bằng chữ Gôtích [SUP]12[/SUP] ở dưới bức vẽ: "Đây là con gà trống". Chắc rằng cuốn sách viết về tôi cũng vậy, cần phải có thuyết minh mới hiểu nổi.
- Không phải thế đâu, Xanxôn đáp; sách kể rành mạch, không có gì là khó hiểu cả. Trẻ con cũng giở ra xem, con trai con gái đều đọc, người lớn xem tới đâu hiểu tới đó, ông già bà cả tấm tắc khen. Tóm lại, mọi người, mọi lớp đều đọc, đều biết, đều ham, đến nỗi trông thấy một con ngựa gầy nào là người ta lại bảo: "Đây là Rôxinantê". Thích đọc nhất là các chú thị đồng, tại nơi tiền sảnh của các lãnh chúa đều có cuốn Đôn Kihôtê; người này vừa đặt cuốn sách xuống, người khác đã cầm lên ngay; người hỏi mượn, người giằng lấy. Thật là một cuốn sách giải trí và vô hại nhất từ xưa tới giờ vì trong đó không hề thấy một lời nói dối trá hoặc một ý tưởng xằng bậy nào.

- Không viết như vậy tức là không viết sự thật, Đôn Kihôtê nói, mà chỉ viết những lời dối giả. Những sử gia nào không tôn trọng sự thật đáng phải chịu tội chết thiêu như những kẻ làm bạc giả. Tôi cũng không biết tại sao tác giả đi tìm những chuyện đâu đâu trong lúc có bao nhiêu điều đáng viết về tôi. Chắc ông ta muốn làm theo câu phương ngôn: "Cứ ăn rơm và cỏ khô cũng no bụng" chứ gì? Thực ra, chỉ cần giới thiệu những ý nghĩ, những lời than thở, những giọt nước mắt, những mong ước tốt đẹp và những cuộc đọ sức của tôi cũng đã được một pho sách lớn bằng tất cả những tác phẩm của TôXantrôađô gộp lại. Thưa ông Tú, theo tôi hiểu, muốn viết sử và sách, bất kỳ loại nào, cần phải có một suy xét kỹ lưỡng và một tri thức già giặn. Những bộ óc lớn mới biết nói năng, viết lách một cách ý nhị. Trong một vở kịch, khó nhất là vai thằng ngốc, ai nghĩ rằng đóng vai đó đơn giản sẽ thất bại. Lịch sử là một cái gì đó thiêng liêng vì nó đòi hỏi sự thật, và ở đâu có sự thật ở đó có Chúa. Ấy thế mà có những kẻ viết sách một cách bừa bãi, cẩu thả.

- Một cuốn sách dở đến đâu cũng chứa đựng một chút gì hay ho, cậu Tú nói.

- Tất nhiên, Đôn Kihôtê đáp, thế những có nhiều người xứng đáng được nổi danh vì những tập bản thảo của mình bỗng dưng bị lu mờ khi đưa in những tập sách đó.

- Là vì người ta có thể đọc kỹ những sách đã xuất bản, Xanxôn nói, do đó dễ nhìn thấy những thiếu sót, và tác giả càng có tiếng tăm thì người đọc càng khắt khe. Những người nổi danh vì tài, những nhà thơ lớn, những sử gia danh tiếng thường phải chịu sự ghen ghét của những người lấy việc nhận xét các tác phẩm của người khác làm thú vui duy nhất, trong khi bản thân họ không đẻ ra được một cái gì.

- Điều đó không lạ, Đôn Kihôtê nói, vì có nhiều nhà thần học lên bục giảng thì tồi nhưng lại rất giỏi phát hiện ra sai sót của những người giảng thay cho họ.

- Tất cả những điều ngài nói đều đúng, Caraxcô nói, song tôi mong muốn các nhà phê bình đó rộng lượng hơn và bớt khắt khe, đừng quá chú trọng tới những thiếu sót vụn vặt trong khi nhận xét một tác phẩm chói lọi như mặt trời. Ômêrô [SUP]13[/SUP] cũng có lúc nhầm lẫn, nhưng phải thấy rằng ông đã cố giữ được tỉnh táo để hạn chế tối đa những thiếu sót trong tác phẩm của mình. Và cũng có thể những điểm họ cho là dở lại giống như những nốt ruồi, đôi khi làm tôn vẻ đẹp của khuôn mặt lên. Cho nên người làm một cuốn sách gặp nhiều may rủi vì không tài nào biên soạn cho vừa lòng mọi độc giả được.

- Chắc là người viết về tôi chỉ làm vừa lòng một số ít người thôi, Đôn Kihôtê nói.

- Trái lại thì đúng hơn, Xanxôn nói. Không sao kể xiết những người yêu thích cuốn sách đó. Cũng có một số người chê trách trí nhớ của tác giả vì ông quên không nêu rõ tên kẻ cắp đã lấy trộm lừa của Xantrô, đoạn trên vừa bảo Xantrô bị mất trộm, đoạn dưới đã thấy bác cưỡi con lừa đó, không hiểu tìm thấy nó lúc nào. Người ta còn nói tác giả quên không cho biết Xantrô đã sử dụng ra sao khoản một trăm đồng tiền vàng bắt được trong cái rương trên núi Môrêna, và ông không hề nhắc lại chuyện đó. Nhiều người muốn biết bác ta đã dùng số tiền làm gì, tiêu pha những món gi, vì đó là một trong những điểm chủ yếu cần nêu.

Xantrô đáp:

- Thưa ngài Xanxôn, bây giờ không phải lúc để tôi kể lể, tính toán tiền nong. Tôi đang đau bụng, nếu không có hai ngụm rượu lâu năm để chữa chạy thì tôi chỉ còn bộ xương. Rượu có sẵn ở nhà, bu cháu đang chờ kia, ăn xong tôi sẽ trở lại đây và làm thỏa mãn ngài cũng như tất cả những ai muốn hỏi, từ chuyện mất con lừa cho đến việc chi tiêu một trăm đồng tiền vàng.

Rồi không chờ ai trả lời và cũng không thèm nói thêm câu nào, bác trở về nhà.

Đôn Kihôtê khẩn khoản mời cậu Tú ở lại xơi bữa cơm nhạt với chàng. Cậu Tú nhận lời ngồi lại. Bữa ăn có thêm đôi chim câu nhỏ; hai người vừa ăn vừa bàn chuyện kiếm hiệp, có vẻ tâm đắc lắm. Xong bữa, họ làm giấc ngủ trưa. Lát sau, Xantrô quay trở lại và cuộc đàm thoại tiếp diễn.


--------------------------------
1Một nhân vật xưa, có sức khỏe vô địch.
2Một thành phố ở Bỉ.
3Người khổng lồ có một trăm cánh tay trong thần thoại Hy Lạp.
4Chương XX, tập I.
5Chương XVIII, tập I.
6Chương XIX, tập I.
7Chương XXII, tập I.
8 Chương VIII, tập I.
9Chương XV, tập I.
10Chương XVII, tập I.
11Tộc trưởng Do Thái, sống 969 năm.
12Một kiểu chữ cổ.
13Nhà thơ Hy Lạp nổi tiếng, sống ở thế kỷ IX trước Công nguyên.


 
5,624
9
38

metyruoi

Active Member
Ðề: Đôn Kihôtê - Nhà Quý Tộc Tài Ba Xứ Mantra - Miguel De Cervantes

Chương IV

XANTRÔ PANXA GIẢI ĐÁP NHỮNG CÂU HỎI THẮC MẮC CỦA CẬU TÚ XANXÔN CARAXCÔ, CÙNG NHỮNG CHUYỆN ĐÁNG BIẾT VÀ ĐÁNG KỂ RA ĐÂY.


Xantrô Panxa trở lại nhà Đôn Kihôtê và tiếp tục cuộc nói chuyện, bác bảo:

- Ngài Xanxôn có ý muốn biết ai lấy trộm con lừa của tôi, như thế nào và lúc nào. tôi xin trả lời: sau khi xảy ra chuyện không may với đám tội nhân và chuyện khiêng xác người chết đến Xêgôvia, ngay đêm đó, thầy trò tôi rút vào núi Môrêna để trốn tránh đội cảnh sát Xanta Ermanđát. Tới một khu rừng rậm, ông chủ tôi ngồi tựa người vào ngọn giáo, tôi ngã mình trên lưng con lừa, mệt mỏi và đau dừ sau những trận đọ sức đã qua, rồi cả hai ngủ như thể nằm trên bốn chiếc đệm nhồi lông chim vậy. Riêng tôi ngủ như chết, giá có ai lại gần chống bốn đầu gậy vào bốn góc chiếc yên tôi đang cưỡi rồi kéo con lừa ra, tôi cũng chẳng hay.

- Việc đó dễ làm và không phải điều gì mới mẻ, Đôn Kihôtê nói. Xacripantê cũng đã gặp trường hợp này trong trận hãm thành Albraca khi tên trộm khét tiếng Brunêlô dùng cách đó kéo con ngựa ra khỏi đùi chàng.

Xantrô kể tiếp:

- Trời sáng, tôi mới cựa mình thì ngã vật xuống đất vì không có gậy đỡ. Tôi tìm lừa những chẳng thấy. Nước mắt tôi ứa ra và tôi kêu khóc thảm thiết, nếu tác giả cuốn sách không kể lại tức là đã bỏ mất đoạn hay. Sau bao nhiêu ngày tôi chẳng nhớ, khi đi hầu công chúa Micômicôna, tôi đã bắt gặp con lừa của tôi. Người cưỡi nó là tên Hinêx đê Paxamôntê trong bộ quần áo bôhêmiêng, tên đại gian đại ác đã được thầy trò tôi giải thoát khỏi xiềng xích.

- Đoạn này không có gì sai cả, cậu Tú nói; tácgiả chỉ sai khi viết rằng Xantrô cưỡi con lừa đó khi bác chưa tìm thấy nó.

- Cái đó thì tôi chịu, không biết trả lời ra sao, Xantrô đáp. Chắc ông sử gia nhầm, hoặc giả nhà in sơ suất.

- Chắc chắn như vậy, Xanxôn nói. Thế còn khoản một trăm đồng tiền vàng, bác đã sử dụng ra sao? Có tiêu pha hết không?

- Tôi tiêu cho bản thân, cho vợ, cho con tôi. Nhờ có món tiền đó mà vợ tôi đã bền gan chờ trong khi tôi đi khắp các nẻo đường hầu hạ ông chủ Đôn Kihôtê của tôi. Nếu sau một thời gian dài như vậy, tôi trở về nhà không có nén bạc, không có lừa, chắc chắn tôi sẽ gặp chuyện chẳng lành. Nào còn hỏi gì nữa không? Dù Đức Vua ở đây, tôi cũng sẵn sàng trả lời. Đừng ai dính dáng gì vào công việc của tôi, tôi mang gì về nhà, tôi tiêu gì, mặc tôi. Nếu những roi đòn mà tôi phải chịu đựng trong những chuyến đi có thể tính trả bằng tiền, thêm một trăm đồng vàng cũng chưa đủ chi phí cho một phần nửa số roi đòn đâu, dù chỉ tính bốn xu một roi. Ai nấy hãy tự xét mình trước, đừng nghĩ trắng thành đen, đen thành trắng. Con người ta mỗi người có một tính nết, chán vạn kẻ còn tồi tệ hơn cơ.

- Tôi sẽ nhắc tác giả đừng quên những lời bác Xantrô vừa nói một khi tái bản cuốn sách, để cho tác phẩm tăng thêm phần giá trị, Xanxôn nói.

- Thưa ông Tú, chẳng hay còn điểm gì cần phải sửa trong cuốn sách đó nữa không? Đôn Kihôtê hỏi.

- Chắc còn, Xanxôn đáp, nhưng không quan trọng như những điểm vừa nêu ra.

- Thế tác giả có hứa ra phần hai không? Đôn Kihôtê hỏi.

- Có hứa, Xanxôn đáp; nhưng ông ta nói là chưa tìm thấy phần này và cũng không biết ai giữ. Cho nên chúng ta chưa biết chắc chắn phần sau có ra hay không. Vì lẽ đó và vì nhiều người nói rằng: "Phần hai bao giờ cũng dở", "Những điều đã viết về Đôn Kihôtê đủ rồi", người ta sẽ ngờ rằng không có phần thứ hai. Tuy nhiên, những người vui nhộn lại nói: "Hãy kể thêm những mẩu truyện về Đôn Kihôtê; Đôn Kihôtê hãy hành động đi, Xantrô nói đi, dù thế nào chúng tôi vẫn thích...".

- Tác giả định thế nào?

- Ông ta đang khẩn trương tìm kiếm phần hai. Xanxôn đáp, khi nào thấy sẽ đưa đi in ngay. Ông ta ham kiếm món lợi nhuận do cuốn sách mang lại hơn là những lời khen.

Nghe thấy vậy, Xantrô liền nói:

- Tác giả hám tiền ư? Thế thì làm sao sách có thể hay được! Ông ta sẽ làm ẩu, làm ẩu, giống như thợ may trước ngày lễ Phục sinh vậy. Những công việc làm vội vàng không khi nào đạt tới sự hoàn hảo mong muốn đâu. Ông tác giả Môrô nào đó hãy để tâm vào việc làm của mình, tôi và ông chủ tôi sẽ cũng cấp ngay và đầy đủ cả đống chuyện phiêu lưu và bao nhiêu sự việc khác khiến ông ta không những soạn xong phần thứ hai mà còn có thể soạn tới phần thứ một trăm. Dễ thường ông ta cho rằng thầy trò chúng tôi ngủ trên đệm rơm chắc. Cứ tưởng sung sướng lắm đây, biết đâu gian khổ quá chừng. Có điều tôi muốn nói là nếu như ông chủ tôi nghe lời tôi khuyên nhủ, lúc này đây thầy trò tôi đang rong ruổi trên các cánh đồng, đi trả thù cho những ai bị xúc phạm và uốn nắn những sai trái theo phong tục tập quán của các hiệp sĩ giang hồ danh tiếng.

Xantrô nói chưa dứt lời bỗng nghe đâu con Rôxinantê hí vang. Đôn Kihôtê coi đó là điềm đại cát, và chàng quyết định trong ba bốn ngày tới sẽ làm một cuộc xuất hành mới. Chàng ngỏ ý trước với cậu Tú và yêu cầu cậu cho ý kiến nên đến nơi nào trước. Cậu Tú đáp: "Theo ý tôi, ngài nên đến tỉnh Xaragôxa ở vương quốc Aragôn. Trong ít bữa nữa, tại đó sẽ tổ chức hội đấu thương rất long trọng nhân ngày lễ thánh Horhê. Ngài sẽ trở nên lừng danh vì nếu ngài đánh bại tất cả các hiệp sĩ của vương quốc này tức là ngài đã đánh bại tất cả các hiệp sĩ trên đời". Cậu ca ngợi quyết định vô cùng thỏa đáng và dũng cảm của Đôn Kihôtê, căn dặn chàng phải thận trọng hơn mỗi khi lao vào chốn gian nguy,bởi vì cuộc đời chàng không thuộc về chàng mà thuộc về tất cả những ai cần tới sự cứu trợ của chàng trong cơn hoạn nạn.

Nghe tới đây, Xantrô nói với Xanxôn:

- Tôi cũng thường chê trách ông chủ tôi điều này. Có khi ngài đánh cả một trăm người có vũ khí như thằng bé tham ăn đánh nửa tá dưa hấu vậy. Đánh nhau có lúc tiến, lúc thoái, đâu phải lúc nào cũng hô: "Cầu thánh Điêgô đóng chặt nước Tây Ban Nha" [SUP]1[/SUP]. Hơn nữa, nếu tôi nhớ không nhầm, hình như chính ông chủ tôi nói rằng sự dũng cảm đứng giữa hèn nhát thái quá và mạo hiểm thái quá. Nếu quả như vậy, tôi không muốn ông chủ tôi chạy trốn một cách vô lý hoặc xông lên một cách điên rồ. Và tôi cũng xin lưu ý ông chủ tôi rằng nếu muốn tôi đi cùng thì phải với điều kiện sau đây: đánh nhau hoàn toàn là việc của ngài, tôi chăm lo ăn uống, tắm giặt cho ngài, muốn sao được vậy. Còn như nghĩ rằng tôi cũng phải tuốt gươm ra, dù để đấu với bọn súc sinh vô lại có vũ khí, tức là đòi hỏi tôi làm một việc quá sức. Thưa ông Xanxôn, tôi không cầu được tiếng là dũng cảm mà chỉ muốn là người giám mã tài giỏi nhất và trung thành nhất của một hiệp sĩ giang hồ. Và nếu ông chủ Đôn Kihôtê của tôi có nghĩ tới công lao hầu hạ và ban cho tôi một trong số rất nhiều hòn đảo mà ta sẽ gặp - như ngài thường nói, - tôi xin đội ơn. Còn nếu ngài không cho, tôi vẫn sống được trên đời này. Con người ta không nên sống nhờ vào kẻ khác, chỉ nên nhờ vào Chúa thôi. Vả chăng, bánh mì củ cải thường dân cũng ngon chẳng kém bánh mì của thống đốc trên những hòn đảo đó , lại bị quỷ nó ngáng chân, ngã dúi dụi, gẫy cả răng. Tôi sinh ra là Xantrô, tôi muốn lúc chết vẫn là Xantrô. Tuy nhiên, nếu không phải cầu cạnh khó nhọc gì nhiều, lại được trời ban cho một hòn đảo hoặc một món gì tương tự, tôi không dại dột chối từ. Người ta thường có câu: "Khi ai cho con bò, kiếm ngay thừng buộc nó lại" và "Khi điều lành tới, hãy cất vào nhà".

- Người anh em nói năng như một giáo sư đại học vậy, Caraxcô nói. Hãy tin tưởng vào Chúa và vào ngài Đôn Kihôtê đây; ngài sẽ ban cho cả một vương quốc chứ chẳng phải một hòn đảo đâu.

- Vương quốc hay hòn đảo đều được cả, Xantrô đáp. Xin thưa với ngài Caraxcô: nếu ông chủ tôi cho tôi một vương quốc, ông không vứt nó cho một cái túi thủng đâu. Tôi đã tự bắt mạch và nhìn thấy còn đủ sức để cai trị các vương quốc và các hòn đảo. Tôi đã nhiều lần nói thế với ông chủ tôi.

- Xantrô hãy coi chừng, Caraxcô nói. Chức tước làm thay đổi tính nết con người ta. Một khi làm thống đốc, có thể bác sẽ không nhận người mẹ sinh ra bác nữa đâu.

- Điều đó xảy ra với những kẻ xấu xa, Xantrô đáp, nhưng không thể đến với những người có lòng và có đạo gốc như tôi. Không tin ư! Hãy thử xem tôi có ăn ở bất nhân bạc ác với ai không?

- Hãy để Chúa làm việc đó, Đôn Kihôtê nói; Người sẽ cho biết khi nào anh trở thành thống đốc. Ta tưởng như đã thấy được trước mặt rồi đấy.

Nói rồi, chàng hiệp sĩ hỏi cậu Tú có biết làm thơ không, nếu có, xin hãy giúp một vài câu thơ để chàng ngâm trong lúc từ biệt nàng Đulxinêa làng Tôbôxô; chàng muốn rằng mỗi câu thơ bắt đầu bằng một chữ của tên nàng, khi hoàn thành bài thơ, chắp các chữ đầu mỗi câu thơ sẽ thành tên: "Đulxinêa làng Tôbôxô". Cậu Tú đáp: "Tôi không nằm trong số những nhà thơ nổi danh ở Tây Ban Nha - vì người ta đồn là cả nước chỉ có ba người rưỡi giỏi thơ, - nhưng cũng xin làm bài thơ đó. Tuy nhiên, việc này khó lắm vì tên mỹ nhân gồm mười bảy chữ, nếu làm bốn đoạn, mỗi đoạn bốn câu sẽ thừa một chữ, nếu làm mỗi đoạn năm câu lại thiếu ba chữ. Nhưng thôi được, tôi sẽ tìm cách ẩn một chữ khiến cho tên Đulxinêa làng Tôbôxô ăn khớp với mười sáu câu thơ.

- Làm như vậy phải thôi, Đôn Kihôtê bảo, vì một khi không nhận ra tên của mình trong thơ, không một người đàn bà nào lại nghĩ rằng bài thơ đó dành riêng cho mình.

Sau khi đã thỏa thuận với nhau về bài thơ, và ngày xuất hành - tức tám ngày sau - Đôn Kihôtê dặn cậu Tú phải giữ kín việc này, không cho ai biết, nhất là Cha xứ, bác phó cạo Nicôlax, cô cháu gái và bà quản gia, để họ không cản trở những quyết định dũng cảm và đáng ca ngợi của chàng. Caraxcô hứa sẽ làm đúng như vậy. Trước khi ra về, cậu còn dặn Đôn Kihôtê khi nào có dịp nhớ báo cho biết tình hình tốt xấu ra sao, sau đó hai người chia tay nhau, Xantrô cũng đi chuẩn bị cho chuyến xuất hành sắp tới.

--------------------------------
1. Tiếng hô xung trận của binh sĩ Tây Ban Nha, Đôn Kihôtê sẽ giải thích rõ hơn ở chương LXII.
 
Top